intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài chính Việt Nam - 70 năm trưởng thành và phát triển qua một số tư liệu và hình ảnh: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

13
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trải qua 70 năm xây dựng và phát triển, ngành Tài chính Việt Nam vinh dự và tự hào nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sắc của nhiều thế hệ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ...Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 2 cuốn sách "70 năm Tài chính Việt Nam trưởng thành và phát triển qua một số tư liệu và hình ảnh" dưới đây!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài chính Việt Nam - 70 năm trưởng thành và phát triển qua một số tư liệu và hình ảnh: Phần 2

  1. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
  2. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Hồ Tế Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính N gành Tài chính Việt Nam chính thức ra đời ngày 28/8/1945 cùng với sự ra đời của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trải qua chặng đường phấn đấu và thử thách, ngành Tài chính đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, góp phần hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và cải thiện đời sống nhân dân. Trong những ngày đầu của Cách mạng, tình hình đất nước gặp muôn vàn khó khăn, vừa chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, vừa xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, trong khi ngân quỹ Trung ương có vẻn vẹn 1.200.000 đồng Đông Dương đã đặt ra cho ngành Tài chính nhiều nhiệm vụ rất cấp bách và nặng nề. Ngành Tài chính đã giúp Chính phủ sử dụng nguồn vốn huy động được để giải quyết các nhu cầu chi tiêu to lớn để tổ chức bộ máy Nhà nước cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đất nước ta bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Với đường lối và chủ trương cụ thể trong giai đoạn cách mạng mới mà Đảng đã đề ra, ngành Tài chính đã đề xuất và được Nhà nước cho thi hành một số biện pháp tạm thời về thuế đối với vùng mới giải phóng, đồng thời tiến hành việc thu đổi tiền Đông Dương, phát hành đồng tiền ngân hàng của ta trong 74 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  3. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN vùng mới giải phóng... Năm 1975 thắng lợi lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của lịch sử Việt Nam. Cả nước bước vào thời kỳ xây dựng CNXH với những thuận lợi mới, song cũng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Phương hướng, nhiệm vụ của tài chính quốc gia trong thời kỳ này là từng bước thực hiện quản lý tập trung, thống nhất các nguồn thu, chi tài chính theo chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chung của Nhà nước, bảo đảm trách nhiệm và tính chủ động của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, cải tiến quan hệ giữa tài chính nhà nước, tài chính xí nghiệp và tín dụng ngân hàng. Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính. Sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI), với chủ trương kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế - tài chính nước ta đã có những chuyển biến tích cực, cơ chế thị trường từng bước hình thành thay thế dần cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong giai đoạn 1986 – 1990, các chế độ thu quốc doanh, các pháp lệnh về thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp được bổ sung sửa đổi, hệ thống thu ngân sách được cải cách, các bộ luật thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế được xây dựng và hoàn thiện từng bước. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, chính sách động viên tài chính không ngừng được hoàn thiện đi đôi với chế độ quản lý xí nghiệp từng bước được chấn chỉnh. Những bổ sung, sửa đổi chế độ thu quốc doanh và trích nộp lợi nhuận trong giai đoạn này là bước chuyển tiếp dẫn đến sự ra đời các luật thuế chung, có hiệu lực thi hành từ 1/10/1990. Giai đoạn 1991 - 1995, thực hiện đường lối tiếp tục đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng đề ra tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII, ngành Tài chính đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh với nhiều sắc thuế khác nhau, đã bao quát phần lớn các nguồn thu và diện thu. Tổ chức bộ máy thu thuế được thiết lập lại theo một hệ thống thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Số thu từ thuế và phí vào NSNN tăng nhanh qua các năm, cùng với việc mở rộng diện thu và tăng cường công tác chống thất thu, công tác quản lý, cấp phát chi NSNN cũng được đổi mới theo hướng tập trung các khoản chi đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình then chốt, chú trọng các khoản chi trả nợ, chi dự trữ nhà nước và các khoản chi cho các yêu cầu về đầu tư cho y tế, giáo dục và đào tạo. Hệ thống Kho bạc Nhà nước ra đời năm 1990 đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều hành và quản lý NSNN. Công tác phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương đã có những bước tiến rõ rệt, đã chú trọng đến các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi và hải đảo, bảo đảm 75 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  4. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương trong khi vẫn giữ vị trí chủ đạo của ngân sách trung ương. Trong giai đoạn từ 1991- 2000 - giai đoạn đầu của thời kỳ đất nước đổi mới và mở cửa, hệ thống tài chính của cơ chế kinh tế mới - thời mở cửa, hội nhập đã được tạo dựng. Tài chính đã từng bước làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Có thể đánh giá những thành tựu đã đạt được của ngành Tài chính trong giai đoạn đầu thời kỳ đất nước đổi mới và mở cửa như sau: Trước hết, cùng với sự đổi mới tư duy quản lý kinh tế, những nhận thức mới về hoạt động tài chính trong quá trình cải cách kinh tế và xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được hình thành. Mạnh dạn dứt bỏ tư duy về một nền tài chính của kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta đã đổi mới nếp nghĩ, cách làm. Hình thành mới quan điểm về động viên và phân phối nguồn lực, đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội. Từ bỏ phương thức quản lý nền tài chính bằng biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh chuyển sang quản lý và điều hành tài chính, tiền tệ bằng luật pháp, bằng biện pháp kinh tế, bằng công cụ và đòn bẩy kinh tế. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ về tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, các cấp ngân sách, các đơn vị thụ hưởng ngân quỹ đã được xác lập và tăng cường, tạo điều kiện phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Ngành Tài chính chăm lo phát huy sức mạnh nguồn lực trong nước, giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài. Tranh thủ tối đa nguồn lực nước ngoài cho đầu tư phát triển, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị, mở rộng quan hệ về hợp tác kinh tế với tất cả các nước. Trong quản lý chi NSNN và sử dụng nguồn lực, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là giảm dần sự bao cấp của Nhà nước, trước hết là chế độ bao cấp đối với các doanh nghiệp, các hoạt động sự nghiệp công. Chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, văn hóa và nhiều hoạt động mang tính xã hội khác... đã khơi dậy và cuốn hút nhiều nguồn lực, tài trí trong dân, trong xã hội, trong nước và cả ở nước ngoài. Phạm vi bao cấp từ NSNN dần được thu hẹp và xóa bỏ, phạm vi trang trải của NSNN đang được xác lập, phù hợp hơn. Quan điểm về tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đã được đổi mới cả trong tư duy và cách làm, cách thức huy động vốn cho đầu tư phát triển, cách thức cấp phát theo dự án, khoán chi, kiểm soát chi, biện pháp bù đắp bội chi NSNN. Ngay từ đầu năm 1992, chúng ta chấm dứt phát hành tiền để bù đắp bội chi NSNN, chấm dứt vay nợ cho chi thường xuyên. Điều quan trọng là chức năng tài chính trong kinh tế thị trường đã được nhận thức rõ hơn, mới 76 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  5. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN hơn, không chỉ đơn thuần phân phối và giám sát các nguồn lực, mà còn tổ chức lưu chuyển thông thoáng, có chủ định các nguồn lực trong toàn bộ nền tài chính quốc gia, gồm cả tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư, trong một nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu cùng vận hành, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thứ hai, bằng những chủ trương, chính sách đúng đắn, bằng sự nỗ lực của toàn ngành Tài chính, chúng ta đã động viên hợp lý sức người, sức của trong cả nước, thu hút có chủ định các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế, xây dựng nước Việt Nam XHCN giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thu, chi NSNN tăng đều qua các năm. So với năm trước, thu NSNN năm 1996 tăng 16,9%; năm 1997 tăng 4,8%; năm 1998 tăng 8%; năm 1999 tăng 8%. Tổng mức đầu tư toàn xã hội đã đạt trên 100 nghìn tỷ đồng, bằng 27% GDP. Thứ ba, vấn đề cốt lõi là thiết lập và hoàn thiện từng bước hệ thống pháp lý và hệ thống chính sách tài chính. Bộ Tài chính đã nghiên cứu xây dựng chính sách tài chính làm căn cứ chiến lược chỉ đạo và điều hành công tác tài chính. Các quy định pháp lý về chính sách tài khóa, về NSNN, về thuế đã được ban hành. Luật NSNN có hiệu lực thi hành từ 1/1/1997 đã đảm bảo quản lý thống nhất NSNN, ngân quỹ quốc gia, quy định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của các ngành, các cấp trong quy trình quản lý và điều hành NSNN, góp phần khơi dậy mọi tiềm năng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế. Khuôn khổ pháp lý về thuế đã không ngừng được cải cách. Trong chương trình cải cách thuế bước 2, nhiều luật thuế đã được ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi. Đặc biệt là sự ban hành mới Luật thuế Giá trị gia tăng và Thu nhập doanh nghiệp là bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thuế Việt Nam, góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, chuẩn bị điều kiện tiền đề cho Việt Nam hội nhập về kinh tế với các nước. Thứ tư, với nhận thức, kinh tế là gốc của tài chính, nền tài chính mạnh là nền tài chính được vận hành trong một nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy, trong suốt mười năm đổi mới, tài chính Việt Nam luôn hướng về phục vụ, khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển. Từ nền kinh tế chỉ huy, từ NSNN bao cấp, chúng ta đã thành công trong việc xoá bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, sắp xếp lại DNNN, giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế, lợi ích tài chính. Nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm cả kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế liên doanh, liên kết, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại và kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển trước sự bình đẳng của luật pháp và sự công bằng của chính 77 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  6. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN sách tài chính. Ngành Tài chính đã chủ động trong lộ trình hội nhập, tham gia tích cực trong các quan hệ kinh tế tài chính song phương và đa phương. Việt Nam đã gia nhập AFTA, APEC, là thành viên của Liên đoàn Kế toán các nước ASEAN (AFA), thành viên của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC). Bằng chính sách tài chính linh hoạt, thích hợp, tháo gỡ từng vướng mắc, chúng ta đã mở cửa thu hút khối lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài và tăng kim ngạch xuất khẩu. Thứ năm, nhận thức rõ tiết kiệm là quốc sách, không chỉ chăm lo cho sản xuất phát triển, chăm lo động viên nguồn lực tài chính, mà còn coi trọng phân phối, sử dụng nguồn lực sao cho có hiệu quả, tiết kiệm. Thi hành Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, ngành Tài chính đã triển khai hàng loạt biện pháp tiết kiệm trong sản xuất, trong chi tiêu NSNN, quỹ công, trong tiêu dùng của dân cư. Hàng trăm tỷ đồng đã được tiết kiệm, dành ra để chi dùng cho những nhiệm vụ đột xuất, cho đầu tư, cho xoá đói, giảm nghèo... Thứ sáu, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý điều hành của ngành Tài chính. Hệ thống tổ chức bộ máy ngành Tài chính đã không ngừng được, đổi mới, năng lực cán bộ ngành Tài chính không ngừng được hoàn thiện, nâng cao, đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Công tác hoạch định chính sách tài chính được tách dần khỏi các đơn vị điều hành và quản lý tài chính. Hệ thống thuế được tổ chức lại theo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến địa phương, phân chia rõ 3 bộ phận trong ngành Thuế, đảm bảo hành thu và kiểm tra việc thu thuế. Thực hiện Nghị quyết Trung ương VII, ngành Tài chính đã sắp xếp, tổ chức lại hệ thống quản lý tài chính chuyên ngành, bao gồm cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng cục Đầu tư phát triển, tiến hành một bước kiện toàn bộ máy của cơ quan thanh tra tài chính, bộ phận hợp tác quốc tế, hội nhập... Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tài chính ngày càng được tăng cường cả về số lượng, chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn và năng lực quản lý cho cán bộ, công chức đã được quan tâm đúng mức. Từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý. Phẩm chất cán bộ tài chính thể hiện rõ qua sự tận tụy, không kể ngày đêm, bám sát nguồn thu, trăn trở cùng đối tượng thu, đơn vị thụ hưởng sao cho thu đúng, thu đủ, chi kịp thời, đúng mục đích, có hiệu quả. Hàng trăm đơn vị, hàng nghìn cá nhân trong Ngành đã được nhận các phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội. Từ thực tế những gì đã làm, đã làm được, từ những thành tựu của 70 năm qua, đặc biệt là của 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước (từ 1991- 2000) 78 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  7. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN và cả những việc làm chưa thành công, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quan trọng về hoạt động và công tác của ngành Tài chính, trong đó, tôi cho rằng bài học đầu tiên và quan trọng nhất chính là phải luôn thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, về độc lập dân tộc và CNXH, luôn bám sát và kiên trì chủ trương của Đảng, của Nhà nước về đổi mới quản lý kinh tế, tài chính. Thực tế đã chỉ rõ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước là thiết lập và vận hành ở Việt Nam nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Bám sát chủ trương này, mọi chính sách tài chính, mọi việc làm của ngành Tài chính đã và sẽ phục vụ tốt nhất cho chính sách kinh tế trong tiến trình đổi mới, huy động tốt nhất mọi tiềm năng trong cả nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho huy động nguồn lực từ bên ngoài mang lại cho nền kinh tế nước ta sự phát triển, năng động mới. Ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành Tài chính càng thêm tự hào và phấn khởi nhìn đến tương lai, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước và nhân dân giao cho. 79 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  8. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Quy (thứ tư hàng đầu, từ phải sang) cùng đoàn công tác Bộ Tài chính tại Cuba (năm 1993) Nguyên Thứ trưởng Phạm Thị Mai Cương (giữa), nguyên Thứ trưởng Phan Văn Dĩnh (thứ 2 từ phải sang), Thứ trưởng Trương Chí Trung (ngoài cùng bên trái) và các đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu toàn quốc nữ công chức ngành Thuế Nhà nước lần thứ nhất (năm 2002) 80 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  9. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng và nguyên Bộ trưởng Hoàng Anh (giữa), nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy (thứ 2 từ phải sang) cùng một số cán bộ cơ quan Bộ Tài chính (năm 2002) Thứ trưởng Trần Văn Tá (thứ 3 từ trái sang), Thứ trưởng Vũ Mộng Giao (thứ 4 từ phải sang) và các đại biểu tại Lễ kỷ niệm 45 năm thành lập Vụ Chế độ Kế toán (năm 2002) 81 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  10. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và các đồng chí lãnh đạo Bộ Tài chính qua các thời kỳ tại lễ kỷ niệm Ngày Truyền thống Văn phòng cơ quan hành chính nhà nước 28/8 (năm 2004) Nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và các đồng chí lãnh đạo Bộ, nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính, nguyên lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ tại Tọa đàm Lịch sử 60 năm thành lập và phát triển ngành Tài chính Việt Nam (năm 2005) 82 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  11. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Bộ trưởng Hoàng Quy (thứ 6 từ trái sang) và các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính tại Đại hội điển hình tiên tiến và Kỷ niệm 15 năm thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước (năm 2005) Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, nguyên Bộ trưởng Hoàng Anh, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế và một số đồng chí nguyên thứ trưởng, thứ trưởng Bộ Tài chính cùng một số cán bộ công chức Bộ Tài chính chụp ảnh lưu niệm (năm 2007) 83 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  12. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng trao tặng các phần thưởng cao quý của Nhà nước cho các đồng chí nguyên lãnh đạo Bộ Tài chính và lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ qua các thời kỳ (tháng 8/2010) Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Vũ Văn Ninh, nguyên Bộ trưởng Hồ Tế tại lễ cắt băng khánh thành Phòng Truyền thống ngành Tài chính (tháng 8/2010) 84 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  13. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH TỰU TÀI CHÍNH - NGÂN SÁCH QUA 30 NĂM ĐỔI MỚI T ừ sau năm 1986, khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, công tác tài chính - ngân sách trải qua 30 năm đã thu được những thành tựu vượt bậc: Hệ thống chính sách động viên ngân sách nhà nước được rà soát và hoàn thiện; điều hành tài chính - ngân sách linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô; tiềm lực tài chính - ngân sách không ngừng được tăng cường... Những thành tựu lớn đó là: Hệ thống chính sách động viên ngân sách được rà soát và hoàn thiện Sau 30 năm đổi mới, hệ thống chính sách quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) đã từng bước được hoàn thiện. Bộ Tài chính đã xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi năm 1998 và 2002), theo đó phân định rõ về nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc lập, phê chuẩn và quyết toán NSNN; thực hiện thay đổi một cách căn bản phương thức quản lý NSNN. Tiếp đó, việc hoàn chỉnh các cơ chế, chính sách thuế, hải quan, kho bạc đã được chú trọng, làm đòn bẩy kích thích và hướng dẫn sản xuất, kinh doanh; bảo đảm nguồn thu ngân sách và điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội; xây dựng bộ máy và phương thức thu ngân sách có hiệu lực, hiệu quả; đánh giá đúng và khai thác, sử dụng có hiệu quả tài sản, tài nguyên quốc gia, nâng dần tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách. Đặc biệt, cải cách hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách đã thể hiện tính tiên phong đi đầu trong quá trình đổi mới. Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hệ thống chính sách thuế đã được quy định khá đầy đủ, rõ ràng, công 85 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  14. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN khai, minh bạch, bao quát hết các nguồn thu chủ yếu của NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và đảm bảo nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Điều hành tài chính - ngân sách linh hoạt, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước Trong giai đoạn 1986 - 1990, chi NSNN đã tăng cao trong khi nguồn thu lại khan hiếm, làm thâm hụt NSNN, do đó, chính sách tài khóa đã được điều hành theo hướng ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực thiết yếu, trọng điểm của nền kinh tế, phục vụ quốc kế dân sinh. Bước vào giai đoạn từ năm 1991 - 1995, tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hóa đã có động lực mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát phi mã đã được đẩy lùi nhưng lạm phát cao vẫn còn, điều hành chính sách thu - chi NSNN theo hướng thay đổi chi theo hướng tích cực, tăng cường nguồn thu trong nước để đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Giai đoạn 2006 - 2008, khi lạm phát tăng lên hai con số và nền kinh tế cần phải xử lý một số bất ổn vĩ mô, chính sách tài khóa đã được điều chỉnh theo hướng thận trọng; tập trung vào việc tăng cường, kiểm soát chặt chẽ và nâng cao hiệu quả chi tiêu công; giảm chi phí hành chính, giảm nhập siêu... Ngược lại, đến giai đoạn 2008 - 2010, chính sách tài khóa được nới lỏng thông qua kích thích đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Nhờ đó đã đưa Việt Nam thoát khỏi tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới. Đến giai đoạn 2011 - 2015, kinh tế thế giới do tác động của cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp, bất ổn chính trị trên thế giới… khiến các doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn. Do vậy, chính sách tài khóa giai đoạn này đã được điều hành theo hướng chặt chẽ, triệt để tiết kiệm, hiệu quả và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (năm 2012 và 2013), giảm nợ xấu, giúp doanh nghiệp quay vòng nhanh sản xuất, kinh doanh. Tiềm lực tài chính - ngân sách được tăng cường Qua gần 30 năm đổi mới, quy mô thu NSNN đã tăng dần theo các năm. Theo tính toán của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN năm 2000 bằng 8,77 lần so với năm 1991; năm 2010 bằng 5,67 lần so với năm 2001 và năm 2015 bằng khoảng 1,3 lần so với năm 2011. So với GDP (theo giá hiện hành), tỷ lệ huy động vào thu NSNN bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 20,5% GDP, 86 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  15. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Khánh thành 3 công trình trọng điểm trên địa bàn Thủ đô. Sáng 4/1/2015, Bộ GTVT tổ chức khánh thành 3 dự án giao thông lớn trên địa bàn Hà Nội, gồm: Nhà ga T2 Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài; cầu Nhật Tân và đường dẫn; đường nối cầu Nhật Tân đến sân bay Nội Bài. Đây là những dự án trọng điểm quốc gia, được đầu tư bằng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước. Trong ảnh: cầu Nhật Tân là một trong 3 cây cầu có số nhịp dây văng lớn nhất thế giới. Ngày 10/3/2002, Tổ hợp khí - điện - đạm Cà Mau được khởi công xây dựng tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Tổ hợp tác động trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 87 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  16. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN trong đó huy động từ thuế và phí là 18,4% GDP; giai đoạn 2001 - 2010 các tỷ lệ này lần lượt là 25,5% GDP và 22,4% GDP; giai đoạn 2011 - 2015 là 22 - 23% GDP. Cùng với sự mở rộng về quy mô, cơ cấu thu ngân sách cũng được cải thiện theo hướng bền vững hơn. Thu NSNN từ các sắc thuế gắn trực tiếp với sản xuất, kinh doanh trong nước trong tổng thu ngân sách ngày càng tăng và đóng vai trò quan trọng trong tổng thu NSNN. Cụ thể, trong giai đoạn 1991 - 2015, tỷ trọng thu thuế thu nhập DN trong tổng thu NSNN đã tăng từ 21,4% năm 1991 lên 24,9% năm 2015 (theo số dự toán); thuế thu nhập cá nhân từ 0,6% lên 5,62% (theo số dự toán); thuế giá trị gia tăng từ 19,6% lên hơn 30,9% (theo số dự toán)... Kết quả này đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tích luỹ nền kinh tế ngày càng mở rộng. Cơ cấu thu đã có chuyển biến tích cực và bền vững: Tỷ trọng số thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng lên từ 58,9% giai đoạn 2006 - 2010 lên 67,8% giai đoạn 2011 - 2015 (riêng năm 2015 tỷ trọng này khoảng 70%); tỷ trọng thu dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu trong tổng thu NSNN giảm dần. Cùng với phát triển nguồn thu và chống thất thu NSNN, việc nuôi dưỡng nguồn thu cũng được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tài chính - ngân sách nhằm tăng tính ổn định của nguồn thu trong tương lai. Tổng chi NSNN đã tăng từ 24,4% GDP giai đoạn 1991 - 2000 lên 29,3% GDP giai đoạn 2001 - 2010 và 28,4% giai đoạn 2011 - 2015, trong đó tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN tăng từ 25,9% GDP giai đoạn 1991 - 2000 lên 30% giai đoạn 2001 - 2010. Thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, giai đoạn 2011 - 2015 đã từng bước tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN theo hướng tăng chi cho con người (tăng chi cải cách tiền lương và an sinh xã hội), tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN giai đoạn này đạt khoảng 23%; kể cả nguồn đầu tư từ trái phiếu chính phủ, xổ số kiến thiết, chi đầu tư phát triển giai đoạn này đạt khoảng 30,7% GDP. Bên cạnh đó, qua 30 năm đổi mới, quá trình phân cấp ngân sách đã được hoàn thiện hơn. Phân cấp ngân sách được thực hiện khá sớm theo Nghị định số 168-CP ngày 20/10/1961 của Hội đồng Chính phủ, sau đó được Luật hóa trong Luật NSNN năm 1996, Luật NSNN năm 2002 và Luật NSNN năm 2015. Kết quả là, chính quyền địa phương được quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương trong phạm vi được phân cấp nhằm đảm bảo sự phù hợp với điều kiện của từng địa 88 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  17. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Hầm Thủ Thiêm và toàn tuyến Đại lộ Đông – Tây chính thức thông xe ngày 20/11/2011. Đây là công trình trọng điểm trong hệ thống hạ tầng giao thông đô thị TP. Hồ Chí Minh. Trong ảnh: Đường dẫn vào hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn. Đây là hầm dìm dài nhất Đông Nam Á có tổng chiều dài 1.490m, bề rộng 33m với quy mô 6 làn xe và 2 đường thoát hiểm. Trên toàn tuyến Đại lộ Đông – Tây có tổng cộng 11 cầu, 2 nút giao lớn với tổng chiều dài 3,2km và 8 cầu bộ hành được xây dựng mới. Đường dây 500 KV Bắc - Nam mạch 2. Ngày 23/10/2005, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) chính thức đưa vào vận hành toàn bộ mạch 2 đường dây 500 KV Bắc - Nam, đây là nhân tố quan trọng nhất của hệ thống điện quốc gia với việc hợp nhất lưới điện bền vững ba miền Bắc - Trung - Nam. 89 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  18. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN phương; quyết định định mức phân bổ ngân sách, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách trên cơ sở hướng dẫn và khung quy định do Thủ tướng Chính phủ ban hành; quyết định một số nội dung trong quy trình ngân sách như quyết định phân bổ dự toán, quyết toán ngân sách địa phương. Đồng thời, việc quy định thời kỳ ổn định ngân sách từ 3 - 5 năm, ổn định tỷ lệ phân chia và số bổ sung cân đối trong thời kỳ ổn định ngân sách, trao quyền vay nợ cho chính quyền địa phương trong giới hạn xác định cũng đã giúp chính quyền địa phương phát ngày càng tốt hơn tính chủ động, sáng tạo trong quản lý, khai thác có hiệu quả các nguồn thu, chủ động cân đối ngân sách, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương… Phân bổ các nguồn lực tài chính được đảm bảo theo các ưu tiên; thực hiện công khai, minh bạch; xóa bỏ dần tình trạng bao cấp của NSNN - Vốn đầu tư phát triển từ NSNN đã được tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng, giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, các chương trình mục tiêu quan trọng và vùng trọng điểm, qua đó, tạo sự lan tỏa ra toàn nền kinh tế. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, chi NSNN tập trung ưu tiên bố trí các lĩnh vực: Chi giáo dục đào tạo đạt 20% tổng chi NSNN, chi khoa học công nghệ cơ bản đạt 2%, bảo vệ môi trường đạt 1% và ưu tiên tăng chi quốc phòng, an ninh để đảm bảo giữ vững an ninh, chủ quyền lãnh thổ và trật tự an toàn xã hội. Chi cải cách tiền lương và chi an sinh xã hội cũng là mục tiêu ưu tiên trong bố trí chi NSNN. Giai đoạn 2006 - 2010, nhất là từ năm 2008 khi nền kinh tế nước ta rơi vào nguy cơ suy giảm, lạm phát cao, đời sống nhân dân khó khăn, nhiều chính sách an sinh xã hội được ban hành, mức tăng chi cho an sinh xã hội bình quân trên 33%/năm, cao hơn tốc độ tăng thu, chi NSNN nói chung; đồng thời, NSNN đã dành nguồn để thực hiện 4 lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng giá trong cùng thời kỳ. Giai đoạn 2011 - 2015 nền kinh tế vẫn trong giai đoạn khó khăn, NSNN tiếp tục ưu tiên dành nguồn để thực hiện các chính sách an sinh xã hội và tiếp tục 4 lần điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cao hơn tốc độ tăng giá. Việc thực hiện các chính sách tiền lương và an sinh xã hội đã góp phần cải thiện đời sống người lao động hưởng lương từ NSNN và các đối tượng chính sách, tạo niềm tin của xã hội vào Đảng và Nhà nước. - Việc phân bổ nguồn lực chi NSNN đã hướng tới việc đảm bảo tính hiệu quả, tính công khai, minh bạch và công bằng. Trong đó, phân bổ 90 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
  19. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN Ngày 23/12/2012, thủy điện Sơn La - công trình thủy điện lớn nhất khu vực Đông Nam Á đã chính thức khánh thành tại thị trấn Mường La, tỉnh Sơn La, với công suất lắp đặt 2.400MW (gồm 6 tổ máy), cung cấp hơn 10 tỷ kWh/năm. Công trình thủy điện Sơn La về đích trước thời hạn 3 năm so với dự kiến. Đây là công trình thủy điện do Việt Nam tự thiết kế, thi công. Nhà máy lọc dầu Dung Quất được khánh thành ngày 6/1/2011, theo hình thức Việt Nam tự đầu tư, xây dựng trong Khu kinh tế Dung Quất, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Nhà máy có công suất thiết kế 6,5 triệu tấn sản phẩm/năm, đáp ứng 1/3 nhu cầu trong nước. Ngày 23/1/2015, Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) và Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn công bố dự án nâng cấp, mở rộng nhà máy từ 6,5 lên 8,5 triệu tấn/năm do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam làm chủ đầu tư. Dự án dự kiến hoàn thành và đưa vào vận hành trước năm 2022. 91 QUA MỘT SỐ TƯ LIỆU VÀ HÌNH ẢNH
  20. NGÀNH TÀI CHÍNH HỘI NHẬP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN nguồn lực NSNN đã dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí minh bạch có tính đến đặc thù từng lĩnh vực, vùng, miền và đối tượng… Cùng với đó là quá trình đổi mới tư duy về kinh tế, chính sách chi NSNN cũng trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, phụ thuộc vào các ưu tiên về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. - Xóa bỏ dần tình trạng bao cấp qua DNNN và các đơn vị sự nghiệp công; khuyến khích các đối tượng tham gia đầu tư, giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Chính sách chi ngân sách đã được đổi mới theo hướng giảm dần sự bao cấp của NSNN, đặc biệt là chế độ bao cấp đối với các DNNN và các đơn vị sự nghiệp công. Nhà nước đã thực hiện tách bạch giữa hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh, giữa hoạt động quản lý hành chính và hoạt động sự nghiệp. Theo đó, tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp đối với các DNNN đã dần được phân định rõ; điển hình là Luật số 69/2014/QH13 về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Cơ chế quản lý tài chính khu vực hành chính sự nghiệp cũng được đổi mới nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tiết kiệm chi NSNN để dành nguồn lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đối với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cơ chế khoán chi hành chính đã được thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý hành chính Nhà nước và hỗ trợ quá trình tinh giản biên chế. Đối với các đơn vị sự nghiệp, cơ chế tự chủ về tài chính bên cạnh tự chủ về bộ máy, về nhân lực là động lực thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp đổi mới phương thức hoạt động nhằm cung ứng tốt hơn dịch vụ công cho xã hội. Nhà nước cũng thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế trong việc cung ứng dịch vụ công, tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển thị trường các dịch vụ công, giảm dần sự bao cấp của NSNN. Bên cạnh đó, công tác tài chính - ngân sách đã góp phần ổn định giá cả thị trường, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Sau đổi mới, điều hành NSNN đã đảm bảo nguồn lực để trợ giá, trợ cước một phần cho những mặt hàng cần bình ổn giá, cũng như người dân sinh sống tại các vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc; đảm bảo sự hài hòa trong tiếp cận các hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu; góp phần vào việc bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; khuyến khích phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cơ chế giá 92 70 NĂM TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1