intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên hè 2017 môn Giáo dục mầm non

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

13
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên hè 2017 môn Giáo dục mầm non với chuyên đề nâng cao kỹ năng xử lý các tình huống thường gặp trong trường mầm non. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên hè 2017 môn Giáo dục mầm non

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIA LAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN HÈ 2017 MÔN: GIÁO DỤC MẦM NON Chuyên đề: NÂNG CAO KỸ NĂNG XỬ LÝ CÁC TÌNH HUỐNG THƯỜNG GẶP TRONG TRƯỜNG MẦM NON Pleiku – Tháng 7/2017
  2. 2
  3. 1. Những vấn đề chung về tình huống trong ứng xử sư phạm 1.1. Khái niệm tình huống: Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh trong hoạt động và quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và giữa con người với con người buộc người ta phải giải quyết, ứng phó, xử lý kịp thời nhằm đưa ra các hoạt động và quan hệ có chứa đựng trạng thái đó trở lại ổn định và tiếp tục phát triển. 1.2. Tình huống sư phạm Trong thực tiễn dạy học và giáo dục luôn nảy sinh các tình huống mà đòi hỏi nhà giáo dục, người giáo viên phải giải quyết để nâng cao kết quả giáo dục cũng như hoàn thiện nhân cách cho người được giáo dục, cho học sinh. Để giải quyết các tình huống đó đòi hỏi nhà giáo dục phải nhanh chóng phản ứng, phát hiện đúng tình hình, tìm ra những biện pháp giải quyết tối ưu nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người được giáo dục và xây dựng tập thể người được giáo dục đó vững mạnh, qua đó năng lực và phẩm chất sư phạm của họ cũng được củng cố và phát triển. Như vậy chúng ta có thể hiểu tình huống sư phạm là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động sư phạm của người giáo viên. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục đối với trình độ phát triển hiện có của học sinh, giữa yêu cầu phát triển của học sinh với điều kiện sống và giáo dục, giữa nhu cầu phát triển của học sinh với khả năng sư phạm của nhà giáo dục, giữa nhu cầu phát triển của học sinh với khả năng, trình độ đạt được của chính học sinh. Một tình huống sư phạm thường có ba thành phần cơ bản: - Cái mới, cái chưa biết mà người giáo viên cần tìm hiểu, khám phá và giải quyết. - Những cái đã biết được sử dụng để xử lý tình huống sư phạm đạt mục đích. Đòi hỏi nhà sư phạm phải có trình độ tri thức, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo nhằm đưa ra cách xử lý phù hợp. - Nhu cầu giải quyết các tình huống sư phạm. Nhu cầu này rất đa dạng và khác nhau ở mỗi chủ thể. Các nhu cầu gồm có nhu cầu nhận thức, nhu cầu đạo đức và nhân văn là nhu cầu xuất phát từ mong muốn đứa trẻ phát triển và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. 2. Một số yêu cầu với giáo viên khi ứng xử trong các tình huống sư phạm: - Giáo viên cần phải có kiến thức về con người, hiểu tâm lý và yêu trẻ, đồng thời có hiểu biết rộng về các vấn đề xã hội, đặc biệt là các vấn đề trong học đường. - Trong các tình huống ứng xử sư phạm, giáo viên nên luôn tôn trọng nhân cách trẻ, có niềm tin vào trẻ, không vụ lợi, không thiên vị hay thành kiến; làm chủ cảm xúc, không để các quan hệ đời thường chi phối việc xử lý các tình huống. 3
  4. - Khi xử lý các tình huống sư phạm cần phải nhanh, không để ảnh hưởng đến giờ học. Tùy từng tình huống, các vấn đề nảy sinh, giáo viên cần xử lý ngay nhưng cũng có thể tạm dừng lại cho đến thời điểm phù hợp. - Ứng xử trong các tình huống sư phạm mang tính giáo dục, định hướng phát triển nhân cách chứ không phải nhằm mục đích kỷ luật trẻ. - Không bỏ sót các tình huống sư phạm xảy ra bằng cách quan sát, tìm hiểu kỹ nhóm trẻ/lớp mẫu giáo mình quản lý. - Trong quá trình ứng xử với các tình huống sư phạm cần phải bình tĩnh, tự tin, tự chủ trong mọi hoàn cảnh và xử lý một cách thấu đáo. - Không ngừng học hỏi nâng cao khả năng xử lý các tình huống sư phạm bằng con đường học tập điển hình, học hỏi đồng nghiệp và đúc rút kinh nghiệm qua thực tế, không được chủ quan, tự mãn hay lo sợ, tự ti. - Tự mình đặt ra, dự kiến các tình huống sư phạm để có phương án xử lý tốt, tránh bị bất ngờ, dẫn đến lúng túng, xử lý không hiệu quả. 3. Những tình huống thường gặp trong giáo dục mầm non và cách xử lý: Tình huống 1: Trẻ đánh bạn nhưng không chịu nhận lỗi. Bé Đạt năm nay đã 4 tuổi. Bé hay đánh bạn trên lớp nhưng thường không nhận lỗi. Khi bạn mách cô việc Đạt đánh bạn, bé thường không thừa nhận ngay. Khi bị đưa ra chứng cớ thì Đạt mới nhận lỗi và xin lỗi. Tuy nhiên, sau khi nhận lỗi, bé vẫn đánh các bạn khi cô giáo vắng mặt. Các mặt khác của trẻ bình thường và tuân theo các yêu cầu của cô giáo trong giờ học. Phân tích tình huống Trẻ mầm non sống và ứng xử bằng cảm xúc là chủ yếu. Trẻ dễ bộc lộ những xúc cảm vui, buồn, yêu ghét…Vì vậy, khi không thỏa mãn nhu cầu nào đó là trẻ thể hiện ngay các cảm xúc của mình. Việc đánh nhau của trẻ chỉ mang tính tình huống. Trẻ vừa đánh nhau xong lại có thể chơi với nhau, quên ngay những việc đã đánh nhau, nhưng cũng có thể tiếp tục đánh nhau trong những tình huống khác. Người lớn không nên làm nghiêm trọng vấn đề trẻ con đánh nhau dưới cái nhìn đạo đức, nhân cách. Điều cần giúp trẻ là tránh việc đánh nhau gây ra tổn thương về cơ thể (cào mặt, xô đẩy té ngã…). Ở một số trẻ nhỏ, việc đánh bạn trở thành một hành vi không ý thức. Trẻ có thể đánh bạn do ảnh hưởng tập nhiễm từ bên ngoài như quan sát người khác đánh nhau, xem phim ảnh, bị ảnh hưởng của bạo lực gia đình…Vì vậy, trẻ bắt chước một cách vô thức và cũng không ý thức được tính nguy hại khi đánh bạn. Cũng có một số trẻ muốn người khác để ý, quan tâm, công nhận giá trị của trẻ. Vì vậy, trẻ thể hiện bằng những hành vi tích cực hoặc tiêu cực, miễn sao được người khác quan tâm. Vì vậy, người lớn càng cố tình đi tìm hiểu chứng cứ để chứng minh trẻ sai có thể là một củng cố tiêu cực với nhu cầu của trẻ, có thể trẻ lại tiếp tục hành vi đó. 4
  5. Gợi ý cách xử lý tình huống Cô giáo không nên cố gắng chứng minh việc bé Đạt đánh bạn như thế nào (đúng hay sai). Thay vào đó, cô giáo tìm những hành vi tốt của bé để khích lệ, củng cố hành vi tích cực của bé Đạt nhiều hơn (sẽ giúp làm mất đi hành vi tiêu cực). Cô không nên quát tháo, đánh mắng trẻ mà nên thể hiện hiện thái độ không vui vì bé Đạt đánh bạn. Nếu có thể, cô yêu cầu để bé Đạt bắt tay và xin lỗi bạn, rồi bảo bé bị đánh bắt tay và nói đồng ý bỏ qua cho bạn. Việc làm này sẽ tạo ra một không khí đoàn kết, yêu thương trong lớp của trẻ. Đồng thời làm mất đi những hành vi tiêu cực của tất cả trẻ trong lớp. Cô giáo nên nói chuyện với phụ huynh về tình hình của trẻ, về việc đánh bạn trên lớp, chia sẻ để gia đình cũng có cách ứng xử tương tự như cô giáo ở trên lớp để trẻ cảm thấy mình có giá trị, được quan tâm nhiều hơn khi có những hành vi tích cực, những việc làm tốt. Tình huống 2: Trẻ không trả lời được câu hỏi nhưng vẫn giơ tay. Bé Lan năm nay 5 tuổi, nhanh nhẹn và hoạt bát. Bé thích đến lớp và giao tiếp với các bạn, nghe lời cô giáo và tập trung vào các hoạt động của lớp học. Tuy nhiên, bé Lan gặp phải vấn đề là: mỗi lần cô giáo đặt câu hỏi trong giờ học…bé giơ tay ngay và rất hăng hái, nhưng khi được gọi thì bé đứng lên chỉ mỉm cười, không trả lời. Đây như là một phản xạ tự nhiên trở thành thói quen của bé. Trong trường hợp này, cô giáo phải xử lý như thế nào? Phân tích tình huống Trẻ em sống và ứng xử dựa vào cảm xúc của chính trẻ. Trẻ yêu, buồn, giận hờn… là bộc lộ ra ngay bằng thái độ hành vi. Trẻ được cô giáo yêu mến và ít bị nhận xét, đánh giá nên trẻ không sợ là có trả lời câu hỏi được hay không, hoặc thậm chí trả lời chưa phù hợp. Vì vậy tình huống này, trẻ có biểu hiện như vậy là chuyện bình thường, có thể coi là điểm tích cực vì trẻ đã có một cảm xúc tích cực trên lớp học. Nhiều trẻ chưa tự tin hay chưa có thói quen đứng trước đám đông. Vì vậy khi trẻ ngồi dưới thì rất hăng hái, tự tin nhưng khi được gọi lên trả lời thì trẻ xấu hổ và không trả lời được. Nhiều trẻ có phản xạ tự nhiên trở thành một thói quen khi làm một việc gì đó nên việc dừng lại ngay phản xạ tự nhiên của trẻ sẽ gặp khó khăn. Nhiều khi bé Lan giơ tay như vậy là do thói quen – vì vậy cần có thời gian để giúp bé Lan dần dần điều chỉnh được thói quen đó. Gợi ý cách xử lý tình huống Mỗi lần bé Lan giơ tay trả lời câu hỏi của cô giáo thì cô vẫn nên cổ cũ, động viên bé bởi sự cố gắng, tự giác và chăm chú học bài. Nếu bé Lan giơ tay nhưng chưa trả lời được câu hỏi của cô giáo thì cô có thể dừng lại một chút và dành thời gian gợi ý cho bé Lan. Cô có thể gợi ý từ dễ đến khó cho bé Lan trả lời và 5
  6. cho bé thời gian suy nghĩ. Cần làm việc này kiên trì và thường xuyên giúp bé tập trung vào suy nghĩ và trả lời câu hỏi tốt hơn. Tình huống 3: Trẻ nhút nhát trước đám đông. Bé Dũng năm nay 4 tuổi, bé thường xuyên làm theo được các yêu cầu của cô giáo trên lớp, tham gia các hoạt động tích cực. Tuy nhiên, Dũng rất nhút nhát, xấu hổ, thường không dám đứng lên trước lớp trả lời các câu hỏi của cô hay nói về sản phẩm hoạt động của mình. Khi yêu cầu bé Dũng đứng lên trả lời hay nói về sản phẩm học tập, Dũng hay thể hiện sự hồi hộp, lo lắng, căng thẳng, nói lí nhí và ngồi xuống ngay. Trong tình huống này, cô giáo cần làm gì để giúp trẻ? Phân tích tình huống Một số trẻ nhỏ nhút nhát do các em không có cơ hội để giao tiếp, trao đổi với các bạn xung quanh từ nhỏ. Trẻ chưa chủ động trong công việc cá nhân do người lớn làm thay trẻ mọi việc… vì vậy trẻ chưa có kỹ năng xã hội sớm, dẫn đến sự mất tự tin ở trẻ. Một số trẻ do khí chất yếu nên các em cũng thể hiện sự nhút nhát, ít giao tiếp, thường sống thu mình, khép mình hơn. Một số cha mẹ hay thầy cô giáo mong muốn rèn được tính tự tin của trẻ nhanh nên đã nóng vội bắt trẻ rèn luyện, đối mặt với các tình huống căng thẳng để trẻ tự tin hơn. Đối với một số trẻ có thể áp dụng được việc đối diện với các tình huống căng thẳng nhưng cũng có nhiều trẻ không thể áp dụng được, thậm chí gây ra hậu quả tiêu cực đến đời sống tâm lý của trẻ. Gợi ý cách xử lý tình huống: Cô giáo nên dần dần từng bước cho trẻ đứng trước đám đông để nói một điều gì đó. Đầu tiên là đứng trước 1-2 bạn, sau đó đứng lên nhóm đông hơn, khi trẻ tự tin hơn thì mới cho đứng ở đám đông, trước cả lớp. Cô giáo nên khuyến khích, khen ngợi ngay những điểm tích cực ở trẻ để giúp trẻ tự tin hơn ở mình. Làm được điều này cần sự kiên trì, nhẫn nại của giáo viên trong một thời gian dài. Cô giáo hay cha mẹ nên giao cho trẻ những công việc như dọn đồ chơi, cùng bạn cắt dán bức tranh, giúp cô lau bàn… những công việc nhỏ phù hợp với trẻ. Trong quá trình làm việc, cô giáo luôn để ý và tìm ra những thế mạnh ở trẻ để khuyến khích. Trẻ sẽ tự tin hơn và sẽ cố gắng hơn theo hướng tích cực để thành công. Cô giáo khuyến khích trẻ bằng cách mỉm cười, gật đầu tán thưởng, ra hiệu cố gắng… và nếu có thể, cô giáo nói cả lớp cùng động viên để bé Dũng tự tin hơn. Cô tư vấn cho cha mẹ, giúp cha mẹ hiểu về sự tự tin của con, và gia đình cũng cần khuyến khích trẻ từng bước, không nên đặt áp lực quá căng thẳng với trẻ dẫn đến sự lo lắng, sợ hãi. Giúp trẻ tập giao tiếp với bạn bè, hàng xóm xung quanh nhiều hơn, đặc biệt là tạo cho trẻ cơ hội đứng trước các thành viên trong gia đình trình bày điều gì đó tự tin. 6
  7. Tình huống 4: Bé sợ ăn khi đến trường. Theo gia đình cho biết, khoảng 6 tháng trước, bé Thúy (36 tháng tuổi) được gửi đến một trường mầm non khác. Thời gian đầu bé ăn chậm, hơi khó ăn, nên mỗi khi đi học về là bé thường kể với ba mẹ bị cô giáo mắng, thậm chí là đánh trẻ. Bé nói là bị cô giáo lấy tay đánh vào má và bắt ăn nhanh. Bé Thúy đi học ở trườn cũ luôn luôn lo sợ, thậm chí khi chở bé đi ngang qua trường cũ bé cũng sợ. Hiện tại, bé Thúy được đến một trường học mới, lúc đầu đi học thì bé có sợ nhưng sau một tuần học, bé rất vui vẻ và nói thích cô vì cô giáo yêu bé. Tuy nhiên, bé Thúy khó khăn trong việc ăn, không chịu ăn, ngậm thức ăn, đôi khi bảo bé nhai thì bé lại ói ra hết (ở nhà bé ăn tốt). Trong trường hợp này, cô gáo nên làm gì để giúp trẻ? Phân tích tình huống Đôi khi trẻ bị ám ảnh đối với việc ăn uống, đặc biệt là gắn với những ảnh hưởng tiêu cực (bị trừng phạt, dọa nạt…) nên mỗi lần ăn là trẻ sợ hãi không ăn, thậm chí là bị nôn ọe khi ăn. Vì vậy việc loại bỏ được cảm giác sợ hãi ở trẻ là điều cần phải làm nếu muốn trẻ thoải mái hơn trong ăn uống. Việc trẻ ăn ở nhà rất tốt – thì có nghĩa trẻ không gặp vấn đề gì về ăn uống mà có thể chỉ là do tâm lý sợ hãi của trẻ ở trường, dẫn đến việc sợ ăn của trẻ. Trẻ sẽ ăn thoải mái nếu loại bỏ cảm xúc tiêu cực của trẻ ở nhà trường. Gợi ý cách xử lý tình huống: Nhà trường và cô giáo cần tạo niềm vui khi bé Thúy đến trường. Niềm vui sẽ là cơ sở giúp bé Thúy thoải mái và quên đi những tác động tiêu cực từ trường học trước đây đối với trẻ. Đặc biệt là khi cho trẻ ăn, cô giáo cần loại bỏ cảm xúc tiêu cực, áp đặt trẻ phải ăn hoặc dùng hình phạt đối với trẻ. Để làm được việc này, cô giáo cần bình tĩnh, từ từ, từng bước một và cần có thời gian. Trẻ chỉ ăn ngon khi không bị căng thẳng về tâm lý đối với việc ăn uống mà thôi. Việc cho trẻ ăn theo bữa là rất tốt – giúp trẻ có nề nếp tốt. Tuy nhiên nhà trường cũng nên quan tâm đến bữa ăn vật chất của trẻ như: trẻ ăn có đủ chất không, có đổi món ăn cho trẻ không, món ăn có hợp khẩu vị với trẻ không. Tình huống 5: Trẻ đòi đồ chơi một cách tự do. Bé Quyên được 38 tháng tuổi đang học lớp mẫu giáo bé. Bé Quyên có thói quen đòi bằng được những thứ mà bé thích. Nếu cha mẹ hay cô giáo không đáp ứng được nhu cầu của Quyên là cháu rất hay ăn vạ, khóc to, thậm chí la hét ầm ĩ. Những lúc như thế, bé thường ném cả đồ chơi, không cần nữa. Cách đây vài tháng, khi bé Quyên nghịch là bị người lớn, cha mẹ la mắng và trẻ còn biết sợ, xin lỗi. Còn bây giờ, cháu nhất định không chịu nghe mà còn khóc và ăn vạ nhiều hơn. Trong tình huống này, giáo viên cần làm gì để giúp trẻ? Phân tích tình huống Việc trẻ đòi hỏi bằng được những thứ mà trẻ thích, không sợ người lớn và nếu không được thì khóc, mè nheo… do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng 7
  8. hạn trẻ được cưng chiều quá mức – đòi cái gì là được cái đó. Trẻ là trung tâm của gia đình và luôn được thỏa mãn mọi thứ. Trẻ luôn được nhận nhiều hơn là phải cho đi, chia sẻ và điều này dần dẫn đến tính ích kỉ ở trẻ, đặc biệt khi sự đòi hỏi này trở thành một thói quen. Điều này thường xuất hiện ở một số gia đình ít con và đáp ứng nhu cầu của con vô điều kiện. Người lớn vô tình hình thành hành vi đòi hỏi của trẻ khi đáp ứng mọi nhu cầu của trẻ nếu trẻ khóc, mè nheo, bỏ ăn, tức giận… Đây là cách thức mà trẻ làm nếu muốn được thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Có những trường hợp trẻ thiếu thốn và thích đồ chơi đó quá mức vì thế trẻ mong muốn có đồ chơi đó bằng mọi cách, trẻ không thể kiềm chế cảm xúc của mình với đồ chơi đó. Gợi ý cách xử lý tình huống: Trong trường hợp này, cha mẹ hay cô giáo nên chú ý đến các việc sau để điều chỉnh được đồ chơi đòi hỏi quá mức của trẻ: Khi trẻ đòi hỏi một đồ chơi hoặc nhu cầu nào đó, người lớn không nên thỏa mãn nhu cầu đó của trẻ ngay. Người lớn nên dừng lại đặt câu hỏi: Vì sao con lại thích đồ chơi này? (trẻ phải giải thích). Đây là thời gian tạm lắng để trẻ suy nghĩ và nghe được những cảm xúc, mong muốn cuả trẻ. Việc làm này đòi hỏi sự bình tĩnh và kiên trì thực hiện mục đích. Khi trẻ đòi hỏi đáp ứng nhu cầu nào đó (đồ chơi), người lớn nên thỏa hiệp với trẻ - trẻ phải làm những việc gì thì mới có được đồ chơi đó. Cho trẻ đưa ra các việc làm và cha mẹ định hướng, từ đó trẻ sẽ phải cố gắng hoàn thành các công việc đó để được đồ chơi và cũng là thời gian để trẻ tạm lắng nhu cầu của bản thân. Các công việc như: tự ăn, tự đi giày đến lớp, đến lớp không được quậy phá… Khi trẻ đòi hỏi đồ chơi quá mức – và không được đồ chơi sẽ thể hiện những hành vi tiêu cực như khóc, hét, giận dỗi… lúc đó cha mẹ càng quan tâm, càng giải thích thì càng củng cố hành vi tiêu cực nhiều hơn. Vì vậy, một kinh nghiệm quan trọng để tránh đi những hành vi tiêu cực ở trẻ em là “kỹ thuật phớt lờ”, tức là không quan tâm, không để ý đến các hành vi tiêu cực của trẻ. Sau nhiều lần như vậy, trẻ sẽ hiểu được hành vi tiêu cực mà trẻ thể hiện sẽ không đem lại kết quả gì, từ đó trẻ sẽ dần dần bỏ đi những hành vi tiêu cực đó và biết dừng lại những đòi hỏi quá mức của bản thân. Tình huống 6: Trẻ 3 tuổi hay “chống đối”. Bé Hoàng 36 tháng tuổi, gia đình đưa bé đến trường học được 3 tháng rồi. Tuy nhiên, cô giáo và gia đình gặp khó khăn trong việc giáo dục trẻ. Trước đây cháu rất ngoan, nhưng thời gian gần đây bé Hoàng ít nghe lời cha mẹ, không vâng lời cô giáo trên lớp học mặc dù cháu hiểu được các yêu cầu của người lớn. Cháu thích làm theo ý mình, đặc biệt là hay làm ngược lại với những yêu cầu của người lớn. Mỗi khi la bé Hoàng, bé càng cố tình làm ngược lại bé muốn thể 8
  9. hiện sự bướng bỉnh, luôn muốn chống đối với người lớn. Vậy trong tình huống này, cô giáo và cha mẹ nên làm gì? Phân tích tình huống Quá trình phát triển tâm lý của trẻ không phải là một sự liên tục, êm ả mà còn có cả những lúc khủng hoảng. Đối với trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thường xảy ra sự khủng hoảng ở giai đoạn lên ba, hay gọi là “khủng hoảng tuổi lên ba”. Vào độ tuổi này trẻ bắt đầu nhận thức về cái tôi của mình nên muốn làm mọi việc khẳng định cái tôi. Trẻ hay nói: cái này là của con, cái kia là của chị… Vì vậy khi người lớn buộc trẻ làm một việc gì đó dù trẻ biết là đúng nhưng trẻ vẫn không nghe, hoặc làm ngược lại chỉ để chứng minh cái tôi của trẻ. Trẻ mong muốn người lớn hiểu và chấp nhận cái tôi của mình. Sự khủng hoảng này sẽ dần mất đi khi trẻ lớn dần lên. Việc trẻ chống đối người lớn cũng phụ thuộc vào cách người lớn giao tiếp với trẻ như thế nào. Đôi khi người lớn chưa lắng nghe suy nghĩ của trẻ mà đã buộc trẻ làm theo ý mình. Người lớn vô tình hay áp đặt những suy nghĩ mà mình cho là đúng đắn đối với trẻ. Trong khi đó trẻ em là một thế giới tâm hồn phong phú và riêng biệt. Vì vậy trẻ đôi khi có hành vi chống đối vì người lớn chưa hiểu trẻ, chỉ áp đặt – nhưng trẻ nhỏ không biết làm thế nào – nên thể hiện hành vi chống đối, hoặc làm ngược lại. Gợi ý cách xử lý tình huống: Những đặc điểm tâm lý tiêu cực này của trẻ sẽ tự mất đi với sự phát triển của độ tuổi. Tuy nhiên, nếu người lớn biết cách giao tiếp phù hợp với tâm lý trẻ sẽ giảm bớt sự mâu thuẫn giữa cha mẹ, người lớn với trẻ. Người lớn nên chú ý: - Tránh việc la mắng, trách phạt trẻ vì điều này sẽ làm cho trẻ cảm nhận bị áp đặt, không được công nhận cái tôi nên dẫn đến sự chống đối nhiều hơn. - Khuyến khích, động viên, công nhận những hành vi tích cực ở trẻ - giúp trẻ cảm nhận được giá trị của cái tôi ở trẻ. - Cho trẻ có cơ hội lựa chọn với những yêu cầu mà chúng ta đưa ra: Hôm nay trời lạnh, con thích mặc gì cho ấm? Con thích ăn gì sáng nay?... Tất nhiên, phụ huynh và cô giáo nên khéo léo để giúp trẻ lựa chọn cho phù hợp. Tình huống 7: Trẻ không muốn đi học sau kỳ nghỉ hè. Bé Mai bắt đầu đi học lúc 3 tuổi. Lúc đầu bé đến lớp rất rụt rè nhưng sau 1 năm học, bé Mai rất tích cực đến trường, vui vẻ và tự giác đi học. Tuy nhiên, cuối năm học, đến kỳ nghỉ hè, bé Mai được nghỉ học, ở nhà và về chơi với ông bà. Sau mùa hè, khi cho bé đi học trở lại, bé có biểu hiện không hứng thú, không thích đến trường, nhất định không chịu đi học và thường khóc lóc đòi mẹ. Trong tình huống này, cha mẹ và cô giáo cần làm gì để giúp bé vui vẻ, hạnh phúc trở lại trường mầm non học? Phân tích tình huống Bé Mai cũng giống như bao đứa trẻ khác thích nghỉ ngơi, thích chơi tự nhiên mà không bị gò ép. Trong một năm học ngày nào trẻ cũng đến lớp đều và học tập sẽ hình thành cho trẻ một thói quen đi học nên việc học hành trở nên nhẹ nhàng, 9
  10. thoải mái. Vì vậy sau một thời gian khá dài nghỉ học, được chơi thoải mái, tự do nên lại hình thành ở trẻ một thói quen khác. Quen với việc nghỉ ngơi, không phải học,không phải dậy sớm để đi học… nên trẻ chán, không thích đi học sau ba tháng hè. Đây là chuyện bình thường và xuất hiện ở nhiều trẻ. Gợi ý cách xử lý tình huống: Trong trường hợp này, cha mẹ và cô giáo không nên đánh mắng hay quy kết cho trẻ là lười biếng. Cô giáo và cha mẹ nên từng bước giúp trẻ thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh học tập sau ba tháng hè. Việc này sẽ gặp khó khăn lúc đầu giống như lần đầu tiên trẻ đi học, tuy nhiên thời gian khó khăn này sẽ qua nhanh vì trẻ đã hình thành được nếp đi học trước đây. Bên cạnh đó, nên tạo niềm vui, sự hạnh phúc cho trẻ khi đi học – tránh la, mắng, bực dọc, quát trẻ… để buộc trẻ đi học ngay mà bỏ qua sự động viên. Tình huống 8: Trẻ 6 tuổi không hứng thú với việc học chữ. Bé Sơn đang học lớp mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) nhưng rất lười, ngại ngồi tập tô hay “viết” chữ. Mỗi khi cô giáo hay cha mẹ nhắc nhở Sơn luyện tập tô, “viết” chữ là bé lẩn tránh hay tỏ thái độ chán nản, không tập trung. Các công việc khác thì bé làm rất tốt (làm toán; chơi ghép hình…). Vậy làm thế nào để bé Sơn tập trung, hứng thú vào việc tập luyện tô chữ, “viết” chữ? Phân tích tình huống Trẻ em học tập, giao tiếp hoặc làm một việc gì đó thường dựa vào cảm xúc rất nhiều. Trẻ rất tích cực và say mê khi có cảm xúc tích cực, còn ngược lại thì trẻ thường né tránh, chán, mệt mỏi. Vì vậy bé Sơn thích học toán, xếp hình và ngại ngồi tô chữ, “viết” chữ là do phụ thuộc vào cảm xúc, hứng thú của trẻ. Cách dạy của cô giáo và người lớn có thể cũng ảnh hưởng đến việc luyện viết chữ của bé Sơn. Đó là khi buộc trẻ tập trung quá lâu vào việc luyện viết chữ thì trẻ sẽ có cảm giác chán, mệt mỏi và sau nhiều lần như vậy thì trẻ sẽ có cảm giác sợ hãi, bị ám ảnh với việc học chữ. Tính chất học tập của trẻ mẫu giáo không giống như của học sinh, trẻ mẫu giáo thường học qua hoạt động vui chơi. Khi hoạt động dạy học được tổ chức dưới hình thức vui chơi thì trẻ sẽ tiếp thu nhanh và hiệu quả hơn. Gợi ý cách xử lý tình huống: Trước khi trẻ bắt đầu luyện viết chữ, cô giáo hay phụ huynh nên tạo cho trẻ một cảm xúc tích cực, sự hưng phấn, vui vẻ để trẻ có thể thực hiện việc học tập một cách nhẹ nhàng nhất. Cần chú ý đến thời gian luyện tập viết của trẻ và luôn khích lệ những điểm tích cực, những thành công của trẻ khi luyện viết; tránh việc mắng, nói trẻ là lười biếng, dốt nát… Việc luyện chữ viết của bé Sơn hay việc học tập của trẻ nói chung nên được tổ chức dưới hình thức các trò chơi. Thông qua các hoạt động chơi trẻ sẽ học rất nhanh và có thể sử dụng phần thưởng đối với trẻ để khích lệ. 10
  11. Tình huống 9: Bé Mơ rất thích ra lệnh. Năm nay bé Mơ đã 5 tuổi, từ khi đi học đến nay, ngay khi ở nhà, bé cũng thường hay ra lệnh cho người khác, bạn khác làm. Bé Mơ luôn muốn chứng tỏ với mọi người là bé biết làm mọi thứ và khôn ngoan hơn người khác. Ở lớp học, bé thường hay ra lệnh cho bạn và ép bạn mình phải làm cho dù những yêu cầu của bé nhiều khi không đúng. Bé còn hay lớn tiếng và buộc bạn phải làm theo. Hành vi đó đã trở thành tói quen của bé Mơ. Liệu thói quen này của bé Mơ có tốt không và người lớn cần phải làm gì để bé Mơ điều chỉnh hành vi của mình? Phân tích tình huống Bé Mơ có hành vi như trên do nhiều nguyên nhân như: - Bé Mơ muốn được người khác quan tâm, chú ý. Khi người lớn không chú ý nhiều đến bé thì bé sẽ làm mọi việc để người khác quan tâm và hành động gây chú ý có thể là hành động tích cực hoặc tiêu cực. Trường hợp bé Mơ này thể hiện sự hống hách – để người khác thấy mình giỏi và quan tâm nhiều hơn. - Đây cũng có thể là một phẩm chất bẩm sinh của trẻ. Trẻ sinh ra đã có ý chí mạnh mẽ, tính quyết đoán và nếu trẻ biết ra lệnh và thuyết phục bạn khác nghe theo một cách có lý và tích cực thì là một điểm rất tốt. Tuy nhiên bé Mơ ra lệnh cho bạn dù biết là vô lý và không thuyết phục bạn mà lớn tiếng, quát buộc bạn làm theo là chưa tốt, điều này có thể ảnh hưởng đến nhân cách sau này của trẻ. Vì vậy nếu cô giáo, cha mẹ biết cách uốn nắn, chỉ bảo thì một đứa trẻ thích ra lệnh, ít chịu nhượng bộ sẽ thành công hơn trong cuộc sống sau này. - Nếu trẻ biết ra lệnh và dứt khoát buộc trẻ khác làm những việc tích cực thì là rất tốt, ngược lại, trong những trường hợp vô lý, trẻ ra lệnh cho bạn chỉ vì muốn để người khác quan tâm, chú ý thì lại không tốt, cần điều chỉnh để trẻ hiểu và có hành vi đúng mực hơn. Gợi ý cách xử lý tình huống: Nếu trong những tình huống bé ra lệnh là “vô lý” – vì cái tôi của trẻ - thì trẻ không ngần ngại với chuyến sai bảo này và cứ nằng nặc đòi người khác phải làm. Cô giáo, cha mẹ nên lờ đi, không đáp ứng yêu cầu của trẻ ngay hoặc yêu cầu trẻ giải thích vì sao lại đòi như vậy. Nếu trẻ giải thích có lí thì mới làm giúp trẻ. Qua đó trẻ học được bài học: không phải yêu cầu nào của mình cũng được đáp ứng và muốn bảo được người khác thì phải có lí lẽ đúng đắn, thuyết phục. Ở một số trẻ, khi đòi hỏi – các mệnh lệnh không được đáp ứng thì trẻ tỏ ra ngoan cố, hoặc đòi hỏi cao hơn, đe dọa, quấy rầy, khóc, tỏ thái độ bất mãn, giận dỗi – lúc này người lớn cần trấn tĩnh trẻ, không nên đáp ứng các nhu cầu đó ngay mà đợi đến khi trẻ bình tĩnh lại rồi mới phân tích cho bé thấy sự vô lý của bé và cho bé thấy rằng mình không muốn tình trạng này lặp lại một lần nữa. Tình huống 10: Khi trẻ “lấy trộm” đồ chơi của trẻ nhà hàng xóm. Tuấn năm nay hơn 4 tuổi, bé là một đứa trẻ ngoan, biết nghe lời cha mẹ, đến trường thích chơi với các bạn và biết vâng lời cô giáo. Sức khỏe của Tuấn 11
  12. rất tốt. Bé cũng biết nhường nhịn bạn bè xung quanh và tích cực thực hiện các công việc người lớn giao cho. Tuy nhiên, Tuấn thỉnh thoảng gặp phải vấn đề khiến bố mẹ lo lắng và xấu hổ. Hôm đó, Tuấn sang nhà hàng xóm chơi, khi ra về cầm 1 chiếc ô tô của bạn. hàng xóm kết tội là Tuấn “ăn trộm” đồ chơi. Cha mẹ Tuấn đã đánh và bắt bé đem trả đồ chơi ngay. Tuy nhiên, nhiều lần sau, bé vẫn lặp lại hành vi này. Trong trường hợp này, người lớn nên ứng xử như thế nào để giúp bé Tuấn nhận thức và điều chỉnh hành vi phù hợp? Phân tích tình huống Việc trẻ lấy đồ chơi của bạn về nhà là do sở thích, cảm xúc của trẻ với đồ chơi đó. Mục đích của trẻ là lấy để chơi và không thích sẽ trẻ, thậm chí mang đồ chơi khác đẹp hơn sang để đổi lấy đồ chơi mà trẻ thích. Như vậy, đối với trẻ 4 tuổi, không nên vội quy kết việc “ăn trộm” đồ chơi của trẻ là một hành vi tiêu cực, mà đó chỉ là cảm xúc của trẻ mà thôi. Tuy vậy, nó có thể đem đến sự hiểu lầm, phiền toái cho cha mẹ, thầy cô giáo trong việc giải quyết việc này. Việc cha mẹ đánh, bắt trẻ phải mang đồ chơi sang trả và còn mắng trẻ sẽ làm cho trẻ hậm hực, khó chịu, không thoải mái. Đôi khi trẻ chống đối lại hành vi của người lớn. Mặt khác, trẻ sẽ phải dập tắt cảm xúc của mình với đồ chơi mà trẻ thích, đánh mất đi tính hứng thú của trẻ với thế giới bên ngoài. Nếu cha mẹ, cô giáo biết cách giúp trẻ hiểu việc lấy đồ chơi của bạn là chưa tốt, nhưng việc thích đồ chơi đó cũng không xấu. Vì vậy, nếu biết cách nào đó để thương lượng có đồ chơi đó phù hợp là rất tốt. Vì vậy, cha mẹ, thầy cô nên dạy trẻ kỹ năng giao tiếp để có đồ chơi đó. Nuôi dưỡng hứng thú của trẻ về đồ chơi đó nói riêng và hứng thú với thế giới xung quanh nói chung sẽ rất tốt cho sự phát triển trí tuệ sau này của trẻ. Gợi ý cách xử lý tình huống Trong tình huống này, cô giáo và cha mẹ nên chú ý: - Cha mẹ không nên vội đánh, mắng trẻ ngay vì hành vi lấy trộm đồ mà nên bình tĩnh hơn và tìm hiểu kĩ. Cha mẹ có thể hỏi trẻ: tại sao con lấy đồ chơi? Đồ chơi này con thích ở chỗ nào, con đã hỏi ý kiến bạn chưa, con có biết là đồ chơi đó là bạn rất thích hay không?... những câu hỏi này sẽ giúp trẻ định hướng lại những hành vi của mình là phù hợp hay chưa phù hợp. - Có thể cha mẹ nên khuyến khích về sở thích về đồ chơi đó của trẻ. Hành vi này của cha mẹ sẽ giúp trẻ hứng thú với những lựa chọn của trẻ mà không dập tắt đi những hứng thú của trẻ. Cha mẹ, cô giáo trao đổi để giúp trẻ tìm ra nhiều cách khác nhau để có thể có được đồ chơi đó, đồng thời uốn nắn những cách không phù hợp và khuyến khích những cách sáng tạo, phù hợp như: con sẽ thuyết phục bạn cho con mượn chơi một lúc, con sẽ mang đồ chơi khác của mình và thuyết phục bạn đổi cho, con sẽ cố gắng ngoan hơn để cuối tuần mẹ mua cho đồ chơi… - Trong trường hợp có thể, cha mẹ, cô giáo tạo điều kiện giúp trẻ thực hành các kĩ năng đã trao đổi ở trên với trẻ, dạy cho trẻ kĩ năng thương thuyết và kĩ năng sáng tạo để có thể đạt được mục đích của trẻ. 12
  13. Tình huống 11: Trẻ thường hay hỏi “Vì sao” Trong nhiều lần đi học về, bé Lan (5 tuổi) đã hỏi mẹ rất nhiều câu hỏi “vì sao?”. Lúc đầu mẹ bé Lan còn trả lời được nhưng về sau thì thật khó, vì cứ suy nghĩ đến đâu là bé hỏi đến đó. Ví dụ bé hỏi: Bé Lan: Mẹ ơi, cơm màu gì? Mẹ: Cơm màu trắng. Bé Lan: Vì sao nó màu trắng? Mẹ: Ưm…..ưm….mẹ “bí” rồi… Bé Lan: Tại sao “bí”? Mẹ: ……!!!! Cứ như vậy trẻ hỏi tới , hỏi tới…và mẹ không biết trả lời như thế nào? Còn rất nhiều câu hỏi khác nữa mà bé hỏi: Tại sao khi mình đi mà cái cây nó cứ chạy lùi? … Mỗi câu hỏi như vậy khiến mẹ bé rất băn khoăn làm thế nào để trả lời con cho hợp lý. Trong trường hợp này, người lớn nên làm gì để giúp trẻ hiểu biết được thế giới bên ngoài, kích thích hứng thú nhận thức của trẻ? Phân tích tình huống: Việc trẻ đặt các câu hỏi “Vì sao” là rất tốt đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Điều này chứng tỏ trẻ rất hứng thú với thế giới bên ngoài, trẻ muốn khám phá, tìm hiểu nó. Điều quan trọng hơn là trẻ phát triển nhận thức và phát triển trí tuệ tốt khi biết đặt những câu hỏi cho người lớn. Do đó, người lớn không nên dập tắt việc đặt câu hỏi “Vì sao” của trẻ?, hoặc cho đó là vớ vẩn. Chúng ta cần khuyến khích trẻ đặt câu hỏi “Vì sao” giúp trẻ phát triển trí tuệ và sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Nhận thức của trẻ phù hợp với độ tuổi của trẻ. Người lớn cần giải thích sao cho phù hợp với mức độ phát triển của trẻ thì trẻ mới hứng thú và hiểu được lời giải thích. Tuy nhiên, nếu trẻ đặt câu hỏi “Vì sao” nhiều lần còn người lớn chỉ tập trung vào giải thích để trẻ hiểu (có khi không thể giải thích được) thì trẻ sẽ thụ động tiếp nhận kiến thức có sẵn mà ít động não, tự suy nghĩ trả lời câu hỏi. Điều này cưa phải là tối ưu về phương diện nhận thức. Con người thường khi đặt câu hỏi, trước tiên phải tự đi tìm câu trả lời cho chính mình. Điều này rất cần thiết cho hoạt động dạy học. Gợi ý cách xử lý tình huống: Trong trường hợp này, người lớn nên chú ý: Khi trẻ đặt câu hỏi “Vì sao”, người lớn nên khuyến khích trẻ, thậm chí đánh giá tích cực câu hỏi của trẻ. Tuy 13
  14. nhiên, người lớn không nên giải thích ngay lập tức mà nên dừng lại chút thời gian để đặt câu hỏi cho trẻ (Theo ý con, nên trả lời như thế nào?...). Bên cạnh đó, chúng ta sẽ khẳng định với trẻ là chúng ta cũng đi tìm câu trả lời. Như vậy, trẻ sẽ hứng thú hơn khi tự tìm câu trả lời cho mình, trong khi đó, người lớn là người đồng hành cùng trẻ. Ví dụ: Trẻ A: Tại sao khi mình đi mà cái cây nó cứ chạy lùi? … Cô: Con quan sát hay đấy. thế theo con, vì sao cây lại chạy xa mình? Trẻ A: Vì nó sợ mình đánh, mình chặt cây. Cô: Đúng rồi, khi cây bị chặt, bị đánh nó sẽ làm sao? Trẻ A: Thì nó sẽ rất đau… Cô: Đúng rồi, làm thế nào để cây nó không sợ mình?...Chúng ta cứ hỏi như vậy để giúp trẻ phát triển tốt trí tuệ của mình. Người lớn đôi khi cũng nên chủ động đặt câu hỏi “Vì sao” cho trẻ, kích thích tư duy của trẻ và cùng giải quyết vấn đề với trẻ. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2