intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học: Phần II - Đoàn Văn Bình

Chia sẻ: Minh Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:59

181
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tập Tài liệu hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học được biên chế thành 3 phần, phần II này là nội dung của phần II và phần III, trình bày về quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ và quy trình tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học: Phần II - Đoàn Văn Bình

  1. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Phần II QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CHO HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ I. ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH CHO HOẠT ĐỘNG KHCN Các khái niệm và định nghĩa về KHCN: Như ta thường gặp trong tài liệu các nước nói về khoa học và công nghệ (S&T), về nghiên cứu và triển khai (R&D), hai khái niệm này khác nhau về qui mô và phạm vi hoạt động. * Khái niệm về khoa học và công nghệ rất rộng, theo tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc, hoạt động khoa học và công nghệ là toàn bộ hoạt động có tính hệ thống liên quan chặt chẽ đến sự tạo ra, phát triển, phổ biến và ứng dụng tri thức khoa học và kỹ thuật trong tất cả các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Các hoạt động này bao gồm các hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D), giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ (STET) và các dịch vụ khoa học và công nghệ (STS) a. Hoạt động R&D( Research and Development) tức là những hoạt động mang tính nghiên cứu và thử nghiệm, trong đó có nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. b. Hoạt động giáo dục và đào tạo KHCN STET (science - Tcchnology Education and training), bao gồm giáo dục cao đẳng và giáo dục tiếp theo, đào tạo lại những hoạt động đào tạo khác đối với cán bộ KHCN. c. Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ STS (Science and Technology Services) chỉ những hoạt động thông tin, tiêu bản, thống kê, biên dịch, lập bản đồ trắc địa, thăm dò địa chất, tiêu chuẩn đo lường chất lượng và dịch vụ tư vấn... Viện Khoa học năng lượng
  2. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học * Khái niệm về nghiên cứu và triển khai là hoạt động có tính hệ thống và sáng tạo nhằm mục đích tăng khối lượng kiến thức khoa học và áp dụng chúng trong thực tế. Hoạt động này được phân loại thành: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Như vậy khái niệm R&D là một phần của khái niệm S&T. Hiểu được các khái niệm trên để khi đề cập đến vấn đề đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ chúng ta có sự phân biệt rõ hơn và đưa ra các số liệu thống kê phù hợp với thông lệ quốc tế. Tài liệu của các nước viết về đầu tư tài chính cho KHCN chính là đầu tư cho nghiên cứu- triển khai (đầu tư cho R&D). Đối với nước ta, cũng hiểu theo qui chuẩn và đó và nghiên cứu xoay quanh 3 vấn đề sau: - Mức đầu tư và các nguồn vốn đầu tư cho KHCN - Phân phối, sử dụng các nguồn vốn đó. - Cơ chế quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho KHCN. MỨC ĐẦU TƯ VÀ CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CHO HOẠT ĐỘNG KHCN 1. Giới thiệu số liệu đầu tư cho KHCN của các nước: Theo phương pháp chung của các nước trên thế giới cũng như của UNESCO đầu tư tài chính cho KHCN được tính theo các chỉ tiêu sau đây: + Tỷ lệ đầu tư % so với GDP hoặc GNP + Mức đầu tư bình quân/1 cán bộ KHCN + Mức đầu tư bình quân/1 người dân Xin nêu một số số liệu của các nước đầu tư cho KHCN Các nước công nghiệp phát triển có mức đầu tư cho KHCN rất lớn và rất ổn định. Các nước trong khu vực cũng đang phấn đấu và nhiều nước đã đạt tỷ lệ đầu tư cao Mức đầu tư bình quân cho 1 % so với Tên nước Năm cán bộ R&D GNP (USD/người/năm Viện Khoa học năng lượng
  3. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Singapore 1995 2 90.000 Hàn quốc 1995 2,71 95.400 Nhật Bản 1995 2,96 232.000 Đức 1995 2,27 Mỹ 1995 2,4 172.000 Pháp 210.000 Anh 151.000 Đài Loan 68.000 Thái Lan 18.000 2. Mức đầu tư cho KHCN của Việt nam Trong những năm qua Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư cho KHCN nhưng mức đạt được còn rất khiêm tốn. Trong tình hình cân đối ngân sách của nhà nước còn nhiều khó khăn, thì đầu tư cho KHCN cũng còn rất thấp. Số liệu đầu tư một số năm gần đây: Đầu tư cho KHCN (Tỷ đồng) Tỷ lệ đầu Chi NSNN tư % so Năm Sự nghiệp (Tỷ đồng) XDCB Tổng số với chi KH NSNN 1991 12.081 17 90 107 0,89 1992 23.711 19 184 203 0,86 1993 39.063 28 300 328 0,84 1994 48.890 65 410 475 1,0 1995 61.280 98 500 598 0,96 1996 68.000 81 530 611 0,9 1997 78.820 107 626 733 0,9 1998 76.000 118 794 912 1,2 1999 82.000 154 780 934 1,3 Viện Khoa học năng lượng
  4. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học 2000 94.000 353 1350 1885 2 Nguồn số liệu: Bộ KHĐT và Bộ Tài chính Với mức đầu tư thấp như vậy nên cơ sở vật chất của các viện nghiên cứu nhìn chung rất nghèo nàn, trang thiết bị rất thiếu, lạc hậu, không đồng bộ. Kinh phí cấp cho các nhiệm vụ nghiên cứu cũng rất thấp, chỉ đủ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, khi triển khai đến qui mô pilot hoặc thử nghiệm với qui mô lớn thì không đủ kinh phí. Mặt khác số liệu trên đây mới chỉ là số liệu đầu tư từ ngân sách nhà nước. Các cơ quan khoa học cũng nhận được kinh phí từ các hợp đồng với sản xuất nhưng hiện nay chưa thống kê được. Số liệu đầu tư của các nước bao gồm nhiều nguồn, trong đó có nguồn từ ngân sách của Chính phủ và nguồn ngoài ngân sách. Thực tế trong những năm qua, nhiều tổ chức KHCN đã rất năng động, nguồn thu từ hợp đồng nghiên cứu và dịch vụ KHCN với sản xuất đã tăng lên rõ rệt, một số viện ngân sách nhà nước trong tổng số doanh thu của viện chỉ chiếm 30 đến 50%. 3. Các nguồn vốn đầu tư cho KHCN Đối với các nước, nguồn vốn đầu tư cho KHCN gồm ngân sách của Chính phủ và vốn đầu tư của các công ty, của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Mức đầu tư hàng năm của Chính phủ tăng lên về số tuyệt đối nhưng lại giảm dần về tỷ trọng giữa ngân sách Chính phủ với khu vực tư nhân. Ngân sách của Chính phủ thường chiếm 50 - 60%, những nước phát triển ngân sách đầu tư của Chính phủ chỉ chiếm 20- 30% trong tổng số. Số liệu một số nước năm 1995 như sau: Singapore Ngân sách Chính phủ đầu tư chiếm 50% so với tổng số Viện Khoa học năng lượng
  5. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Hàn Quốc 19% Nhật Bản 23% Đức 37% Mỹ 36% Đối với nước ta, khu vực sản xuất cũng có đầu tư cho KHCN nhưng số này chưa nhiều. Chúng ta chưa có cơ chế thành lập quỹ KHCN của các doanh nghiệp, chưa có môi trường thuận lợi cho KHCN đi vào sản xuất. KHCN chưa trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản xuất sản phẩm mới và là nhân tố quyết định trong cuộc cạnh tranh với thị trường. Hơn nữa ta chưa có chế độ báo cáo thống kê đầy đủ nên không thống kê được nguồn vốn ngoài ngân sách là bao nhiêu. Tuy nhiên theo số liệu của các Viện nghiên cứu và các Trường đại học nhận hợp đồng với các cơ sở sản xuất thì vốn ngoài ngân sách đạt khoảng 20% tổng số vốn đầu tư cho KHCN. Ngân sách nhà nước vẫn là nguồn chính, chiếm khoảng 80% tổng số vốn đầu tư cho hoạt động R&D. Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu xây dựng một số các cơ chế, chính sách nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư, chủ yếu huy động từ khu vực sản xuất kinh doanh và các thành phần kinh tế khác. Ngoài những cơ chế đã có về tạo nguồn, nhằm đa dạng hoá các nguồn vốn cho hoạt động KHCN, trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, Bộ KHCN&MT phối hợp với các Bộ chức năng của Nhà nước ban hành một số các chính sách và cơ chế tạo nguồn như: Cơ chế cho phép các trường đại học, các viện nghiên cứu được tổ chức sản xuất kinh doanh các sản phẩm là kết quả nghiên cứu của viện và trường, các sản phẩm đơn chiếc mà sản xuất chưa sẵn sàng tiếp nhận. Từ hoạt động đó các viện và trường có thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động nghiên cứu và tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Viện Khoa học năng lượng
  6. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học - Cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, cho phép các doanh nghiệp lập quỹ phát triển KHCN. - Chế độ miễn giảm thuế đối với các sản phẩm có công nghệ mới, công nghệ cao, miễn gỉam thuế đối với việc nhập khẩu các thiết bị vật tư cho nghiên cứu khoa học. - Cơ chế cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp hoặc ngân sách khoa học bù lãi suất cho các đơn vị triển khai các công trình nghiên cứu triển khai và đổi mới công nghệ. - Thành lập các quỹ hỗ trợ, quỹ tài trợ cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Thành lập quỹ nghiên cứu khoa học cơ bản. - Cơ chế được sử dụng kinh phí của các chương trình kinh tế - xã hội để nghiên cứu khoa học phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả các dự án thuộc chương trình. - Cơ chế được sử dụng vốn của các công trình xây dựng cơ bản để nghiên cứu khoa học giải quyết những vấn đề phát sinh của chính. công trình đó. Từ việc xây dưng cơ chế tạo nguồn vốn cho KHCN để phấn đấu đầu tư cho KHCN ngày càng tăng và tỷ trọng đầu tư của ngân sách nhà nước giảm, có thể là ngân sách nhà nước 60% và các nguồn khác 40% trong những năm tới Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, người ta đều thành lập nhiều loại quỹ khác nhau, trong đó có một phần ngân sách nhà nước cấp, ngoài ra huy động các công ty, các tổ chức, cá nhân đóng góp. Do vậy các nguồn tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ rất phong phú. Theo Luật khoa học và công nghệ, sẽ có 3 loại quỹ phát triển KHCN là quỹ phát triển KHCN quốc gia, quỹ của các bộ, tỉnh, thành phố và quỹ của các tổ chức tư nhân. Viện Khoa học năng lượng
  7. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Sau đây xin trình bầy một số các nguồn vốn cho KHCN mà nước ta đang thực hiện 3.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đầu tư cho KHCN được kết cấu từ 2 phần: vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho các cơ quan khoa học và vốn sự nghiệp nghiên cứu khoa học. * Vốn xây dựng cơ bản của khoa học: Hàng năm nhà nước đầu tư cho xây dựng các cơ quan khoa học một khoản kinh phí, thông thường chiếm trong khoảng 15% và gần đây lên đến 30% trong tổng đầu tư cho KHCN. Trước hết phải thấy rằng trong một thời gian đầu, nước ta phát triển các cơ quan khoa học theo chiều rộng. Các cơ quan nghiên cứu được tăng nhanh trong khi cơ sở vật chất hầu như chưa có gì. Ban đầu các viện nghiên cứu còn xây dựng bằng nhà tranh, nhà cấp 4, trang thiết bị thô sơ, nghèo nàn. Qua một số năm tập trung giải quyết cơ sở hạ tầng mà chủ yếu là xây dựng, sửa chữa, cải tạo phần vỏ bao che, trang thiết bị vẫn yếu kém, thiếu và lạc hậu. Ngoài một số viện được viện trợ của các dự án quốc tế cũng được trang bị một số thiết bị, còn lại phần mua sắm bằng kinh phí trong nước rất hạn chế. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung vào xây lắp, vốn sự nghiệp nghiên cứu chỉ mua được các thiết bị lẻ, ít tiền. Các thiết bị hiện đại, đồng bộ, giá hàng tỷ đồng thì không có nguồn vốn nào đầu tư. Trước đây mức đầu tư cho xây dựng cơ bản còn rất thấp so với nhu cầu, vì vậy nhiều công trình xây dựng kéo dài hàng 6 - 8 năm mới đưa vào sử dụng. Đối với các viện nghiên cứu, nhà xưởng là quan trọng nhưng quan trọng hơn là trang thiết bị của các phòng thí nghiệm. Đối với cán bộ khoa học nếu không có trang thiết bị cũng giống như người nông đân không có cái cày để cày ruộng. Bắt đầu giai đoạn 1996 -2000, Bộ KHCN&MT thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư dành một phần vốn XDCB để đầu tư chiều sâu cho các viện nghiên cứu. Theo Nghị quyết Trung ương 2 và theo Quyết định số Viện Khoa học năng lượng
  8. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học 850 của Thủ tướng Chính phủ, từ nay đến năm 2005 đầu tư xây dựng 16 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đạt tiêu chuẩn khu vực (giai đoạn 1) (khoảng 3 triệu USD/phòng thí nghiệm). Để đạt mục tiêu này phải có sự cố gắng của các cơ quan nhà nước và của Chính phủ và tình hình hiện nay hoàn toàn có khả năng thực hiện được. * Kinh phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học Kinh phí sự nghiệp khoa học thường chiếm tỷ lệ lớn (70 - 80%) trong tổng số ngân sách đầu tư cho KHCN. Tổng ngân sách chi cho sự nghiệp KHCN được cân đối theo ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Nhìn chung đây là nguồn kinh phí chủ yếu để Nhà nước, các bộ, ngành cũng như các tỉnh/thành phố triển khai các chương trình, đề tài nghiên cứu và các dự án sản xuất thử nghiệm. Ngoài ra còn chi cho các hoạt động thông tin, TCĐLCL, hợp tác quốc tế đào tạo... Ngân sách trung ương chi cho các nhiệm vụ trọng điểm của Nhà nước và nhiệm vụ của các bộ, ngành trung ương trong đó có chi lương cho cán bộ khoa học của các viện NC-TK. Ngân sách địa phương chi cho các hoạt động KHCN của các tỉnh/thành phố (không chi cho lương của các sở KHCN&MT). Kinh phí sự nghiệp khoa học cân đối trong ngân sách trung ương thường được đảm bảo đầy đủ theo kế hoạch được giao. Còn đối với địa phương, nhà nước giao kế hoạch thu và kế hoạch chi, nếu kế hoạch thu không đạt thì kế hoạch chi cũng bị cắt giảm. Thông thường loại sự nghiệp bị cắt giảm trước lại là khoa học. Có một số tỉnh cấp đủ theo kế hoạch nhưng tại tính cả lương của sở hoặc chi cục trong tổng số kinh phí đó, theo nguyên tắc thì kinh phí đó không kể lương. Ngoài vốn xây dựng cơ ban và kinh phí sự nghiệp khoa học, trong cơ cấu của ngân sách còn có vốn điều tra cơ bản lấy trong sự nghiệp kinh tế: chủ yếu cấp cho các nhiệm vụ điều tra cơ bản của các ngành và cho các địa phương, trong đó có các nhiệm vụ về bảo vệ môi trường. Đối với các địa phương, kinh phí thực hiện các dự án điều tra cơ bản và môi trường thường giao cho Sở Viện Khoa học năng lượng
  9. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học KHCN&MT quản lý. Kinh phí này cũng được cân đối qua ngân sách địa phương. 3.2. Nguồn vốn tự có của các bộ, tỉnh/thành phố và cơ sở Để tăng quyền chủ động của các bộ và tỉnh/thành phố và các cơ sở, cũng như tăng thêm nguồn vốn cho hoạt động KHCN, liên Bộ KHCN&MT và Bộ Tài chính đã ban hành một số các Văn bản như: - Thông tư liên Bộ KHCN&MT và Bộ Tài chính số 1291/KHCN&MT- TC ngày 8 tháng 10 năm 1992 hướng dẫn việc trích lập và sử dụng quỹ hỗ trợ phát triển KHCN của các Bộ và Tỉnh/thành phố thành. Nguồn thành lập quý chủ yếu trích từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp trực thuộc, nguồn thu hồi do hoạt động nghiên cứu khoa học và các dự án SXTN mang lại. Tuy nhiên, qua một số năm triển khai thực hiện, chỉ một số ít Bộ và địa phương tạo được quỹ này. Hơn nữa, do chế độ quản lý tài chính của các doanh nghiệp đã thay đổi nhiều, chế độ tài chính doanh nghiệp hiện nay không qui định cho doanh nghiệp trích quỹ đầu tư phát triển nộp cho quỹ của bộ, tỉnh, do vậy nguồn thu chủ yếu của quỹ không có. Còn thu từ hoạt động nghiên cứu đề tài và các dự án SXTN cấp bộ, tỉnh/thành phố nơi có nơi không và không đáng kể. Thực hiện Luật ngân sách nhà nước, các bộ không được thành lập quỹ riêng mà các nguồn thu tập trung vào quỹ hỗ trợ phát triển KHCN của Nhà nước. Nguồn thu này lại bổ sung vào kinh phí cho hoạt động KHCN hàng năm của bộ. Theo Thông tư liên Bộ số 50/TTLB-BTC-BKHCN&MT ngày 15 tháng 4 năm 1998 hướng dẫn việc quản lý kinh phí thu hồi từ các hoạt động KHCN, các tỉnh/thành phố vẫn tiếp tục được thành lập quỹ và giao cho Sở KHCN&MT quản lý. - Cơ sở sản xuất: đối với các doanh nghiệp theo Nghị định số 59/TTg ngày 3 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ được lập quỹ nghiên cứu khoa học trích từ quỹ đầu tư phát triển, đồng thời được trích một tỷ lệ nộp cho Viện Khoa học năng lượng
  10. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Tổng công ty để lập quỹ nghiên cứu khoa học của Tổng công ty. Đây là một qui định mới và rất tiến bộ trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Ngoài ra 2 Luật thuế mới (thuế Thu nhập doanh nghiệp và thuế VAT) được Quốc hội ban hành có hiệu lực từ 1/1/1999 cũng có nhiều yếu tố thuận lợi về tạo quỹ cho hoạt động KHCN của doanh nghiệp. - Các cơ sở nghiên cứu khoa học: những năm gần dây, ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước và Bộ giao, các cơ sở nghiên cứu triển khai rất năng động trong việc tìm kiếm việc làm, gắn bó với cơ sở sản xuất, chuyển giao các kết quả nghiên cứu cho sản xuất, thực hiện các dịch vụ KHCN nên cũng có nguồn thu. Có những viện thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ, nguồn thu do ký kết hợp đồng chiếm đến 40 -50% doanh thu của viện. Khai thác từ hợp đồng viện tạo thêm việc làm cho cán bộ khoa học, trích quỹ hỗ trợ phát triển KHCN của viện, đồng thời tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên nhiều viện cũng rất khó khăn, nhất là các viện nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước cấp. * Nguồn vốn hợp tác với nước ngoài: Thời kỳ từ năm 1990 trở về trước ta có dược một nguồn viện trợ không hoàn lại rất đáng kể từ các nước Liên xô cũ và các nước Đông âu. Ngoài ra các tổ chức quốc tế như UNDP, FAO, UNIDO... cũng có những dự án viện trợ cho phát triển khoa học công nghệ. Nguồn vốn viện trợ chủ yếu chi cho việc đào tạo trong nước cũng như ngoài nước, cho cho các vật mẫu, các tài liệu kỹ thuật. Ngoài ra cũng có 40 - 50 % vốn được dùng để mua sắm các trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm. Hiện nay nguồn viện trợ không hoàn lại theo các nghị định thư như trước đây không còn nữa. Các dự án của UNDP viện trợ cũng chuyển mục tiêu. Các dự án viện trợ chủ yếu cho điều tra cơ bản, cho xây dựng chính sách... Hàng năm vẫn có các nguồn viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, nhưng so với trước thì giảm đi nhiều. Viện Khoa học năng lượng
  11. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Nguồn vốn này được thực hiện dưới các hình thức sau đây: - Các dự án về chuyển giao công nghệ (chủ yếu là chuyên gia, đào tạo, một phần nhỏ trang thiết bị, vật mẫu, tài liệu kỹ thuật...). - Các dự án để điều tra, xây dựng cơ sở dữ liệu, xây dựng chính sách, làm thử mô hình... - Các đề tài hợp tác nghiên cứu 2 bên.... - Tổ chức các Hội nghị, Hội thảo khoa học quốc tế. - Hỗ trợ kinh phí cho các suất đào tạo, đi dự hội nghị khoa học.... Cũng rất tiếc là hiện nay do nhiều cơ quan quản lý hoặc đôi khi không có cơ quan nào quản lý nên không có được số liệu về nguồn vốn này. Hàng năm khi cân đối ngân sách cho KHCN, Bộ KHCN&MT. và Bộ Tài chính tạm thời thống nhất với nhau về số thu của nguồn viện trợ khoảng 20 tỷ đồng, còn cụ thể ở bộ, ngành nào bao nhiêu và những dự án gì thì không thống kê được. Liên quan đến vấn đề đầu tư tài chính cho KHCN là vấn đề tạo nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Bộ KHCN&MT đang phối hợp với các Bộ chức năng nghiên cứu các cơ chế để huy động các nguồn vốn đầu tư cho KHCN. Ngoài ra còn các biện pháp khác như khuyến khích bằng ưu đãi về thuế, tín dụng. Đối với nghiên cứu cơ bản, nhiều nước đều thành lập các quỹ cho nghiên cứu cơ bản. Quỹ này do một Hội đồng quỹ quản lý và xét cấp cho các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản thông qua tuyển chọn, đấu thầu (Mỹ, Trung quốc, CHLB Nga, CHLB Đức). Hiện nay Bộ KHCN&MT cũng đang nghiên cứu đề án thành lập quỹ cho nghiên cứu KHCN. Trong luật KHCN cũng có các điều về thành lập quỹ hỗ trợ và quỹ tài trợ cho KHCN ở cấp nhà nước và cấp bộ, tỉnh/thành phố. II. PHÂN PHỐI VÀ S Viện Khoa học năng lượng
  12. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Từ việc phân tích các nguồn vốn nêu trên, bức tranh cho thấy rằng nguồn vốn ngân sách là chủ yếu. Quỹ của các bộ và tỉnh/thành phố cũng như vốn của các doanh nghiệp còn rất ít, vốn viện trợ ít và chưa thể thống kê dược. Vì vậy chúng ta đi sâu phân tích việc phân bổ và nội dung sử dụng nguồn vốn đầu tư cho KHCN từ ngân sách nhà nước. Có 2 vấn đề cần quan tâm là tăng dần mức đầu tư hàng năm và có chính sách cơ chế sử dụng hợp lý, hiệu quả. Câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý là đầu tư vào đâu, cho những việc gì và biện pháp nào để mang lại hiệu quả cho đồng vốn đầu tư. Đồng thời còn một vấn đề nữa là khoa học có bao cấp không, đến mức độ nào trong tình hình chuyến sang cơ chế thị trường? Trả lời câu hỏi này không phải dễ và đó là câu hỏi thường xuyên đặt ra cho các nhà khoa học và các cơ quan quản lý khoa học. Các vấn đề này phải được giải quyết bằng các chính sách, các cơ chế và các biện pháp cụ thể. Về mặt phương pháp luận tài chính phải phục vụ cho mục tiêu chiến lược phát triển KHCN của quốc gia và tập trung cho các nhiệm vụ trọng tâm trọng điểm của từng giai đoạn cụ thể. Trong giai đoạn vừa qua nguồn vốn ngân sách được sử dụng như sau: II.1. Vốn xây dựng cơ bản cho KHCN Như trên đã nêu thời gian qua vốn đầu tư xây dựng cơ bản đành chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở làm việc của các viện nghiên cứu triển khai, xây dựng các cơ sở thí nghiệm và các xưởng thực nghiệm chế thử. Phần đầu tư cho các trang thiết bị hầu như không đáng kể. Điều đó xuất phát từ tình hình thực tế nhà xưởng của các viện nghiên cứu trước đây chủ yếu là nhà cấp bốn, thậm chí chỉ là tranh tre, một số viện được xây dựng cũng khoảng vài ba chục năm nên cũ nát và rất chật chội. Về nguyên tắc nếu đủ vốn thì xây dựng phải đi kèm theo trang thiết bị, nhưng vì nhu cầu quá lớn trong khi vốn đầu tư rất có hạn nên chỉ cân đối cho các việc thực hiện việc xây lắp. Tình hình trang Viện Khoa học năng lượng
  13. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học thiết bị của các cơ quan khoa học cũng rất đáng quan tâm. Trang thiết bị khoa học thường rất đắt tiền, lại lạc hậu nhanh, công suất sử dụng lại không cao như sản xuất. Nguồn thiết bị của các viện được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: từ viện trợ của các nước XHCN cũ, từ các dự án của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), từ việc hợp tác song phương với các viện hoặc các tổ chức quốc tế khác... Do vậy tình hình chung là trang thiết bị thiếu, không đồng bộ, lạc hậu. Vài năm gần đây khi phần xây lắp của các viện tạm thời đảm bảo ở mức tối thiểu, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ KHCN&MT thống nhất chuyển dần vốn đầu tư XDCB sang đầu tư trang thiết bị cho các cơ quan khoa học. Dù có dành vốn XDCB cho mua sắm trang thiết bị thì số đó vẫn còn quá nhỏ bé so với yêu cầu thực tế. Với số lượng khoảng 100 viện và trung tâm nghiên cứu triển khai, các trung tâm thử nghiệm đo lường, mỗi viện có đến vài chục phòng thí nghiệm, lại còn các trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm thuộc các trường đại học đang rất thiếu: trang thiết bị, đang cần phải đầu tư, thì việc. mỗi năm nhà nước dành khoảng 10 triệu USD cho đầu tư trang thiết bị vẫn còn thấp so với nhu cầu. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là phải xác định các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia theo các hướng khoa học công nghệ ưu tiên để tập trung đầu tư trước Hơn nữa, cũng phải xây dựng cơ chế sử dụng chung trang thiết bị đối với những thiết bị quý hiếm, đắt tiền nhằm sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm. II.2. Vốn sự nghiệp Khoa học Vốn Sự nghiệp khoa học được cân đối qua ngân sách trung ương và ngân sách địa phương - Ngân sách trung ương khoảng 76 - 80% - Ngân sách địa phương khoảng 20 - 24% Viện Khoa học năng lượng
  14. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Nội dung chi của ngân sách trung ương bao gồm: - Chi cho lương và hoạt động bộ máy của các cơ quan KHCN được sắp xếp theo Quyết định 782/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 tháng 10 năm 1996. Số biên chế trong các cơ quan khoa học đang hưởng lương khoảng 15.000 cán bộ. - Cho cho các chương trình KHCN và chương trình KHXH cấp nhà nước. - Chi cho các đề tài độc lập cấp nhà nước. - Cho cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tự nhiên. - Các nhiệm vụ KHCN cấp bộ (các chương trình, đề tài, dự án cấp bộ, Thông tin, hợp tác quốc tế...). - Thông tin KHCN. - Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng. - Các dự án về nhập các kết quả nghiên cứu. - Tăng cường trang thiết bị cho các cơ quan KHCN. - Chống xuống cấp, sửa chữa nhỏ các cơ quan KHCN. - Quản lý nhà nước về môi trường. - Hợp tác quốc tế . - Nhập sách, tạp chí nước ngoài cho các trúng tâm thông tin quốc gia. Các nội dùng trên đây cũng có sự thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. Nội dung chi cho quản lý nhà nước về môi trường mới xuất hiện khi có Luật bảo vệ môi trường năm 1993. Nội dung chi về nhập các kết quả nghiên cứu xuất hiện năm 1994 khi xuất hiện tình hình Liên xô cũ tan rã và họ bán công nghệ với giá rẻ. Nội dung chống xuống cấp cho các cơ quan khoa học được thực hiện từ năm 1991 khi vấn đề hết sức cấp bách và thực hiện chủ trương này rất có hiệu quả. Nội dung về tăng cường trang thiết bị được thực hiện từ năm 1994 khi nhu cầu trang thiết bị của các viện nghiên cứu rất bức bách trong khi như đã phân tích ở trên, vốn đầu tư rất có hạn. Bộ KHCN&MT chủ trương dành một phần kinh phí sự nghiệp khoa học để bổ sung trang thiết bị lẻ, tăng cường năng lực của các cơ quan nghiên cứu triển khai, đặc biết là các Viện Khoa học năng lượng
  15. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học viện thực hiện các nhiệm vụ KHCN theo các hướng trọng điểm của Nhà nước. Qua 4 năm thực hiện thấy rất có hiệu quả và các bộ, ngành, các cơ quan khoa học rất hoan nghênh. Theo số liệu những năm qua, phần chi cho lương và bộ máy của các cơ quan khoa học chiếm khoảng 25 - 30% ngân sách trung ương. Theo tinh thần sắp xếp lại các cơ quan khoa học và do số liệu đầu tư tăng lên thì tỷ trọng lương sẽ giảm dần trong tổng số kinh phí sự nghiệp khoa học. Không thể nói rằng việc chi lương cho cán bộ khoa học !à bao cấp vì rằng nguồn nhân lực này đối với các nước đều được Chính phủ trả lương. Vấn đề là phải sắp xếp các cơ quan khoa học để tránh trùng lắp, không để nhiều cơ quan có chức năng chồng chéo nhau, lực lượng tản mạn, manh muốn. Đồng thời khi đã có một hệ thống cơ quan nghiên cứu khoa học hợp lý, chức năng rõ ràng thì nhà nước phải trả tương xứng đáng cho lao động chất xám của các nhà khoa học. Theo Quyết định 782/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/10/1996 về sắp xếp các cơ quan khoa học, trong đó có một số viện đưa về trực thuộc các tổng công ty. Tiếp đó Thông tư liên Bộ số 395 qui định sẽ cắt dần quỹ lương và hoạt động bộ máy của các viện này trong vòng 5 năm. Sau 5 năm, tức là bắt đầu từ năm 2002 thì Nhà nước không cấp lương và chi hoạt động bộ máy từ ngân sách Nhà nước cho các viện nghiên cứu mà tổng công ty phải giao nhiệm vụ và đảm bảo quỹ lương. Tình hình này làm cho các viện đang rất lo lắng vì rằng các tổng công ty và viện chưa gắn bó hữu cơ, chưa thực sự thấy cần cho nhau trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trong kỳ kế hoạch 1991-1995 Nhà nước đã giảm số chương trình xuống còn 31 chương trình và kỳ kế hoạch 1996-2000 số chương trình giảm xuống còn 18 chương trình. Số lượng đề tài trong mỗi chương trình cũng rút xuống từ 20-25 đề tài xuống còn 12 đề tài. Điều đó chứng tỏ quyết tâm của nhà nước thực sự tập trung có trọng điểm theo các hướng KHCN ưu tiên. Giai đoạn trước đây, mỗi đề tài thuộc chương trình được cấp tối đa khoảng 500 - 600 Viện Khoa học năng lượng
  16. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học triệu đồng thì giai đoạn này có đề tài được đầu tư đến 2,5 tỷ đồng, thông thường khoảng 1,2-1,5 tỷ đồng. Với sự đầu tư này nhà nước chỉ đạo các đề tài phải cho ra được sản phẩm có giá trị và được ứng dụng trong sản xuất và đời sống. Kinh phí chi cho các nhiệm vụ khoa học cấp bộ chiếm khoảng 30% tổng số kinh phí của ngân sách trung ương. Khoản kinh phí này do Bộ chủ quản phân bổ. Thực tế cho thấy các Bộ chủ quản cũng mắc phải một mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng, vì vậy dẫn đến mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán. Kinh phí đã ít nhưng phải chia cho nhiều viện, nhiều đề tài, kinh phí cho mỗi đề tài ít dẫn đến tình trạng đề tài nghiên cứu thì nhiều nhưng kết quả cuối cùng để áp dụng trong sản xuất thì đạt tỷ lệ thấp. Kinh phí chi cho các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về môi trường: hiện nay kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường chưa có một nguồn vốn riêng trong cơ cấu chi của ngân sách Nhà nước. Do vậy chi cho các nhiệm vụ quản lý Nhà nước về môi trường cân đối trong kinh phí sự nghiệp khoa học. Các đề án về điều tra hiện trạng, đánh giá tác động, bảo vệ môi trường được cân đối trong kinh phí sự nghiệp kinh tế. Ngoài nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, từ năm 1991 đến nay Bộ KHCN&MT triển khai thực hiện các dự án sản xuất thử nghiệm có thu hồi 80-100 % kinh phí hỗ trợ, hàng năm thu được khoảng 20- 30 tỷ đồng để đầu tư trở lại cho hoạt động KHCN. Nguồn kinh phí thu hồi này tiếp tục cấp cho các dự án SXTN của trung ương và địa phương và theo cơ chế có thu hồi nên chủ dự án phải tính toán sử dụng có hiệu quả. Đối với các nhiệm vụ của Nhà nước khi giao cho địa phương thực hiện thì ngân sách trung ương cũng cấp về cho các địa phương theo hình thức ký hợp đồng, Bộ KHCN&MT cấp trực tiếp cho địa phương hoặc Bộ Tài chính cấp theo hình thức uỷ quyền qua Sở Tài chính - Vật giá của tỉnh/thành phố. Nội dung chi của ngân sách địa phương bao gồm: Viện Khoa học năng lượng
  17. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học - Chi cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng, các nhiệm vụ về ứng dụng kỹ thuật tiến bộ. - Các nhiệm vụ về tham mưu tư vấn cho tỉnh/thành phố về hoạt động KHCN - Công tác Tiêu chuẩn - Đo lường - chất lượng. - Nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.. - Công tác sở hữu công nghiệp. - Tăng cường cơ sở vật chất của Sở, chi cục và các trung tâm kỹ thuật. - Hoạt động thông tin KHCN. - Công tác đào tạo, tập huấn, hợp tác quốc tế, thống kê tiềm lực KHCN, thanh tra KHCN. Nhìn vào các nội dung trên cho thấy rằng hoạt động KHCN của các địa phương rất phong phú, nhiệm vụ nhiều nhưng kinh phí rất hạn chế. Cơ sở vật chất của các Sở KHCN&MT, các Chi cục TCĐLCL, các trung tâm phân tích, trung tâm môi trường rất nghèo nàn và thiếu thốn. Việc trang bị cơ sở vật chất bằng nguồn vốn đầu tư cơ bản không có nên các Sở đành sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học hàng năm để bổ sung cơ sở vật chất và cũng không được là bao. Khi kinh phí phải dàn trải thì hiệu quả sẽ mang lại thấp. chỉ có 2 thành phố lớn là Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, ngân sách địa phương dành cho KHCN&MT tương đối khá, mỗi năm vài chục tỷ đồng. Tình hình thực tế thường gặp đối với các địa phương: cân đối các khoản chi trên cơ sở các khoản phải thu, khi kế hoạch thu không đạt thì kế hoạch chi cũng bị cắt giảm và hạng mục bị cắt giảm thường là kinh phí khoa học. Một số địa phương được coi là cấp đủ theo kế hoạch giao nhưng lại dùng kinh phí khoa học để cấp lương cho Sở KHCN&MT hoặc cấp lương cho chi cục TCĐLCL mà lẽ ra lương của các cơ quan này không được tính vào kinh phí này. Viện Khoa học năng lượng
  18. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Đối với hoạt. động KHCN địa phương, ngoài phần chi được cân đối trực tiếp từ ngân sách địa phương, còn được hỗ trợ của trung ương thông qua cấp uỷ quyền hoặc cấp trực tiếp theo hợp đồng như: - Hỗ trợ tăng cường cơ cơ vật chất các Sở KHCN&MT, trang thiết bị cho chi cục TCĐLCL, thiết bị quan trắc môi trường. - Thực hiện các dự án SXTN, các dự án nông thôn, miền núi, các đề án xây dựng luận cứ khoa học phục vụ cho qui hoạch của địa phương hoặc vùng, các đề án về nuôi cấy mô, mở các lớp đào tạo tập huấn nghiệp vụ, khảo sát nước ngoài. CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CHO HOẠT ĐỘNG KHCN Kế hoạch tài chính là một nội dung của kế hoạch KHCN, do vậy qui trình và thời hạn lập kế hoạch tài chính tuân theo như qui trình và thời hạn lập kế hoạch KHCN. Bộ KHCN&MT sẽ đưa ra một qui trình và tiến độ xây dựng kế hoạch từ tháng 1 đến tháng 12 hàng năm để thực hiện thống nhất đối với các Bộ ngành và các địa phương. Cơ chế quản lý tài chính cho KHCN nhằm mục đích đảm bảo cung cấp tài chính đúng đối tượng, đúng nội dung, chi tiêu đúng chế độ và có hiệu quả. Trong công tác quản lý tài chính cho hoạt động KHCN, các Bộ chức năng của nhà nước như Bộ KHCN&MT, Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ phải phối hợp thường xuyên và chặt chẽ theo chức năng của từng Bộ như sau: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường: - Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong. việc lập kế hoạch và phân bổ ngân sách đâu tư cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ để trình Chính phủ duyệt. Xây dựng các chính sách, biện pháp khuyến khích, đầu tư cho KHCN từ các nguồn vốn khác nhau. Tổ chức xây dựng các quỹ KHCN nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho KHCN. Viện Khoa học năng lượng
  19. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học - Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc lập kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cơ quan khoa học và công nghệ và áp dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất và đời sống. - Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các chế độ chi tiêu và cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KHCN Bộ Kế hoạch và Đầu tư: - Phối hợp với Bộ KHCN&MT trong việc lập kế hoạch và cân đối ngân sách đầu tư cho khoa học và công nghệ để trình Chính phủ duyệt. Xây dựng các chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư cho KHCN từ các nguồn vốn khác nhau. - Chủ trì phối hợp với Bộ KHCN&MT trong việc lập kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cơ quan khoa học và công nghệ và áp dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất và đời sống. Bộ Tài chính: - Phối hợp với Bộ KHCN&MT trong việc lập kế hoạch và phân bổ ngân sách đầu tư cho KHCN. Tổng hợp nhu cầu tài chính cho hoạt động KHCN vào dự án ngân sách nhà nước 5 năm và hàng năm trình Chính phủ. - Phối hợp với Bộ KHCN&MT xây dựng những biện pháp khuyến khích về tài chính và thuế để hỗ trợ đầu tư gián tiếp cho hoạt động KHCN. - Chủ trì, phối hợp với Bộ KHCN&MT xây dựng các chế độ chi tiêu và cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KHCN. - Đảm bảo cấp phát đủ và đúng tiến độ kinh phí từ ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn cho các nhiệm vụ KHCN. Đối với các địa phương, Các Sở KHCN&MT, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá cũng có chức năng và trách nhiệm như vậy. Ba cơ quan này ở địa phương cũng phải phối hợp thường xuyên và chặt chẽ. Kinh nghiệm cho thấy địa phương nào ba cơ quan này phối hợp tốt thì hoạt động quản lý tài chính ở đấy thuận lợi. Viện Khoa học năng lượng
  20. Tài liệ hướng dẫn về công tác nghiên cứu khoa học Trong những năm qua Bộ KHCN&MT phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu ban hành các thông tư liên bộ hướng dẫn công tác quản lý tài chính theo từng nội dung của kế hoạch KHCN, theo từng thời kỳ phù hợp với quá trình quản lý hoạt động KHCN của nhà nước Trong thời gian qua, liên Bộ KHCN&MT và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác quản lý tài chính cho hoạt động KHCN chung và theo từng nội dung và theo từng thời kỳ. Danh mục các văn bản đó được đưa vào phụ lục kèm theo. Nhìn chung các văn bản hướng dẫn về quản lý tài chính cho hoạt động KHCN&MT đã đáp ứng được phần nào yêu cầu, tạo điều kiện cho các cơ quan khoa học, các nhà quản lý khoa học, quản lý tài chính có căn cứ để triển khai nhiệm vụ. Tuy nhiên, số lượng các văn bản cần thiết vẫn còn thiếu, nội dung hướng dẫn chưa thật đầy đủ và chưa đáp ứng được tình hình thực tế. Nhiều chế độ định mức chi tiêu còn thấp so với yêu cầu. Nhiều thủ tục qui định còn phức tạp, gò bó đối với lĩnh vực hoạt động KHCN. Một số chính sách, chế độ khuyến khích về thuế, về quỹ, về tín dụng chưa có hoặc cồ rồi nhưng lại mâu thuẫn nhau. Ví dụ như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động KHCN còn bất hợp lý. Về công tác quản lý tài chính cụ thể đối với các nhiệm vụ tuân theo một qui trình gồm các nội dung như sau: + Lập dự toán + Duyệt dự toán + Cấp phát + Thanh quyết toán + Kiểm tra Sau đây xin trình bày cụ thể các nội dung trên: 1. Về công tác lập dự toán: Viện Khoa học năng lượng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2