intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Mac Lênin

Chia sẻ: Thuy Thuy | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

76
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Mac Lênin trình bày các câu hỏi về về Mac Lênin như: chứng minh hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt, trình bày ý nghĩa khi nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam hiện nay, cho biết những biện pháp của nhà nước để điều hòa mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Mac Lênin

  1. MAC LÊNIN  2.1/ Chứng minh hàng hóa sức lao động là hàng hóa đặc biệt.   2.2/ Trình bày ý nghĩa khi nghiên cứu vấn đề  này  ở  Việt Nam hiện   nay  2.3/ Cho biết những biện pháp của nhà nước để  điều hòa mối quan   hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Lời nói đầu: Trong những năm qua nền kinh tế nước ta dần dần chuyển   nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều   thị  trường của nước ta đã từng bước được hình thành và phát triển, song  trình độ  phát triển còn thấp so với các nước và sự  phát triển của nó còn  thiếu  đồng bộ. Một  trong những thị  trường  được hình thành  đó là thị  trường sức lao động (hay còn gọi là thị  trường lao động). Cho đến nay  vẫn còn chưa có nhận thức rõ và thống nhất về  thị  trường sức lao động.  Trước đổi mới, chúng ta hầu như  không thừa nhận thị  trường sức lao  động . Trog điều kiện như hiện nay thừa nhận nó là tất yếu. Sức lao động   được xem là hàng hóa đặc biệt, sản phẩm được tạo ra từ sức lao động lại   mang một ý nghĩa hết sức to lớn góp phần làm phát triên đến ngành kinh 
  2. MAC LENIN2 tế  của đất nước.Cả  người lao động và sử  dụng lao động  đều có những  quyền cơ bản đảm bảo cho viêc tham gia vao thị trường lao động. I. SỰ CHUYỂN HOÁ SỨC LAO ĐỘNG THÀNH HÀNG HOÁ 1. Khái niệm : ­ Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của  con người thông qua trao đổi, mua bán. (Ví dụ: Tivi, trái cây, lúa, gạo,…) ­ Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người,   nó được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất. 2. Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá: Trong bất kỳ  xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố  hàng đầu của   quá trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng  là hàng hoá. Sức lao động chỉ  biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện  sau:  ­ Một là người lao động phải được tự  do về  thân thể, do đó có khả  năng chi phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên  thị  trường với tư  cách là hàng hoá, nếu nó do bản con người có sức   lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có quyền  sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi  hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến.  ­ Hai là người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự  tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động  mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào  khác để sinh sống.  Page 2
  3. MAC LENIN2 Sự  tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ  sức lao   động biến thành hàng hoá. Dưới chủ  nghĩa tư  bản, đã xuất hiện đầy đủ  hai điều kiện đó. Một mặt, cách mạng tư  sản đã giải phóng người lao  động khỏi sự  lệ  thuộc về  thân thể  vào chủ  nô và chúa phong kiến. Mặt  khác, do tác động của quy luật giá trị  và các biện pháp tích luỹ  nguyên   thuỷ  của tư  bản đã làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến họ trở  thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số  ít người.  Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn. Quan hệ làm thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư bản, nhưng không  phổ biến và chủ yếu được sử dụng trong việc phục vụ nhà nước và quốc  phòng. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản nó mới trở nên phổ biến, thành hệ thống   tổ chức cơ bản của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Sự cưỡng bức phi kinh  tế được thay thế bằng hợp đồng của những người chủ  sở  hữu hàng hoá,   bình đẳng với nhau trên cơ  sở  “thuận mua, vừa bán”. Điều đó đã tạo ra  khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân của các công dân và   đánh dấu một trình độ  mới trong sự  phát triển của văn minh nhân loại.  Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ  yếu quyết định sự  chuyển hoá tiền thành tư bản.  II. HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG LÀ HÀNG HOÁ ĐẶC BIỆT  Cũng như  mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc   tính: giá trị và giá trị sử dụng.  Giá trị  hàng hoá sức lao động cũng giống như  các hàng hoá khác   được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để  sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ  Page 3
  4. MAC LENIN2 tồn tại trong cơ  thể  sống của con người. Để  sản xuất và tái sản  xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng   tư liệu sinh hoạt nhất định. Như vậy, thời gian lao động xã hội cần  thiết để  sản xuất ra sức lao động sẽ  quy thành thời gian lao động  xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói  một cách khác, số  lượng giá trị  sức lao động được xác định bằng  số  lượng giá trị  những tư liệu sinh hoạt để  duy trì cuộc sống của  người có sức lao động ở trạng thái bình thường.  Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng hoá sức lao động bao  hàm cả  yếu tố  tinh thần và lịch sử. Điều đó thể  hiện  ở  chỗ: nhu  cầu của công nhân không chỉ  có nhu cầu về  vật chất mà còn gồm  cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học hành,…). Nhu cầu đó,  cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho   công nhân không phải lúc nào và  ở  đâu cũng giống nhau. Nó tùy  thuộc hoàn cảnh lịch sử  của từng nước, từng thời kỳ, phụ  thuộc   vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước, ngoài ra còn phụ  thuộc vào tập quán, vào điều kiện địa lý và khí hậu, vào điều kiện  hình thành giai cấp công nhân. Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định  thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là  một đại lượng nhất định. Do đó, có thể xác định do những bộ phận   sau đây hợp thành:  + Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao   động của bản thân người công nhân; Page 4
  5. MAC LENIN2 + Hai là, phí tổn học việc của công nhân;  + Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người   công nhân.  Như vậy, giá trị  sức lao động bằng giá trị  những tư  liệu sinh hoạt   vật chất và tinh thần cần thiết để  tái sản xuất sức lao động cho   người công nhân và nuôi sống gia đình của anh ta.   Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời  kỳ  nhất  định, cần nghiên cứu sự  tác động lẫn nhau của hai xu  hướng đối lập nhau. Một mặt là sự tăng nhu cầu trung bình xã hội   về  hàng hoá và dịch vụ, về  học tập và trình độ  lành nghề, do đó  làm tăng giá trị  sức lao động. Mặt khác là sự  tăng năng suất lao   động xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện  tư bản hiện đại, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ  thuật và những điều kiện khác , sự  khác biệt của công nhân về  trình độ  lành nghề, về  sự  phức tạp của lao động và mức độ  sử  dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ  tăng lên. Tất cả  những   điều kiện đó không thể  không  ảnh hưởng đến các giá trị  sức lao   động. Không thể  không dẫn đến sự  khác biệt theo ngành và theo  lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình  của giá trị sức lao động. Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá   khác chỉ  thể  hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là  quá trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất. Nhưng tính  chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động được thể hiện đó là:   Page 5
  6. MAC LENIN2 ­ Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức   lao động so với giá trị  sử  dụng của các hàng hoá khác là  ở  chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động, nó tạo ra một giá   trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn  hơn đó chính là giá trị  thặng dư. Như  vậy, hàng hoá sức lao  động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc  điểm cơ  bản nhất của giá trị  sử  dụng của hàng hoá sức lao  động so với các hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải quyết  mâu thuẫn của công thức chung của tư  bản. Như  vậy, tiền   chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá.  ­ Thứ hai, con người là chủ  thể của hàng hoá sức lao động vì  vậy, việc cung  ứng sức lao động phụ  thuộc vào những đặc  điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động. Đối với  hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người  với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị  trường lao  động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung. III/ Ý NGHĨA KHI NGHIẾN CỨU VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM Việc nghiên cứu hàng hoá sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc   xây dựng thị trường lao động  ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa  nhận sức lao động là hàng hoá (khi có đủ  các điều kiện trở  thành hàng  hoá) cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa là vấn đề  cốt lõi,  trọng tâm của Đảng ta. Nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải có sự phát triển đồng bộ các loại thị trường   và Nghị quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải tiếp tục tạo lập đồng  Page 6
  7. MAC LENIN2 bộ các yếu tố thị trường, thị trường lao động từ chỗ không tồn tại đã bắt  đầu hình thành và phát triển. Thị  trường sức lao động là thị  trường mà  trong đó các dịch vụ  lao động được mua bán thông qua một quá trình để  xác định số lượng lao động được sử dụng cũng như mức tiền công và tiền  lương.  Thị trường lao động là một trong những loại thị trường cơ bản và có một  vị  trí đặc biệt trong hệ  thống các thị  trường của nền kinh tế. Quá trình  hình thành và phát triển cũng như sự vận động của thị trường lao động có  những đặc điểm hết sức riêng biệt. Thị trường lao động cũng như các loại  thị trường khác tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy luật   cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất   ở đây là do tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động. Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ  thống   các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều   thành phần, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, cách hình thức  kinh tế, các vùng phát triển, tạo nhiều việc làm đáp  ứng một bước yêu  cầu việc làm và đời sống của người lao động, do đó cơ hội lựa chọn việc  làm của người lao động ngày càng được mở rộng. Đại hội VIII của Đảng   nêu rõ: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà   đầu tư  mở  mang ngành nghề, tạo nhiều việc cho người lao động. Mọi   công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật.   Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên  địa bàn cả  nước, tăng dân cư  trên các địa bàn có tính chiến lược về  kinh  tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.   Giảm đáng kể  tỷ  lệ  thất nghiệp  ở  thành thị  và thiếu việc làm  ở  nông  Page 7
  8. MAC LENIN2 thôn” ( Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VIII, trang 114­115)  vì vậy người lao động từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc   của Nhà nước (trong thời kỳ  bao cấp), người lao động đã trở  nên năng  động hơn, chủ  động tự  tìm việc làm trong các thành phần kinh tế. Các  quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do   phát huy năng lực của mình và tự  chủ  hơn trong việc tìm kiếm việc làm   phù hợp với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường.   Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên đẩy  mạnh đầu tư  tạo việc làm. Khu vực kinh tế  tư  nhân được thừa nhận và  khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn giải quyết việc làm tạo ra  nhiều cơ hội cho người lao động bán sức lao động của mình.     Ngày nay, vai trò của Nhà nước trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ  bản. Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào  việc tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xoá  bỏ  hàng rào về  hành chính và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi   người được tự  do đầu tư  phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tự  do   hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ hội việc làm được tăng lên  và ít bị  ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí chủ  quan của   Nhà nước. Từng bước hình thành cơ  chế  phân bố  lao động theo các quy  luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao   động…. Theo Luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ  cơ  chế  quản lý hành  chính về  lao động sang cơ  chế  thị trường. Việc triển khai bộ luật này đã  góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội  trong thời gian qua. Nhà nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ  thống  Page 8
  9. MAC LENIN2 pháp luật: Luật Đầu tư  nước ngoài, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp,   Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã thúc đẩy các yếu tố  của  các thị  trường, trong đó thị  trường sức lao động hình thành, mở  ra tiềm   năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở  việc làm. Đồng  thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính  sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tệ  hoá tiền lương, tách chính  sách tiền lương, thu nhập khỏi chính sách xã hội đã góp phần làm tăng   tính cơ động của lao động. Quan hệ  cung ­ cầu về  lao động trên thị  trường sức lao động  ở  nước ta  hiện nay có những biểu hiện sau:  ­ Một là, trên phạm vi cả nước, cung lớn hơn cầu về lao động và tình  trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn đến sức ép rất   lớn về  việc làm, vì chúng ta thiếu vốn đầu tư  nghiêm trọng, chiến  lược lựa chọn công nghệ  thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ  cấu kinh tế  đang trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm   chạm và khó khăn. Cung lớn hơn cầu về lao động còn do lao động  còn tăng với tỷ lệ cao 3,2%­3,5%/năm, dẫn đến mỗi năm có khoảng  1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Số này tham gia vào thị  trường lao động ngày một đông và với khả  năng tự giải quyết việc  làm rất khác nhau, nhưng có điểm thường là không được đào tạo  nghề. Vì vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề  cấp bách và có tính chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất  lượng và sức cạch tranh của lao động trên thị trường.  ­ Hai là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả  nước,  nếu chỉ làm thuần nông, tự cung, tự cấp, thì số lao động thiếu hoặc   Page 9
  10. MAC LENIN2 không có việc làm lên đến 30%. Số  này sẽ  tự  phát di chuyển ra   thành phố  hoặc khu công nghiệp tập trung để  tìm kiếm việc làm,  làm cho cung về lao động trên thị trường lao động càng lớn.  ­ Ba là, quan hệ  cung cầu về  lao động còn căng thẳng về  mặt kết  cấu, dẫn đến tình trạng “thất nghiệp kết cấu”. Điều này thể hiện ở  chỗ: một số ngành tiềm năng còn lớn, có khả  năng thành hiện thực  (về   vốn,   kết   cấu   hạ   tầng,   kỹ   thuật,   công   nghệ,   thị   trường   tiêu  thụ…) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch… ở  một số  vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển vẫn thiếu lao   động, nhưng khả  năng di dân và di chuyển lao động đến rất hạn  chế. Trong khi đang có xu hướng lao động bị  đẩy ra  ở  một số  lĩnh  vực, thì đồng thời một số  lĩnh vực và hình thức khác lại xuất hiện  khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi  kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại chưa có chính sách khuyến  khích thoả đáng. Đặc biệt là thiếu một đội ngũ lao động có trình độ  cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới hoặc   trong các khu chế  xuất, các  đơn vị  kinh tế  có vốn đầu tư  nước   ngoài….   Chính sự  thiếu  ổn định trong quan hệ  cung cầu trên thị  trường sức lao  động đang là nhân tố  làm cho thị  trường này hoạt động kém hiệu quả.  Người lao động khi được tiếp nhận vẫn chưa thực sự gắn bó và yên tâm  với công việc. Người sử dụng lao động chưa thực sự tin tưởng vào người  lao động. Hiện tượng này không chỉ  dẫn đến mất cân đối cung cầu mà  còn làm cho chi phí lao động tăng lên, tiền lương không thể hiện được giá   trị đích thực của sức lao động. Tâm lý bất ổn còn dẫn đến sức hút của các  Page 10
  11. MAC LENIN2 doanh nghiệp và tổ  chức nhà nước mạnh hơn so với các công ty và tổ  chức cá nhân, trong khi khả  năng tạo thêm việc làm mới lại chủ  yếu  thuộc về khu vực tư nhân. IV/ NHỮNG BIỆN PHÁP  CỦA NHÀ NƯỚC  ĐỂ  ĐIỀU HÒA MỐI  QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI LAO ĐỘNG( NLĐ) VÀ NGƯỜI SỬ DỤNG  LAO ĐỘNG( NSDLĐ) 1. Mối quan hệ giữa người lao động (NLĐ) và người sử  dụng lao   động (NSDLĐ). Người lao động (NLĐ) và người sử  dụng lao động (NSDLĐ) là các chủ  thể  trực tiếp tham gia quan hệ trên thị  trường lao động nhưng nhận thức  của họ về quan hệ lao động với tư cách là quan hệ mua bán hàng hóa trên  thị trường, về địa vị pháp lý của họ trong quan hệ, về quy định pháp luật...   vẫn còn nhiều việc phải bàn thêm. Chính vì vậy, khi tham gia quan hệ  trong nhiều trường hợp các chủ thể không xác định đúng vị thế của mình  dẫn đến các hành vi xử sự hoặc đòi hỏi không đúng mức, gây ra sự hiểu   lầm đáng tiếc thậm chí xung đột trong quan hệ. Mặt khác, do chưa có thói  quen lấy pháp luật làm chuẩn mực cho hành vi xử sự, làm công cụ để bảo  vệ  mình, do đó, sự  nhận thức, hiểu biết pháp luật lao động của các chủ  thể  còn rất hạn chế   ảnh hưởng đáng kể  đến sự  vận động bình thường   của thị trường lao động trong thời gian vừa qua. 2. Biện pháp của nhà nước để  điều hòa mối quan hệ giữa người   lao động và người sử dụng lao động. a) Trong mối quan hệ  pháp luật giữa người lao động và người sử  dụng lao động, người lao động phải tự mình thực hiện công việc.  Page 11
  12. MAC LENIN2 Điều đó có nghĩa là người lao động phải tự  mình thực hiện công việc  bằng các hành vi lao động để thực hiện công việc mà không được chuyển   giao nghĩa vụ đó cho người khác, đặc biệt là người không có quan hệ lao   động với người sử  dụng lao động đó. Quan hệ  pháp luật giữa NLĐ và   NSDLĐ khác hẳn với quan hệ lao động ở dạng khoán việc dân sự do luật   dân sự  điều chỉnh hay quan hệ  lao động giữa NLĐ là thành viên của gia   đình tiến hành thực hiện công việc trong quá trình duy trì sinh hoạt gia   đình do luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh ( Khoản 4 điều 3 BLLĐ ).  Những lí do căn bản dẫn đến việc xác định nghĩa vụ thông thường nhưng   có tính bất di bất dịch đối với người lao động có thể thấy là: ­ Về mặt hình thức, NLĐ đã cam kết với NSDLĐ về việc thực hiện công   việc. Sự  cam kết của NLĐ là điều được xác định và không thể  thay đổi   trừ  trường hợp họ  không thực hiện được hoặc quan hệ  lao động đó bị  chấm dứt ­ Về  mặt nội dung, NLĐ tham gia quan hệ  lao động là với mục đích bán   sức lao động của mình cho NSDLĐ. Sức lao động đó chỉ  có và tồn tại   trong bản thân NLĐ đó mà không thể tồn tại trong bất kì NLĐ nào khác. ­ Về  khía cạnh pháp lí, Bộ  luật lao động đã quy định về  nghĩa vụ  bắt  buộc của NLĐ. Do đó, thực hiện công việc theo hợp đồng lao động đã  cam kết chính là tuân thủ  và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của  pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng lao động. b) Người sử  dụng lao động có quyền quản lí đối với người lao   động  Page 12
  13. MAC LENIN2 Đặc điểm này nói lên quyền kiểm soát của NSDLĐ đối với quá trình thực   hiện công việc của NLĐ, bao hàm nhiều khía cạnh, có tính chất toàn diện  của NSDLĐ. Nội dung của quyền quản lí lao động gồm quyền tuyển  chọn, phân công, sắp xếp, điều động, giám sát, xử phạt,…..đối với NLĐ.  Tuy nhiên, mọi hoạt động thuộc hành vi quản lí của NSDLĐ phải được   thực hiện trong khuôn khổ  của pháp luật đồng thời NSDLĐ phải chịu  trách nhiệm trước pháp luật về  hành vi quản lí của mình. Sở  dĩ NSDLĐ  có quyền quản lí đối với NLĐ là vì: ­ Họ được thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản; ­ Họ thực hiện quyền kiểm soat với tư cách là người mua sức lao động; ­ Họ thực hiện quyền năng pháp lí do pháp luật trao cho; ­ Xét ở góc độ chung nhất và có tính chất “tự nhiên” là họ phải thực hiện  hành vi quản lí sản xuất, cái không thể thiếu trong quá trình sản xuất­kinh   doanh. Điều này không chỉ đúng với nguyên lí điều khiển mà còn liên quan  đến mục tiêu và quá trình sản xuất, kinh doanh. Qua đó ta rút ra được tính đặc trưng của quan hệ pháp luật giữa NLĐ và  NSDLĐ, đó là trong quan hệ pháp luật này, NLĐ bị lệ thuộc về mặt pháp  lí vào NSDLĐ. Đó là sự  lệ  thuộc về  mặt pháp lí, bàn về  khía cạnh này   của NLĐ, có ý kiến cho rằng đó là vấn đề  có xuất phát điểm từ  “sự  lệ  thuộc kinh tế”. Tuy nhiên,sự lệ thuộc pháp lí có thể xuất phát và có cơ sở  kinh tế nhưng không hẳn do “sự lệ thuộc kinh tế” tạo ra. c) Trong quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt quan hệ  pháp luật   giữa người lao động và người sử  dụng lao động có sự  tham gia của đại   diện lao động. Page 13
  14. MAC LENIN2 Đây chính là tính đặc thù của quan hệ pháp luật giữa NLĐ và NSDLĐ so   với các quan hệ lao động khác trong xã hội. Sự tham gia của đại diện lao   động vào quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt quan hệ lao động giữa NLĐ  và NSDLĐ được thực hiện thong qua nhiều biện pháp gián tiếp (tham gia   xây dựng kế hoạch, quy hoạch, chính sách, pháp luật lao động…) và trực   tiếp (giúp đỡ cho NLĐ trong quá trình kí kết hợp đồng lao động, đại diện  và bảo vệ  NLĐ trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động…)Việc   tham gia của đại diện lao động, đặc biệt là tổ chức công đoàn có ý nghĩa  rất quan trọng. Bởi vì, với tư cách cá nhân, NLĐ không có nhiều khả năng  đạt được sự  bình đẳng thực tế  với NSDLĐ, cái về  mặt lí thuyết luôn  được nhắc đến. Yếu tố tập thể trong hoạt động của đại diện lao động là  một trong những đảm bảo tốt cho NLĐ trong quan hệ  lao động. Sự tham   gia của các tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động là đòi hỏi tự nhiên  xuất phát từ chính nhu cầu liên kết để bảo vệ quyền lợi cơ bản gắn liền   với lao động. Trên thế giới từ trước đến nay, các hoạt động công đoàn đã  trở thành vấn đề có tính truyềnthống trong lao động. Người ta sẽ rất ngạc   nhiên nếu như không có hoạt dộng công đoàn. Tuy nhiên, tương  ứng với   từng chế  độ  kinh tế­chính trị­xã hội sẽ  có các biểu hiện khác nhau trong   hoạt động của công đoàn phù hợp với công nhận về  mặt chính trị­xã hội  vá sự công nhận của páp luật quốc gia.Việc tham gia của đại diện nhưng  NSDLĐ, mặc dù vẫn tồn tại một cách cần thiết nhưng không phải là đặc  trưng và sánh ngang về  mặt tính chất so với việc tham gia của đại diện   lao động, của các tổ  chức công đoàn. Các hiệ  p hội của giới sử dụng lao   động có thể rất mạnh và có vai trò nhiều mặt trong đời sống xã hội nhưng   về phương diện lao động, sự tham gia của các đại diện lao động đặc biệt  Page 14
  15. MAC LENIN2 là tổ chức công đoàn như là điều kiện cho môi trường lao động dân chủ và   công bằng hơn trong xã hội hiện đại. Qua các phân tích  ở  trên, ta thấy  được phần nào tầm quan trọng của   mốiquan hệ  pháp luật giữa người lao động và người sử  dụng lao động.  Qua đó, để người lao động có đủ hiểu biết để thực hiện đầy đủ các điều  kiện cần thiết trước khi kí kết hợp đồng lao động. Cũng như  người sử  dụng lao động có thể  thực hiện đầy đủ  quyền lợi cho người lao động  theo   cam   kết   của   pháp   luật. Page 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2