intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu ôn tập môn triết học MacLenin

Chia sẻ: Nguyễn Thị An | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

209
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM về tín ngưỡng tôn giáo: Trả lời: Tôn giáo là một hiện tượng XH do con người tạo nên. Tôn giáo ra đời trong những điều kiện Xh nhất định, đối tượng của tôn giáo thế giới là vô hình. Vì phương pháp trực giác tôn giáo buộc mọi tín đồ phải tin vào đối tượng một cách mù quáng mà không thể chứng minh được.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu ôn tập môn triết học MacLenin

  1. Tài liệu ôn tập môn triết học MacLenin Câu 1: Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM về tín ngưỡng tôn giáo: Trả lời: Tôn giáo là một hiện tượng XH do con người tạo nên. Tôn giáo ra đời trong những điều kiện Xh nhất định, đối tượng của tôn giáo thế giới là vô hình. Vì phương pháp trực giác tôn giáo buộc mọi tín đồ phải tin vào đối tượng một cách mù quáng mà không thể chứng minh được. xét về bản chất tôn giáo là một hình thái ý thức XH phản ánh một cách hoang đường hư ảo. Nói đến tôn giáo là nói đến một hình thái ý thức XH đã có từ lâu đời cùng với tiến trình phát triển của lịch sử loài người. tôn giáo có những chuyển biến thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau, từ đa thần đến nhất thần, có tôn giáo mang tính chất quốc gia, có tôn giáo mang tính chất thế giới, mọi tôn giáo đã ăn sâu, bám chắt vào đời sống tinh thần của con người trong suốt chiều dài lịch sử. ngày nay tuy tôn giáo đã lỗi thời về mặt lịch sử, song nó không bao giờ từ bỏ lập trường của mình. Mặt khác, về khách quan vẫn còn có những liên quan điều kiện để tôn giáo tồn tại, hơn nữa nó đang là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân nên tôn giáo có tồn tại lâu dài. Theo CN MLN, tôn giáo là một hiện tượng XH đa dạng, phức tạp gắn liền với những lĩnh vực xã hội khác nhau của đời sống con người, là một thái ý thức XH so con người sang tạo ra, nó phản ánh cách giải quyết mối quan hệ giữa con người với các siêu nhiên, cải thiện thực với cái hư ảo, cái trần tục với cái thiên liêng, cái trần gian với cái siêu trần gian. Tôn giáo là sự sáng tạo, nó phản ánh hư ảo, sự tưởng tượng, là thế giới quan lộn ngược của con người với những sức mạnh bên ngoài chi phối họ. Ăngghen viết :”Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc người, là những sức mạnh mang hình thức siêu thế gian” (Ăngghen trong Chống Duyrinh). Tôn giáo không có nội dung riêng, nó phản ánh hiện thực xã hội một cách sai lệch, hư ảo. Tôn giáo là hạnh phúc hư ảo, là thuốc phiện của tín đồ tôn giáo. CN Mác – Lênin cho rằng, về bản chất, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Song xét về bản chất, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, nó phản ánh một cách hoang đường, hư ảo, lệch lạc hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Sự hoang đường của tôn giáo do chính con người sáng tạo; cái thế giới hư ảo ấy không ai nhìn thấy được và chưa ai chứng minh được bằng cơ sở khoa học. Hoang đường và hư ảo chính là bản chất của tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tôn giáo ra đời có 3 nguồn gốc cơ bản: Một là, nguồn gốc nhận thức: tôn giáo đã nảy sinh trong xã hội mà trình độ sản xuất hết sức thấp kém, con người hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, bất lực trước những hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, dẫn đến sự bất lực, “bổ sung” bằng cách giải thích là có một lực lượng siêu nhiên có sức mạnh ghê gớm ở bên ngoài con người, đang chi phối con người. Vì vậy, tôn giáo lúc đầu là đa thần, tôn giáo gắn liền với đặc điểm nhận thức. Ánh sáng khoa học đi đến đâu thì tôn giáo lùi đến đó. Biết và chưa biết còn khoảng cách thì còn tôn giáo. Vì vậy, tôn giáo còn tồn tại lâu dài. Hai là, nguồn gốc KT – XH: khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và có đối kháng giai cấp, con người phải chịu sự bóc lột của giai cấp thống trị, xã hội bất bình đẳng, con người không giải thích được, nên tìm đến tôn giáo. Con người tìm đến tôn giáo để được che chở bởi đức chúa trời, đức phật, thượng đế … Giai cấp thống trị luôn luôn sử dụng tôn giáo, lợi dụng triệt để tôn giáo để thống trị nhân dân, khống chế nhân dân. Ba là, nguồn gốc tâm lý tình cảm: Con người tìm đến tôn giáo như tìm đến niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần, tôn giáo đã có tác dụng giữ trạng thái thăng bằng, tâm tư, tình cảm của con người. Nó là quan niệm, lòng tin, tình cảm của con người trước những sức mạnh của tự nhiên, những biến cố của xã hội. Vì thế tôn giáo chỉ là hạnh phúc hư ảo, song người ta vẫn cần đến nó. 1
  2. Theo quan điểm của CN MLN, tôn giáo có các chức năng:đền bù hư ảo; thế giới quan; điều chỉnh hành vi hoạt động của con người và chức năng liên kết. Đồng thời với những chức năng này, tôn giáo gò bó con người, làm cho con người lệ thuộc bên ngoài; làm mờ nhạt ý thức đấu tranh, ý chí tự chủ vươn lên, ý thức trách nhiệm của con người. làm cho con người nghèo đi; dễ bị lợi dụng vì mục đích đen tối. Tôn giáo là một nhu cầu của xã hội trong một giai đoạn. điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy, tôn giáo là phạm trù lịch sử, nó bao giờ cũng biến động theo sự biến động của lịch sử và cũng là hệ quả của sự biến động lịch sử. khi điều kiện lịch sử thay đổi đến một giai đoạn nào đó, tôn giáo sẽ không còn. Tôn giáo mang tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị; ngoài ra tôn giáo còn có tính phản khoa học, do bản chất hoang đường, hư ảo của tôn giáo quy định Trong CNXH, nhất là giai đoạn đầu của thời quá độ lên CNXH, còn tồn tại nhiều thành phần KT, với những lợi ích khác nhau của các tầng lớp XH, sự bất bình đẳng về KT, CT, VH, XH vẫn là một thực tế. Sự tồn tại của nhiều thành phần KT vận hành theo cơ chế thị trường khiến cho con người chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên may rủi. Điều đó dễ làm cho người ta có tâm lý thụ động, trông chờ, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. Ngày nay, những tiến bộ vượt bậc của CNTT, sinh học, vật liệu mới … đã giúp con người có những khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới vật chất vô cùng, vô tận, đa dạng, phong phú còn đặt ra nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ được. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, XH đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hải , trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng ở thần, phật , thánh…. Chưa thể gạt bỏ hết khỏi ý thức của nhiều người trong XH. Đồng thời, những cuộc chiến tranh nội bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo khủng bố bộ lạc, lật đổ … Còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo … cùng với những mối đe doạ khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Hoạt động tôn giáo còn có khả năng đáp ứng ở mức độ nào đó nhu cầu văn hoá, tinh thần và có ý nghĩa nhất về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức nhân loại, trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết. Vả lại. tín ngưỡng tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư và do đó có sự tồn tại tín ngưỡng, tôn giáo, trong thời kỳ qúa độ lên CNXH như một hiện tượng xã hội khách quan. Tuy nhiên, sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo trong XHCN cũng có những đặt điểm riêng. Trứơc hết, giai cấp công nhân lấy CN MLN làm nền tảng tư tưởng của mình, vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục CN Mác trong xã hội là cần thiết. nhà nước XHCN đề ra chính sách đối với tôn giáo trên nguyên tắc không chỉ tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡngmà còn đảm bảo quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Quan điểm CN Mác- Lênin đối với vấn đề tôn giáo Đối lập quan điểm: Duy vật biện chứng và Duy tâm. Trong quá trình bảo vệ và phát triển tư tưởng của Mác- Ăngghen về tôn giáo, Lênin đã chỉ ra rằng: thứ nhất, việc giải quyết vấn đề tôn giáo là rất quan trọng nhưng không phải là cái hàng đầu, cái chủ yếu trong mọi chính sách. Thứ hai, phải phân biệt chính xác giữa hệ tư tưởng tôn giáo với những người chịu ảnh hưởng của tôn giáo, tức là phân biệt giữa hai mặt chính trị và tư tưởng tồn tại trong vấn đề tôn giáo để tránh những sai lầm tả hoặt hữu khuynh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Lênin cho rằng, cuộc sống đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắng liền với cuộc đấu tranh giai cấp, nhằm xóa bỏ nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Muốn thế, cần phải giải quyết vấn đề tôn giáo trong mối quan hệ chung của cuộc đấu tranh cách mạng với xây dựng CNXH; phải giáo dục tư tưởng Mácxít, thế giới quan khoa học và làm cho nhân dân lao động hiểu được lợi ích của mình trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. từ đó Lênin đề ra những nguyên tắc: phải giải thích nguyên nhân tồn tại của tôn giáo một cách khoa học trên cơ sở duy vật. từ đó phải thấy rằng tôn giáo còn tồn tại trong xã hội mới . phải củng cố sự đoàn kết thống nhất giữa nhũng người có tôn 2
  3. giáo và những người không có tôn giáo. Không thể giải quyết vấn đề tôn giáo bằng những biện pháp hành chính cực đoan. CT.HCM đã vận dụng sáng tạo những điểm cơ bản của CN M-LN về tôn giáo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Nổi bật trong TT HCM về tôn giáo là tư tưởng nhân văn, tư tưởng đại đoàn kết, tư tưởng chống áp bức bóc lọt và giải phóng con người. Đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưởng là những nội dung cơ bản của tư tưởng HCM về tôn giáo. Chủ tịch HCM khẳng định thế giới quan macxit là CNDV hoàn toàn khác tôn giáo và CNDT nhưng không phải vì thế mà nghi kỵ, bài xích,đối đầu với tôn giáo. Đồng thời khẳng định chính sách lâu dài của Đảng và NN ta là đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưởng nhằm xây dựng mối đại đoàn kết dân tộc để kháng chiến – kiến quốc, xây dựng CNXH. Chủ tịch HCM khẳng định những nội dung tốt đẹp của đạo đức tôn giáo và nhận thấy nó cần thiết việc xây dựng cuộc sống tốt đẹp trong xã hội mới, hun đúc tinh thần cách mạng chống áp bức bóc lột góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước thương nòi của người có tôn giáo. Đồng thời, cảm nhận được sự bất hạnh, sự cùng cực khổ đau mà những người theo tôn giáo không thể lý giải nỗi nên tìm đến tôn giáo để tự giải thoát mình ở cõi hư vô. Từ đó, Chủ tịch HCM luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Người lao rằng quyền tự do tín ngưỡng là một trong những quyền chính đáng của con người, và những ai hạn chế vi phạm thô bạo đến quyền ấy là đi ngược lại với xu thế tiến bộ của xã hội. Đoàn kết tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của chủ tịch HCM. Đoàn kết lương – giáo là đoàn kết giữa những người cộng sản với những người có tín ngưỡng tôn giáo; giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo với những người không có tôn giáo. Người khẳng định:” Đoàn kết của ta không rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhận dân thì ta đoàn kết với họ”. Vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự nghiệp chung không phải của riêng ai. Trong tư tưởng đoàn kết lương – giáo, Người chỉ rõ: Phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích toàn dân lên trên hết; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, khắc phục được những mặc cảm, định kiến với nhau và chống âm mưu chia rẽ lương giáo của bọn phản động; phải phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo với các phần tử phản động lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để có thái độ đúng đắn; phải kế thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo, tranh thủ các giáo sĩ quan tâm đến giáo dân; độ lượng, vị tha với người lầm lỗi; phê phán bọn phản động. Đồng thời không chỉ đoàn kết những người có đạo và không có đạo mà còn giáo dục tinh thần đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. HCM tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp CM của nhân dân, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại sự đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng của người khác hoặc làm những việc trái pháp luật. Người đã nhấn mạnh “Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị kẻ đội lốt tôn giáo để phản chúa, phản nước”, HCM tiến hành nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn những biểu hiện vi phạm tín ngưỡng tôn giáo chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo. Người đề xuất việc pháp luật hoá chính sách về quyền tự do tín ngưỡng của ND. Trong phiên họp đầu tiên của hội đồng chính phủ lâm thời (3/9/1945) HCM đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, Lương – giáo đoàn kết”. Đồng thời nghiêm khắc phê phán những sai phạm về chính sách tôn giáo của chính phủ, của cán bộ nhất là những cán bộ dân vận làm công tác tôn giáo. Ngoài việc nghiêm khắc phê phán Người có biện pháp hữu hiệu với những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo dù ở cương vị nào. HCM rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền thống VN, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bản thân Bác đã nhiều lần nhắc đến tổ tiên với tình cảm chân tình, tôn kính và nhận thấy: “tổ tiên 3
  4. rực rỡ, anh em thuận hoà”. Bên cạnh đó Bác cũng đã nghiêm khắc phê phán và nêu một số phương hướng nhằm khắc phục tệ nạn mê tín, dị đoan. Bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan phải đi đôi với việc XD nếp sống VH mới, xây dựng thuần phong mỹ tục; đấu tranh nhằm khắc phục tệ nạn mê tín dị đoan phải tế nhị, tránh thô bạo. Theo tư tưởng HCM, người có tín ngưỡng, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn với nhau, mà mỗi một người vừa là một người dân yêu nước vừa là một tín đồ chân chính. Tư tưởng về tôn giáo của người là sự kế thừa xuất sắc CN Mác – lênin, Bác luôn tôn trọng niềm tin mang tính thiêng của các tín đồ, đặc biệt tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” được Bác vận dụng linh hoạt trong giải quyết vấn đề tôn giáo mà chủ yếu là vận động để mọi tín đồ, chức sắc hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”. Tư tưởng và đạo đức nhân văn của Người là toàn diện và cao cả, riêng đối với tín đồ thì Người là Giáo chủ của thánh Mi- xen của họ. Tóm lại, CN MLN, TTHCM đã lý giải vấn đề tôn giáo một cách có khoa học khách quan đúng đắn nhất, làm nền tảng tư tưởng để từ đó Đảng và NN ta đề ra chủ trương chính sách về tôn giáo, giải quyết được những vấn đề tư tưởng của nhân dân có đạo, thực hiện được đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp XD đất nước. Là cán bộ Đảng viên đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý cần phải nhận thức sâu sắc quan điểm của CN MLN, TTHCM về tín ngưỡng tôn giáo để làm nền tảng tư tưởng trong mọi hoạt động, đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và NN về công tác tôn giáo, nhằm góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh./. 4
  5. Câu 2: Những đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta hiện nay? Trả lời: Việt nam là một quốc gia nằm giữa ngã 3 của Đông Nam á, là nơi giao lưu của các luồng tư tưởng, văn hóa khác nhau. Với địa hình phong phú, đa dạng lại là vùng nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên vừa ưu đãi, vừa đe dọa. Do đó thường nảy sinh tâm lý sợ hãi, nhờ cậy vào sự che trở của lực lượng tự nhiên. VN có lịch sử lâu đởi và nền văn minh hình thành sớm. lịch sử VN là lịch sử chống ngoại xâm, những người có công trong việc cứu nước, giúp dân được tôn sùng và thờ phụng. đây là đạo lý “uống nước, nhớ nguồn” của người VN. Điều này được thể hiện khá rỏ nét trong đời sống sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của họ. Từ khái quát trên cho thấy tín ngưỡng tôn giáo của VN có những đặc điểm sau: Thứ nhất, VN là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đang tồn tại. Từ vị trí địa lý đến sự ảnh hưởng của 2 nền văn minh Trung qua, Ấn độ và bản tính, lối sống của người VN nên cùng 1 lúc họ có thể tiếp nhận nhiều tín ngưỡng tôn giáo khác nhau có cả những tôn giáo du nhập từ nước ngoài vào VN. Lịch sử đã chứng minh 1 số tôn giáo đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống, nếp nghĩ và văn hóa của cả công đồng, góp phần nâng cao ý thức dân tộc. Thứ hai, Tính đan xen, hòa đồng khoan dung của tín ngưỡng, ton giáo ở VN. Với bản tính hiếu hoà, đồng thời do phải đoàn kết chống giặc ngoại xâm và chống chọi với thiên nhiên, người Việt rất dễ tiếp nhận các loại văn hoá tín ngưỡng tôn giáo miễn sau là nó không đi ngược lại lợi ích dân tộc, đi ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc. Đồng thời, nó cũng phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán tuỳ ý của người Việt mà trước hết phải được sự khảo nghiệm của lịch sử dựng nước và giữ nước, sau nữa, phải tôn trọng tôn giáo truyền thống và hoà đồng với tín ngưỡng bản địa. Khổng giáo và Đạo giáo từ Trung Hoa lan xuống. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang nước ta từ rất sớm nhưng vẫn tồn tại song song cùng nhau một cách hoà bình cùng với tín ngưỡng bản địa mà không xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo nào. Kể cả về sau một sốn tôn giáo phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, tuy có xa lạ với truyền thống văn hoá dân tộc, nhưng vẫn được chấp nhận. Nếu có giai đoạn lịch sử nào đó tôn giáo bị cộng đồng dân tộc mặc cảm, định kiến là khi nó bị lực lượng phản động lợi dụng đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Giáo lý của các TG ở VN có không ít những điều khác biệt và trong lịch sử tồn tại của nó cũng xuất hiện mâu thuẫn nhất định. Cá biệt có hiện tượng phê phán, bài bác lẫn nhau, nhưng nhìn chung, chưa có sự đối đầu để dẫn đến chiến tranh TG. Nếu có mâu thuẫn dẫn đến thì đó cũng chỉ là vì lý do chính trị mà TG như một hình thức biểu hiện. Tín ngưỡng TGVN là hoà đồng, đan xen, nương tựa, hỗ trợ nhau. Những TG độc thần như Công giáo, Tin lành, hồi giáo du nhập vào nước ta cũng như TG nội sinh như Cao đài, Hoà hào ít nhiều đều có tính đan xen, hoà đồng dung hợp với nhau và với tín ngưỡng bản địa. Nhờ có tính khoan dung, hiếu hoà của TG đã khiến cho một đất nước đa dân tộc và đa TG như VN mà vẫn giữ được truyền thống đoàn kết toàn dân không phân biệt tín ngưỡng, TG. Thứ ba, Yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở VN. cũng do xuất phát từ một nước nông nghiệp, yếu tố nữ rất phù hợp với điều kiện sản xuất lúa, vì thế vai trò của người phụ nữ được đề cao và ảnh hưởng khá nặng của chế độ mẫu hệ cho nên trong hệ thống tín ngưỡng tôn giáo xuất hiện rất nhiều các vị thánh thần là nữ. Từ Bắc đến Nam ở đâu cũng có nơi thờ tự nữ thần : Phật Bà, Thánh Mẫu ... Đền thờ Bá chúa kho (Bắc Ninh), Bà chúa Liễu ở Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bà chúa Đen (Tây Ninh), Bà chúa Sứ (An Giang) ... là những nơi thu hút nhiều người mà không phải chỉ có giới nữ. Các tôn giáo lớn từ Công giáo đến Khổng giáo và nhất là Hồi giáo vốn coi thường 5
  6. phụ nữ, nhưng khi du nhập vào Việt Nam đã phải thay đổi ít nhiều cho phù hợp với vai trò của người phụ nữ và sự nhìn nhận, đánh giá của xã hội đối với họ. Thứ tư, Thần thánh hóa những người có công với gia đình, làng, nước. Xuất phát từ một nước có truyền thống dựng và giữ nước lâu dài với bề dày lịch sử chống giặc ngoại xâm lâu dài, Việt Nam có rất nhiều những anh hùng dân tộc, có công với dân. với nước. Với đặc điểm chung xã hội phương Đông hay suy tôn cá nhân thành người đại diện tối cao của cả cộng đồng, quốc gia, người Việt còn mang đức tính yêu nước, trọng tình “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng thấm đượm tinh thần ấy. Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính và thần thánh hóa hóa để cầu khẩn sự phù hộ và tìm sự che chở trong bản thân gia đình và cộng đồng. Ngoài ra, Việt Nam còn có hệ thống tín ngưỡng dân gian hết sức đa dạng như tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần. Ở những vùng khác nhau, các dân tộc khác nhau còn có những hình thức tín ngưỡng đặc thù của vùng mình, dân tộc mình. Nhìn chung tín ngưỡng dân gian tôn giáo Việt Nam còn hướng niềm tin vào các nhân thần và nhiên thần. Thứ năm, Tín đồ tôn giáo VN hầu hết là nông dân lao động. Do xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn trong số tín đồ tôn giáo nên những tín đồ tôn giáo Việt Nam ít có thời gian cũng như khả năng nghiên cứu, học tập giáo lý, giáo luật của các tôn giáo. Tuy am hiểu giáo lý không sâu sắc nhưng lại tín đồ người Việt lại rất chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưỡng một cách nhiệt tâm. Có bộ phận tín đồ sùng tín và đôi khi ngộ nhận cả tin khi có lực lượng lợi dụng tôn giáo. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80-85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc. Thứ sáu, Một số tôn giáo bị các thế lực phản động trong và ngòai nước lợi dụng vì mục đích chính trị : Cũng như mọi tôn giáo khác, Tôn giáo ở nước ta ra đời là để đáp ứng khát vọng của đời sống tâm linh con người, song cũng từ khi có tôn giáo, nó luôn bị các thế lực xã hội lợi dụng để thực hiện các mục đích phi tôn giáo, đặc biệt là mục đích chính trị Trên thực tế, tín ngưỡng, nhất là vấn đề tôn giáo hết sức phức tạp và tế nhị. Nó không thuần túy là đời sống tinh thần của cá nhân mà từ khi xuất hiện, nó luôn là vấn đề của xã hội, của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, ở bất cứ tôn giáo nào vấn đề của đời sống thế tục cũng được đề cập trong các mặt của thế giới siêu phàm. Tôn giáo có sự đan xen quan hệ với nhiều khía cạnh của văn hóa, đạo đức, chính trị... Mặt khác, tôn giáo còn là một thực thể xã hội, không chỉ có đức tin, giáo lý, giáo luật, lễ nghi, mà còn có cả những tổ chức, những thiết chế để hiện thực hóa giáo lý, luật lệ tôn giáo. Với lượng tín đồ có đức tin và tình cảm tôn giáo, được cố kết trong tổ chức giáo hội, tôn giáo đã trở thành một thế lực xã hội đặc biệt. Nhận thức rõ điều đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân quyền gắn với tôn giáo hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay tôn giáo đang bị các thế lực phản động lợi dụng để thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Các "điểm nóng" về tôn giáo trong thời gian gần đây như các hoạt động trái phép nhằm lập ra tổ chức đạo "Tin lành Đề Ga" ở Tây Nguyên... đã phản ánh điều đó. Hiệu ứng tiêu cực của các hoạt động đó là sự mất ổn định trong đời sống dân cư, gây chia rẽ từ trong nội bộ gia đình, làng xóm, thôn bản, chia rẽ dân tộc này với dân tộc khác, làm phương hại đến tình hình kinh tế, an ninh, trật tự xã hội ; làm sứt mẻ khối đoàn kết toàn dân. Mặc khác, hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây biểu hiện mang tính chất thị trường. Những năm qua, nhờ công cuộc đổi mới với việc 6
  7. áp dụng các chính sách kinh tế xã hội phù hợp, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, nhưng cũng kéo theo hoạt động của các tôn giáo sôi nổi hơn trước đây. Tình trạng xây mới, sữa chửa cơ sở thờ tự diễn ra nhiều đến mức khó kiểm soát, hiện tượng buôn thần bán thánh có dấu hiệu bùng phát, là tiêu tốn tiền bạc, thời gian sức khoẻ của nhân dân. Bên cạnh đó hiện nay xuất hiện một chức sắc tín đồ các tôn giáo có biểu hiện suy thoái đạo đức, lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín dị đoan kiếm tiền bất chính. Đã xuất hiện 60 tôn giáo mới, tà giáo, dị giáo; trong đó có nhiều nhất tôn giáo mang phản động phi khoa học. Từ những đặc điểm trên đã đặc ra cho công tác tôn giáo những vấn đề sau: Một là, ở một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo như Việt Nam thì tín đồ các tôn giáo phải luôn đặt lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhà nước không phân biệt đối xử về nghĩa vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn giáo để bảo đảm ổn định chính trị xã hội. Ba là, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào có đạo, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi đồng bào tín đồ các tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn. Trên cơ sở không ngừng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo cho nhân dân một cơ sở xã hội hiện thực để họ yên tâm, tin tưởng vào xã hội mới; chấp nhận sự khác biệt, khai thác điểm tương đồng, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ thu hút mọi người dân phấn đấu vì mục tiêu chung. Giúp cho người dân nhận thức hạnh phúc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có được khi lợi ích chung ấy được thực hiện Bốn là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Tóm lại, Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia. Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới. Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo. Chính vì vậy mà đã hình thành nên các đặc điểm tôn giáo ở VN như nói trên./. 7
  8. Câu 3. Những nội dung chủ yếu về văn hoá và đạo đức tôn giáo. Trả lời: Văn hoá và đạo đức tôn giáo là một quan điểm mới của Đảng và được đề cập vào trong các văn kiện của Đảng ta. Mà thể hiện rỏ nét nhất là trong NQ 24 của BCT về công tác tôn giáo 10/1990 đả khảng định “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc XD XH mới”, đến ĐH Đảng lần thứ IX “ … phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức tôn giáo”, ĐH Đảng lần thứ X nhấn mạnh: “phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo…” và ĐH đảng lần thứ XI, Đảng ta không chỉ nêu: “Phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo” mà còn cần “tôn trọng” những giá trị ấy. Nhận thức từ văn kiện ĐH đảng lần thứ XI cho thấy vă hóa và đạo đức tôn giáo có một số nội dung cơ bản như sau: Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng, được nêu ra và tái khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng. Ngay từ khi mới thành lập, trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về thành lập Hội Phản đế đồng minh, ngày 18/11/1930, Đảng ta đã khẳng định: "Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại trong và ngoài nước, tự do tín ngưỡng, tự do khai hóa". Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng vào tháng 2-1951 cũng ghi: “Đối với tôn giáo. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng ". Cho đến nay, Đảng ta đã trải qua 11 kỳ Đại hội, trong đó có 6 kỳ Đại hội của thời Đổi mới, thì quan điểm trên không hề có sự thay đổi. Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng không chỉ là quyền con người mà còn là thành quả của cuộc đấu tranh vì dân chủ của nhân loại. Đảng ta cũng từng nhắc nhở: “Cần làm cho cán bộ và nhân dân nắm được tinh thần của chính sách bảo đảm tự do tín ngưỡng, phân biệt vấn đề tín ngưỡng của nhân dân với việc đế quốc lợi dụng tôn giáo, phân biệt tín đồ tôn giáo với bọn phản động đội lốt tôn giáo. Cần đề phòng tư tưởng lệch lạc như: chỉ thấy phải bảo đảm tự do tín ngưỡng của nhân dân mà không thấy cần phải ngăn ngừa và trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo để phá hoại. Hoặc trái lại, chỉ thấy phải trừng trị bọn phản động mà không chú ý đến tín ngưỡng của quần chúng, sợ quần chúng vạch sai lầm của cán bộ, không muốn phổ biến rộng rãi bản Sắc lệnh hoặc giải thích sai lệch đi”. Mọi thời kỳ lịch sử và ở tất cả các quốc gia dù có chế độ chính trị thế nào thì nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vẫn luôn song hành với nhau. Có tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng mới có thể chống được âm mưu lợi dụng tôn giáo, ngược lại có chống việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo mới có thể làm cho đồng bào có đạo có được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực sự. Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XI nêu: “Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”. Thiết nghĩ việc “Chủ động phòng ngừa… với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc” là điểm mới ở Đại hội lần này. Ba là,tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo. Trong Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1990, lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Đến Chỉ thị 37- NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998, công nhận: “Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy".Đến Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VIII còn nêu cả mục 8 về “chính sách văn hoá đối với tôn giáo”. Và Đại hội IX, Đảng ta chính thức khẳng định trong Báo cáo Chính trị: “Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức của tôn giáo”. Một lần nữa, tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhắc lại quan điểm này: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”. Đại hội XI, Đảng ta không chỉ nêu: “Phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo” mà còn cần “tôn trọng” những 8
  9. giá trị ấy. Vấn đề này, lần đầu tiên được đưa vào văn kiện Đại hội XI, mà trước đó tinh thần ấy chỉ thấy trong nguyên tắc đầu tiên của Chỉ thi 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998: “Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”. Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người, tín ngưỡng, tôn giáo đã tô đượm cho văn hóa dân tộc nhiều sắc màu. Đảng ta chủ trương: Bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Sự tồn tại của tôn giáo cũng có nghĩa là một trong biểu hiện bảo lưu văn hoá, mà văn hoá vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển con người. Không thể xem nhẹ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể đã từng ẩn chứa và thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo. Những điều cấm kỵ, răn dạy trong giáo lý các tôn giáo đều mang giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc.Tôn giáo nào cũng mang tính trừ ác hướng thiện, khuyên con người làm lành, tránh dữ; góp phần khẳng định “cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác”. Chính điều đó đã góp phần ngăn chặn, hạn chế những ham muốn, dục vọng ở con người - nhất là khi xã hội có xu hướng tôn sùng vật chất, khuyến khích tiêu thụ, đam mê đồng tiền thái quá như ở một số quốc gia hiện nay. Tôn giáo đưa: “Chủ nghĩa cấm dục lên thành một trong những nguyên tắc đạo đức cơ bản của tôn giáo thế giới, mới có khả năng cuốn hút quần chúng nhân dân bị áp bức”. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bên cạnh những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức có trong tôn giáo, thì cũng cần phải lên án hiện tượng phi nhân tính, phản văn hóa trong hoạt động tôn giáo đang làm vẩn đục bầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của con người. Những biểu hiện hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cuồng xi, thái quá gần đây cần phải hạn chế, loại bỏ. Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) có ghi: "Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo". Đại hội IX, Đảng ta nhắc lại: Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”. Đến Đại hội X nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng và chính quyền là: "Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Đại XI tái khẳng định quan điểm này và có bổ sung thêm đối tượng nữa cần động viên là “các tổ chức tôn giáo”. Tín đồ và chức sắc các tôn giáo vừa là người có đạo, đồng thời cũng là công dân. Họ có quyền lợi và nghĩa vụ như mọi công dân khác và trong họ đều mong muốn được sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa ” gắn liền với “yêu nước” để cho "nước vinh, đạo sáng". Những năm qua, có nhiều tấm gương của các vị chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã làm trọn bổn phận “dân Chúa” vẫn chu toàn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc. Đồng bào có đạo hăng hái hoạt động xã hội góp phần xứng đáng vào sự nhiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Động viên, khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện cho đồng bào có đạo tham gia ngày một sâu rộng vào những hoạt động: kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo…là thiết thực tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã công nhận 16 tổ chức tôn giáo của 6 tôn giáo. Từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã tăng cường xem xét công nhận và cấp giấy cho các tổ chức tôn giáo hoạt động cho 16 tổ chức của 6 tôn giáo nữa. Như vậy, cho đến năm 2011, Nhà nước ta đã công nhận cho 32 tổ chức của 12 tôn giáo. Nhìn chung, sau khi các tôn giáo được công nhận, bà con tín đồ đều an tâm, phấn khởi sống “tốt đời,đẹp đạo”. Mọi người đều thấy rõ được quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và các tổ chức tôn giáo đều hoạt động trên tinh thần ích nước lợi dân, tuân thủ pháp luật. Về các tổ chức tôn giáo, Đại hội Đảng lần thứ X mới chỉ nêu: “Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ". Trong Báo cáo 9
  10. Chính trị ở Đại hội lần này nêu rõ: “Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương , điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật”. Điều này thể hiện tầm nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn giáo hợp pháp. Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước. Để cho những quan điểm chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, mỗi khi Đảng ta đưa ra những quan điểm về tôn giáo thì Nhà nước kịp thời thể chế hóa bằng những văn bản pháp quy. Do biến đổi của thực tiễn, do phát triển của tư duy lý luận mà quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cũng luôn vận động. Vì vậy, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước như một quy luật của sự phát triển. Tóm lại, vấn đề văn hoá và đạo đức tôn giáo là một thực tế mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung về mặt lý luận và vận dụng vào thực tiễn công tác tôn giáo nhằm cho các tôn giáo phát huy tối đa về mặt tích cực của mình, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. có thể nói một cách ngắn gọn về nội dung của đạo đức và văn hóa tôn giáo như sau: Trước hết, tuy cách diễn đạt có khác nhau, nhưng các tôn giáo đều có đường hướng hành động “tốt đời, đẹp đạo ”, phù hợp với mục tiêu chung của dân tộc là góp phần xây dựng một xã hội giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Thứ hai, Các tôn giáo đều khuyến khích con người làm việc thiện, tránh việc ác, xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Thứ 3, Các lễ hội tín ngưỡng tôn giáo mang bản sắc văn hoá dân tộc, qua đó góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của cha ông và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thứ 4, Các cơ sở và các hoạt động từ thiện của các tôn giáo đã và đang phát huy tác dụng tích cực nhằm góp phần giảm bớt những mất mát, bất hạnh của con người tong cuộc sống, qua đó góp phần giáo dục lòng bao dung, nhân hậu và vị tha của con người. Thứ 5, Các tôn giáo có xu hướng tham gia này ngày càng tích cực vào việc giải quyết các vấn đề có tính thời sự toàn cầu như chống chiến tranh huỷ diệt, bảo vệ môi trường sống, chống đói nghèo và bệnh tật, bảo vệ nòi giống. Thứ 6, Các tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam đã và đang để lại những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể - đó là kho tàng của cải vô giá của nhân loại ngày càng được làm giàu thêm cùng vơí sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Đồng bào các tôn giáo đã và đang thực hiện phong trào đoàn kết xây dựng gia đình văn hoá, nếp sống văn minh, bài trừ tệ nạn xã hội, qua đó góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh. Thứ 7, Đồng bào các tôn giáo đã và đang thực hiện phong trào đoàn kết xây dựng gia đình văn hoá. Nếp sống văn minh, bài trừ tệ nạn xã hội. Qua đó góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh. Như vậy, Vấn đề tôn giáo được nêu trong các văn kiện Đại hội XI đã thể hiện một lộ trình đổi mới tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Có những quan điểm được nêu lên từ các kỳ Đại hội trước mà Đại hội XI tái khẳng định, có những quan điểm phát triển lên, nhưng cũng có những điểm mới được bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn mà nhất là vấn đề về đạo đức và văn hóa tôn giáo. /. 10
  11. Câu 4: Những Quan điểm, chính sách cơ bản trong đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ta đối với TN-TG Bài làm Nhìn chung trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã có nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế. Chính sách tôn giáo của ta ngày càng được cụ thể hóa và đáp ứng ngày càng tốt hơn nguyện vọng của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Bằng việc ban hành hàng loạt các Nghị quyết, pháp lệnh về tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 02/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá IX) về tôn giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ... , Đảng và Nhà nước ta đã và đang thể hiện sự quan tâm thỏa đáng đến những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tôn giáo sinh hoạt và phù hợp với luật pháp quốc tế về quyền dân sự, chính trị của người dân. Nhờ những đổi mới trong chính sách tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo ở nước ta có thêm nhiều điều kiện thuận lợi, nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, xây dựng lại hoặc xây mới khang trang hơn, việc đào tạo các chức sắc tôn giáo cũng được nhà nước quan tâm (tính đến năm 2003 : Công giáo đã có 5 đại chủng viện, Phật giáo cũng đã có 3 trường Phật học cao cấp, các tôn giáo đã có tới 400 đầu sách được nhà nước cho phép xuất bản với số lượng lớn ..), đồng bào có đạo ngày càng phấn khởi yên tâm hành đạo và tham gia tích cực hơn công cuộc xây dựng đất nước với phương châm “Tốt đời - đẹp đạo”, “Nước vinh – đạo sáng”, “Sống phúc âm trong lòng dân tộc”. Chính sách tôn giáo hợp lý của Đảng và nhà nước ta những năm qua cũng đã củng cố đoàn kết được những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không tín ngưỡng tôn giáo với nhau, có những nơi nhiều đồng bào tôn giáo khác nhau sống xen kẻ nhưng vẫn sinh hoạt tôn giáo yên bình, hoà đồng và ngày càng tỏ ra thích ứng với Chủ nghĩa xã hội, chức sắc tín đồ ngày càng được tin tưởng hơn vào Đảng, vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Mặt khác, nhờ áp dụng chính sách kinh tế phù hợp đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta, trong đó có các chức sắc, tín đồ tôn giáo được nâng lên. Chúng ta cũng đã ngăn chận và phá vỡ nhiều âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo vì mục đích kinh tế, chính trị như : dẹp tan vụ lộn xộn của một số phần tử cực đoan trong Phật giáo năm 1993, ngăn chận hành động chống đối của linh mục Nguyễn Văn Lý ở giáo xứ Nguyệt Biều, vụ gây rối của đồng bào đạo Tin Lành vào tháng 2 năm 2001 và ngày 10-4-2004 vừa qua ở Tây nguyên ... Bên cạnh những kết quả kết quả đạt được, cũng phải thừa nhận rằng chính sách tôn giáo và việc thực hiện các chính sách tôn giáo của ta thời gian qua chưa tốt. Chính sách tôn giáo của ta vẫn còn chung chung chưa được cụ thể hóa, một số cán bộ Đảng viên đánh giá thấp tầm quan trọng của công tác tôn giáo, trình độ của một bộ phận cán bộ, Đảng viên còn hạn chế vì vậy việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở một số địa phương còn gặp khó khăn. Bên cạnh việc buông lỏng công tác quản lý nhà nước, có nơi ứng xử với tôn giáo còn cứng nhắc, một số cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa thật chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng chân chính của đồng bào có đạo. Điều đó cùng với việc một bộ phận nhỏ chức sắc tín đồ còn nghi ngờ, dao động, hoang mang trước sự xuyên tạc của thù địch, đời sống của một bộ phận chức sắc tín đồ, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn .. đã tạo kẽ hở cho các phần tử cực đoan, các thế lực chính trị phản động lợi dung tiến hành các hoạt động mua chuộc, lôi kéo chức sắc tín đồ chống đối, kích động tín đồ phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị và vu cáo Đảng và nhà nước ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Nhiều vụ việc nổi cộm liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo xảy ra như: vụ gây rối ở Tây nguyên năm 2001 và 2004,… Trước tình hình đó, công tác tôn giáo hiện nay đang được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm và tiếp tục đổi mới hoàn thiện các chính sách tôn giáo. Những đổi mới đó trước nhất phải dựa trên quan điểm nhất quán, trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, trong đó 11
  12. bao hàm cả quyền tự quyết tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền thay đổi tôn giáo một cách tự nguyện của nhân dân. Điều này được thể hiện rõ tại Điều 70 của Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước". Sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng của nhân dân của Đảng ta xuất phát từ quan điểm cho niềm tin là quyền tự do của mỗi con người, thuộc đời sống tâm linh của con người không thể cấm đoán được. Tuy nhiên “tự do” tín ngưỡng tôn giáo không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà là “ tự do” trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật. Vấn đề tôn giáo phải luôn được đặt trong và dưới vấn đề quốc gia - dân tộc, mọi hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Nhà nước. Tự do tôn giáo cũng không có nghĩa là khuyến kích tôn giáo hoặc hạn chế tôn giáo. Pháp luật Việt Nam không ngăn cấm việc công dân theo tôn giáo nhưng cũng đảm bảo quyền không theo tôn giáo của công dân, nó cũng cho phép có thể chuyển từ tôn giáo này để theo một tôn giáo khác. Vấn đề này đã được đề cập tại Điều I và Điều 5, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999. Coi trọng đoàn kết tôn giáo luôn là một tư tưởng chủ đạo, nhất quán trong chính sách tôn giáo và đoàn kết dân tộc của Đảng. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về đoàn kết tôn giáo vì mục tiêu giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân là nguồn sức mạnh to lớn tạo nên nội lực của dân tộc. Đó cũng là nhân tố có thể xóa bỏ dần những mặc cảm, những định kiến, nghi kỵ do lịch sử để lại và do các thế lực phản động thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân. Với một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo như nước ta, đoàn kết tôn giáo chính là đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Từ xưa, sự khoan dung, cởi mở, không kỳ thị tín ngưỡng, tôn giáo vốn là nét đặc trưng của con người Việt Nam. Phát huy những giá trị tinh thần quý báu của con người Việt Nam, Đảng ta còn chủ động thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nhiều lĩnh vực nhằm tăng cường củng cố đoàn kết tôn giáo. Đó là không ngừng chăm lo phát triển kinh tế văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các chức sắc tín đồ tôn giáo, tạo cho nhân dân một cơ sở xã hội hiện thực để họ yên tâm, tin tưởng vào xã hội mới; chấp nhận sự khác biệt, khai thác điểm tương đồng, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ thu hút mọi người dân phấn đấu vì mục tiêu chung. Đồng thời trong quan điểm nhất quán về vấn đề tôn giáo, Đảng và nhà nước luôn cảnh giác chống mọi âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ đồng bào và kiên quyết đấu tranh và xử lý thích đáng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, xâm hại đến khối đoàn kết toàn dân Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, Khoá IX, đã xác định rõ quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ". Việc thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của con người ở nước ta xuất phát từ tính hợp lý của tôn giáo vẫn còn duy trì trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đạo đức tôn giáo còn nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Bên cạnh đó, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Trong thời đại ngày nay, khi xã hội vẫn còn tồn tại mang tính đan xen giữa những cái cũ như bóc 12
  13. lột, bất công, phân hoá giàu nghèo ... chưa mất đi, những cái mới tốt đẹp, công bằng ... chưa phổ biến thì tôn giáo vẫn còn tồn tại trong đời sống tinh thần của con người. Nó đem lại cho con người nguồn an ủi, trấn an con người trước những bất lực trong quan hệ giữa người và người, giữa người với tự nhiên, biến cái chết thành một sự thay đổi ''bình thường'' như về với tổ tiên, lên cõi Niết Bàn hay về với Chúa… Do vậy, tôn giáo vẫn còn là nhu cầu của một bộ phận con người trong xã hội. Trên thực tế, vấn đề tín ngưỡng, nhất là vấn đề tôn giáo hết sức phức tạp và tế nhị. Nó không thuần túy là đời sống tinh thần của cá nhân mà từ khi xuất hiện, nó luôn là vấn đề của xã hội, của giai cấp, của dân tộc, nó luôn có sự đan xen quan hệ với nhiều khía cạnh của văn hóa, đạo đức, chính trị... Mặt khác, tôn giáo còn là một thực thể xã hội, không chỉ có đức tin, giáo lý, giáo luật, lễ nghi, mà còn có cả những tổ chức, những thiết chế để hiện thực hóa tín lý, luật lệ tôn giáo. Với lượng tín đồ có đức tin và tình cảm tôn giáo, được cố kết trong tổ chức giáo hội, tôn giáo đã trở thành một thế lực xã hội đặc biệt. Ở các quốc gia, các thế lực chính trị, các tập đoàn thống trị đều đã biết lợi dụng tôn giáo, sử dụng tôn giáo như một công cụ tinh thần, thậm chí tôn giáo cũng được sử dụng như một tổ chức xã hội để thực hiện các mục đích chính trị. Hiện nay tôn giáo đang bị các thế lực phản động lợi dụng để thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Các "điểm nóng" về tôn giáo trong thời gian gần đây như các hoạt động trái phép nhằm lập ra tổ chức đạo "Tin lành Đề Ga" ở Tây Nguyên... đã phản ánh điều đó. Hiệu ứng tiêu cực của các hoạt động đó là sự mất ổn định trong đời sống dân cư, gây chia rẽ từ trong nội bộ gia đình, làng xóm, thôn bản, chia rẽ dân tộc này với dân tộc khác, làm phương hại đến tình hình kinh tế, an ninh, trật tự xã hội ; làm sứt mẻ khối đoàn kết toàn dân. Vì vậy, thực hiện một chính sách đoàn kết tôn giáo là một mắt xích quan trọng trong chiến lược đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước và CNXH. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo luôn thể hiện quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là không thể giải quyết các vấn đề tôn giáo bằng các biện pháp hành chính cực đoan mà vấn đề cốt lõi của công tác tôn giáo là vấn đề vận động quần chúng chức sắc tín đồ. Khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải kết hợp giáo dục nâng cao ý thức tinh thần, với việc chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Đồng thời giải quyết nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của chức sắc tín đồ tôn giáo phải đi đôi với đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo. Bên cạnh đó, phải xác định rõ công tác tôn giáo là trách nhiệm toàn bộ hệ thống chính trị : của các cơ quan Đảng nhà nước Mặt trận tổ quốc, Ban tôn giáo, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ : "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo", phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo... Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia “. 13
  14. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, BCH TW Đảng khoá IX về công tác tôn giáo, đã thống nhất quan điểm và chính sách của Đảng ta như sau: 1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 2. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái phép pháp luật, kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. 3. Nội dung cốt lõi của công tác TG là công tác vận động quần chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các TG với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, TG đều có quyền và nghĩa vụ XD và BVTQ. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước thông qua việc thực hiện tốt các chính sách KT – XH , an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. 4. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng. 5. Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo đựơc NN thừa nhận được hoạt động TG theo pháp luật quy định và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không đựơc lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời còn đưa ra các giải pháp chủ yếu trong công tác tôn giáo đó là : - Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo - Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở - Tăng cường quy luật nhà nước về tôn giáo - Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo Để thực hiện các giải pháp nhiệm vụ cần phải làm như sau: Một là, Thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách và các chương trình phát triển kinh tế xã hội nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo Hai là, Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của nhà nước Ba là, Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước 14
  15. Bốn là, Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo , tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dung vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ Năm là, Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước, đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Sáu là, Tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo Tóm lại, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm, dễ bị kích động. Có chính sách tôn giáo đúng đắn, giải quyết tốt vấn đề tôn giáo là góp phần quan trọng vào việc củng cố khối đại đoàn kết nhân dân, bảo đảm sự thành công trong sự nghiệp xây dựng đất nước và CNXH./. 15
  16. Câu 5: Thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo ở trong nước và địa phương? Trả lời: Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và đa dân tộc. Giáo hội các tôn giáo khi được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân đều được chính quyền các cấp quan tâm và tạo thuận lợi để hoạt động tôn giáo bình thường trong khuôn khổ luật pháp. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới và nhất là sau năm 1990 đến nay, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam sôi động và đang có chiều hướng gia tăng. Lễ hội trong các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức rầm rộ với quy mô ngày một lớn và diễn ra khắp mọi miền của Tổ quốc. Lễ Nôen, lễ Phật đản và những buổi lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Dịp đầu xuân, người dân náo nức đến đình, đền, miếu, phủ, nhà thờ, thánh thất… dâng hương lễ bái, cầu lộc, cầu tài và những nhu cầu tâm linh khác. Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là nhu cầu tâm linh của các tín đồ mà còn là nhu cầu sinh hoạt văn hoá của cả cộng đồng. Nhu cầu chính đáng ấy được chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng, làm cho tín đồ, chức sắc các tôn giáo an tâm, phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự diễn ra khắp nơi; các lớp bồi dưỡng, đào tạo, hoặc phong bổ, thuyên chuyển, cũng như in ấn, xuất bản các ấn phẩm tôn giáo, hoạt động đối ngoại tôn giáo đều gia tăng. Tình hình tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở Việt Nam thể hiện những điểm sau đây: Thứ nhất, tín đồ các tôn giáo. tổng tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam hơn 25 triệu. Trong đó: Phật giáo hơn 10 triệu; Công giáo hơn 6 triệu; Tin Lành hơn 1 triệu; Hồi giáo 67 nghìn; Cao Đài 3,5 triệu; Phật giáo Hòa Hảo hơn 1,5 triệu; Tịnh độ cư sĩ Phật Hội 1,5 triệu; Tứ Ân Hiếu Nghĩa hơn 78 nghìn, Ngũ Chi Minh Chân Đạo hơn 10 nghìn… Trong những năm qua, nhờ đổi mới về nhận thức và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo mà năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào có đạo đã được phát huy. Nước ta luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, không và chưa bao giờ có chủ trương cản trở hoạt động tôn giáo bình thường của nhân dân. Đương nhiên, bất cứ tôn giáo nào cũng đều nằm trong cộng đồng dân tộc nhất định và chịu sự quản lý của Nhà nước. Do đó, những người hoạt động tôn giáo, bên cạnh việc hành đạo, phải tôn trọng luật pháp quốc gia. Hầu hết đồng bào có tôn giáo chỉ mong sống “tốt đời, đẹp đạo”, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ hai, về cơ sở thờ tự của các tôn giáo: Những cơ sở thờ tự luôn được nhà nước bảo hộ và cho phép tu bổ, sửa chữa và xây dựng mới ngày càng khang trang, sạch đẹp. Sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo, theo thống kê chưa đầy đủ, trong những năm qua, số cơ sở thờ tự của tôn giáo được xây mới hơn 830, trên 1.000. Đến nay, cả nước có 14.500 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường; 6.000 nhà thờ Công giáo và 500 nhà thờ của đạo Tin Lành; 1.000 thánh thất của đạo Cao Đài; 200 chùa quán Hoà Hảo, 89 thánh đường của Hồi giáo; hàng vạn ngôi đình, đền, miếu, phủ... và những cơ sở thờ tự khác của tín ngưỡng dân gian trải dài khắp cả nước. Một số chi hội Tin Lành ở Tây Nguyên mới thành lập được cấp đất xây dựng nhà thờ. Thứ ba, về cơ sở đào tạo của các tôn giáo: Nhà nước ta rất quan tâm đến việc đào tạo những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, nên số lượng chức sắc ngày càng gia tăng. Hiện nay có 34 trường đại học. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có 4 Học viện Phật học với trên 1.000 tăng, ni sinh; 35 lớp Cao đẳng và Trung cấp Phật học với trên 5.000 tăng, ni sinh; trên 1.000 cơ sở từ thiện và nhân đạo. Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo đang mở rộng theo hướng 16
  17. rút ngắn thời gian chiêu sinh, tăng số lượng, mở rộng loại hình đào tạo. Các tôn giáo khác, tuỳ theo hình thức đào tạo truyền thống của mình cũng được Nhà nước chấp thuận mở các lớp đào tạo chức sắc. Ngoài ra, Nhà nước còn cho phép nhiều người đi tu nghiệp, học tập và thăm viếng ở nước ngoài. Số người đi tu nghiệp ở nước ngoài ngày càng gia tăng, trong đó có nhiều người đạt học vị tiến sĩ, thạc sĩ. Thứ tư, về đội ngũ chức sắc các tôn giáo: cả nước có trên 80.000 chức sắc, nhà tu hành; cơ sở thờ tự hơn 24.000. Số linh mục, giám mục tấn phong ngày một tăng. Sinh hoạt của đạo Công giáo sống động từ giáo họ, giáo xứ đến giáo phận… làm cho bà con giáo dân rất phấn khởi. Ở Việt Nam, tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã và đang yên tâm hành đạo và tin tưởng ở chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Họ gắn bó với quốc gia, dân tộc theo đường hướng: “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, thực hiện “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “nước vinh, đạo sáng”, với tấm lòng “kính chúa, yêu nước”; vừa hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ quốc, vừa làm tròn bổn phận của một tín đồ đối với tôn giáo; hăng hái thi đua lao động sản xuất, tham gia các hoạt động xã hội góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thứ năm, các ấn phẩm tôn giáo của các tôn giáo: Sau khi Nhà xuất bản Tôn giáo được thành lập (1999) đã: “cấp giấy phép xuất bản cho hơn 1.000 đầu sách, với hàng triệu bản in”. Những năm qua Hội thánh Tin Lành Việt Nam đang xúc tiến việc xuất bản Kinh thánh bằng tiếng dân tộc ở Tây Nguyên, trước hết là tiếng Bana, Êđê và Giarai. Thứ sáu, các tổ chức tôn giáo: Từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo việc cấp đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo ngày càng thông thoáng và có nhiều thuận lợi. Trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định 22 và Chỉ thị 01/2005/CT-TTg, ở nước ta có 16 tổ chức, hệ phái của 6 tôn giáo được công nhận. Sau khi có các văn bản pháp luật trên Nhà nước tiếp tục xem xét, cho đăng ký hoạt động và công nhận tư cách pháp nhân cho một số tổ chức, hệ phái tôn giáo khác. Cho đến nay ở Việt Nam đã công nhận tư cách pháp nhân và cấp giấy đăng ký hoạt động tôn giáo cho các tôn giáo sau: 1- Phật giáo: Thống nhất 9 hệ phái Phật giáo, bao gồm: Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam; Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; Giáo Hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam; Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh; Giáo Hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam; Hội đoàn sư sãi yêu nước miền Tây nam bộ; Giáo Hội Khất sĩ Việt Nam; Giáo Hội Thiên Thai giáo quán tông; Hội Phật học Việt Nam vào một với danh xưng là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, trong mái nhà chung của Phật giáo nước nhà. Đây là tổ chức hợp pháp, duy nhất đại diện cho phật tử trong và ngoài nước. 2- Công giáo: Công giáo Việt Nam là một bộ phận của Công giáo thế giới, năm 1980 thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam. 3- Đạo Tin Lành: có 9 hệ phái, đó là: Hội thánh Tin Lành Việt Nam; Tổng hội thánh Tin Lành Việt Nam; Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam; Hội thánh Cơ đốc Phục lâm Việt Nam; Tổng Hội Thánh Báp tít Việt Nam; Hội Thánh Mennoite Việt Nam; Hội Thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam; Hội Thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam; Hội Thánh Báp tít Việt Nam. 4- Đạo Cao Đài: có tới 19 tổ chức, hệ phái, đã có 10 tổ chức, hệ phái được công nhận tư cách pháp nhân, đó là: Cao Đài Tiên Thiên, tỉnh Bến Tre; Cao Đài Chiếu Minh Châu Long, thành phố Cần Thơ; Cao Đài Truyền Giáo; Cao Đài Minh Chơn đạo; Cao Đài Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; Cao 17
  18. Đài Ban Chỉnh đạo; Cao Đài Bạch Y, tỉnh Kiên Giang; Cơ quan Phổ thông giáo lý; Cao Đài Chơn lý; Cao Đài Cầu Kho Tam quan. Còn 9 hệ phái khác, tuy chưa công nhận, nhưng thực tế vẫn đang hoạt động. 5- Phật giáo Hoà Hảo: Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. 6- Hồi giáo: có 3 địa phương, đó là: Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo thành phố Hồ Chí Minh; Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh An Giang; Hội đồng Sư cả Bàni tỉnh Ninh Thuận. Hiện có 6 tôn giáo mới thừa nhận và cấp giấy đăng ký hoạt động, đó là: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Đạo Baha’i, Minh Lý đạo - Tam tông Miếu, Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh sư đạo, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, cũng như chức sắc tín đồ đi học tập, nghiên cứu, hội thảo, thăm thân nhân ở nuớc ngoài cũng đã được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm, tạo điều kiện cho họ sinh hoạt tôn giáo thuận lợi, phù hợp với pháp luật Việt Nam. Xuất phát từ chính sách đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế, Nhà nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia, với các tổ chức quốc tế có liên quan đến tôn giáo dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, các bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên, với pháp luật và thông lệ quốc tế. Vì vậy, các tổ chức tôn giáo trong nước có điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại tôn giáo, quan hệ và giao lưu với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Qua những hoạt động đó, một mặt các tôn giáo tăng cường được sự hiểu biết lẫn nhau, mặt khác làm rõ sự đúng đắn của chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam trước thế giới, góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Ở địa phương, Bình Thuận là một tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ, phía đông bắc và bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía bắc và tây bắc giáp Lâm Đồng, phía tây giáp Đồng Nai, phía tây nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu, phía đông và đông nam giáp biển Đông. Bình Thuận có một nền văn hóa đa dạng và lâu đời của nhiều dân tộc. Toàn tỉnh có hơn 30 dân tộc chung sống, trong đó 6 dân tộc đông nhất là: Việt (Kinh), Chăm, Hoa, Ra Glai, Cơ Ho và Tày. Đặc biệt nơi đây còn lưu giữ nền kiến trúc của người Chăm rất phong phú với những tháp cao bằng đất nung, vừa thanh thoát, vừa bền vững với dáng đứng hiên ngang. Những tác phẩm điêu khắc Chăm như tượng các thần, các vị vua, hoàng hậu, vũ nữ,...đã thể hiện trình độ điêu luyện về kỹ thuật chạm, khắc, với những đường nét chắc, khoẻ, lãng mạn, giàu trí tưởng tượng. Trang phục, nhạc cụ, điệu múa, lời ca là những di sản quý của nền văn hóa cổ Sa Huỳnh và văn hóa Chăm cổ còn được đồng bào lưu giữ đến ngày nay. Các công trình kiến trúc cổ có đền, tháp, đình, chùa, lăng, miếu đan xen với các di tích khảo cổ học, di tích lịch sử cách mạng, các lễ hội truyền thống của người Việt, người Chăm...đã đem lại cho mảnh đất Bình Thuận những nét văn hóa riêng và độc đáo. + Dân tộc Chăm có 2 tôn giáo chính thống với 27.376 tín đồ, chiếm 77,86% dân số dân tộc Chăm . Trong đó: Ðạo Hồi giáo Bà Ni có 14,864 tín đồ, 10 chùa và 290 tu sĩ; Bà La Môn có 12,876 tín đồ và 14 sư cả. Ðây là 2 đạo truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm, hoạt động tôn giáo thường gắn với các lễ hội và ngày tết cổ truyền của dân tộc. + Dân tộc Hoa, Tày, Nùng chủ yếu theo đạo Phật, bao gồm 1.647 tín đồ, hoạt động tôn giáo mang tính tín ngưỡng đơn thuần và thường được tổ chức vào các ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. + Dân tộc K'Ho, JRai, Rắc Lây, Chơro với hơn 27.000 người cứ trú ở 11 xã và 19 thôn xen ghép vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Ðồng bào không theo tôn giáo nào, mà chỉ hoạt động tín ngưỡng dân gian bình thường. Song gần đây ở một số địa bàn vùng cao như: Xã Thuận Hoà (Hàm Thuận Bắc); Phan Sơn (Bắc Bình); Mê Pu (Ðức Linh) có một số đối tượng ở 18
  19. tỉnh Lâm Ðồng và ở thành phố Hồ Chí Minh xuống tổ chức truyền đạo trái phép, tình hình sinh hoạt tôn giáo ngày càng trở nên phức tạp, trong những năm qua số tăng, ni có sự biến động tăng nhanh chóng, các cơ sở thờ tự củng có xu hướng tăng. … Tóm lại, Trong những qua, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ dừng lại ở việc nhận thức mà thực sự đã đi vào cuộc sống của đông đảo đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo, làm cho đồng bào cả nước nói chung, tỉnh Bình Thuận nói riêng an tâm phấn khởi, tin tưởng vào chính sách và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo. 19
  20. Câu 6. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng ở địa phương những suy nghĩ, đề xuất và kiến nghị của cá nhân về vấn đề này? Trong những năm qua, Đảng và NN đã có nhiều cố gắng nhằm thực hiện tốt quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trên thực tế, chính sách tôn giáo của ta ngày càng được cụ thể hoá và đáp ứng ngày càng tốt hơn nguyện vọng của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Bằng việc ban hành hàng loạt các Nghị quyết, pháp lệnh về tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị (khoá IX) về: “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, chỉ thị số 37-CT/TW ngày 02/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7(khoá IX) về tôn giáo, pháp lệnh tín ngưỡng, TG số 21/2001/PL – UBTVQHII… Đảng và NN ta đã và đang thể hiện sự quan tâm thoả đáng đến những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện thụân lợi cho các tổ chức và cá nhân tôn giáo sinh hoạt và phù hợp với luật pháp quốc tế về quyền dân sự, chính trị của người dân. Nhờ những đổi mới trong chính sách tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo ở nước ta có thêm nhiều điều kiện thuận lợi , nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa, xây dựng lại hoặc xây mới khang trang hơn, việc đào tạo các chức sắc tôn giáo cũng được nhà nước quan tâm. Đối với tỉnh Bình Thuận với chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đông đảo chức sắc, tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết đồng bào tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới của tỉnh. Tỉnh BÌnh Thuận đã tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo làm mới cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt bình thường. Hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện của các tôn giáo ngày càng được mở rộng. Các tổ chức giáo hội từng bước được củng cố; quan hệ của tôn giáo với chính quyền địa phương ngày càng được hoàn thiện. Nhìn chung, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào tôn giáo trong tỉnh những năm qua được nâng lên, đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước và chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, tỉnh Bình Thuận nói riêng. các tôn giáo luôn đồng hành cùng nhà nước, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, làm từ thiện, xây dựng đời sống văn hóa,… góp phần củng cố khối đại đoàn kết của tỉnh nhà. Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo, như Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị (khóa VI); đặc biệt sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “công tác tôn giáo”, huyện Ngọc Hiển xây dựng chương trình hành động; Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, để chỉ đạo thực hiện công tác tôn giáo. Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý về công tác tôn giáo ở địa phương được nâng lên, trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn giáo đã vận dụng linh hoạt hơn các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, giải quyết tương đối kịp thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào; tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội của tỉnh đến cơ sở tích cực vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Các đoàn thể đẩy mạng công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đồng bào tôn giáo, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương. Sự phối kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể và chính quyền các cấp đã tạo được sự thống nhất trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo Đại hội nhiệm kỳ theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2