Tài trợ cho chi trả . . .<br />
<br />
TÀI TRỢ CHO CHI TRẢ TIỀN MẶT ĐỐI VỚI CỔ ĐÔNG CÁC<br />
CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN<br />
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HOSE)<br />
Tô Thị Thanh Trúc*, Trần Thanh Vũ**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Bài báo nhằm phân tích hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả cổ đông của các công ty<br />
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006 –<br />
2014, dựa trên khung phân tích của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Kết quả phân tích cho thấy<br />
huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến. Xấp<br />
xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, 78%<br />
số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt. Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực<br />
hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông<br />
không thể đáp ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ<br />
phiếu dùng để chi trả lại cho cổ đông. Trong cả giai đoạn, 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông được<br />
tài trợ từ tiền huy động bên ngoài.<br />
Từ khoá: chính sách cổ tức, huy động vốn, tài trợ<br />
<br />
FINANCING PAYOUTS OF COMPANIES LISTED ON HOSE<br />
ABSTRACT<br />
The paper aims at investigating financing payouts of companies listed on HOSE over<br />
the period of 2006-2014 based on the analysis framework of Farre-Mensa et al (2015). The<br />
results showthat raising capital and paying payouts simultaneously is an unexpectedly common<br />
phenomenon. Roughly 69% payout payers raise external capital in the same year, 78% issuers<br />
engage in payingcash dividends or repurchasing stocks. Over a half of paying firms are unable to pay<br />
without external financing. For a year, approximately 40,7% of aggregate payouts cannot be met by<br />
internally generated cash flows, 24,9 % of aggregate stock issue proceeds are simultaneously paid<br />
out by the same firms. Over the period, 44,6% of total payouts are financed with external sources.<br />
Key words: dividend policy, capital raising, financing<br />
*<br />
<br />
ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quố gia Tp. Hồ Chí Minh<br />
TS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương<br />
<br />
**<br />
<br />
81<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Chi trả tiền mặt cho cổ đông của công ty<br />
cổ phần bao gồm chia cổ tức tiền mặt và mua<br />
lại cổ phiếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh<br />
trong một kỳ của công ty tạo ra dòng tiền từ<br />
hoạt động, dòng tiền này sau khi sử dụng để<br />
tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh<br />
doanh, phần còn lại gọi là dòng tiền tự do.<br />
Dòng tiền tự do này công ty dùng để phân<br />
phối lại cho các nhà đầu tư. Đối với cổ đông,<br />
dòng tiền nhận được từ công ty bao gồm cổ<br />
tức tiền mặt và tiền từ bán lại cổ phiếu của<br />
chính công ty khi công ty mua lại.Theo Jensen<br />
(1986), công ty có dòng tiền tự do dồi dào có<br />
thể tăng cổ tức hoặc mua lại cổ phiếu nhằm<br />
chi trả tiền mặt cho cổ đông. Về mặt lý thuyết,<br />
công ty có thể tài trợ cho các khoản chi trả<br />
tiền mặt cho cổ đông bằng vốn huy động từ<br />
bên ngoài, thông qua vay nợ hoặc phát hành<br />
cổ phiếu, nhưng việc này có thể được xem<br />
là không kinh tế và không hiệu quả (Miller<br />
& Rock, 1985). Một số lý thuyết hỗ trợ việc<br />
công ty duy trì cổ tức và huy động tiền bên<br />
ngoài để tài trợ cho đầu tư mới với lập luận<br />
rằng việc này làm tăng giá trị công ty.<br />
Nghiên cứu gần đây của Farre-Mensa &<br />
các cộng sự (2015) thực hiện trên các công ty<br />
niêm yết Mỹ trong giai đoạn 1989-2011cho<br />
thấybình quân 32% tổng số tiền chi trả cho cổ<br />
đông được huy động từ thị trường tài chính,<br />
chủ yếu là từ nợ. Các công ty chi trả 39% số<br />
tiền vay nợ ròng và 19% số tiền thu được từ<br />
phát hành cổ phiếu. Hơn 42% công ty chi trả<br />
cổ tức tham gia vào việc tài trợ cho cổ tức và<br />
mua lại cổ phiếu như vậy.<br />
Tại Việt Nam, cổ tức thường được nhìn<br />
nhận như một bằng chứng về sự xác thực của<br />
các khoản lợi nhuận được báo cáo. Thông<br />
tin về các công ty niêm yết cho thấy hầu hết<br />
thực hiện chi trả cổ tức cho cổ đông khi có lợi<br />
<br />
nhuận. Thậm chí có những công ty đang rất<br />
cần vốn cho các dự án mới vẫn thực hiện trả<br />
cổ tức và cùng lúc đó phát hành cổ phiếu mới.<br />
Như vậy, vấn đề đáng lưu tâm là công ty niêm<br />
yết Việt Nam thường cố gắng chia cổ tức đều<br />
đặn bất chấp việc công ty có thể đang rất cần<br />
vốn cho các dự án mở rộng, và như vậy rất có<br />
thể các công ty đã dùng các nguồn tiền huy<br />
động bên ngoài để tài trợ cho các khoản chi<br />
trả này.<br />
Bài báo này nhằm đánh giá thực tế tài trợ<br />
các khoản chi trả tiền mặt cho cổ đông của<br />
các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng<br />
khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).<br />
Những vần đề bài báo sẽ làm sáng tỏ gồm:<br />
Hoạt động chi trả cho cổ đông và huy động<br />
vốn bên ngoài của các công ty trên sàn HOSE<br />
trong giai đoạn 2006-2014; Mức độ cổ tức<br />
được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài và tiền<br />
huy động từ bên ngoài dùng để tài trợ cho việc<br />
chi trả cổ tức; Liệu các công ty có thể thực<br />
hiện việc chi trả nếu không huy động tiền từ<br />
bên ngoài.<br />
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ<br />
CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM<br />
Thực hiện việc chi trả cho cổ đông thường<br />
được nhìn nhận là xuất phát từ mong muốn<br />
trả về dòng tiền tự do cho cổ đông của công<br />
ty (DeAngelo & các cộng sự, 2006). Miller &<br />
Modigliani (1961, MM) cho rằng trong một<br />
thị trường vốn hoàn hảo, chính sách chi trả<br />
của một công ty không ảnh hưởng đến giá trị<br />
của công ty đó, công ty có thể thực hiện bất<br />
cứ mức chi trả nào mà họ muốn với một thay<br />
đổi tương ứng ở số lượng cổ phiếu lưu hành.<br />
Nghĩa là công ty có thể phát hành chứng<br />
khoán mới để huy động tiền cho các dự án<br />
đầu tư mới và chi trả cổ tức cho cổ đông bằng<br />
toàn bộ lợi nhuận kiếm được hoặc dùng toàn<br />
bộ lợi nhuận kiếm được tài trợ cho các đầu<br />
82<br />
<br />
Tài trợ cho chi trả . . .<br />
<br />
tư mới và không chi trả cho cổ đông gì cả.<br />
Tuy nhiên, các giả định về thị trường hoàn<br />
hảo của MM không tồn tại trong thực tế nên<br />
chính sách chi trả của công ty có tác động đến<br />
giá trị cổ phiếu.<br />
Chi phí phát hành chứng khoán mới, làm<br />
cho việc tài trợ cho chi trả bằng tiền huy động<br />
từ bên ngoài trở nên tốn kém, một số tác giả<br />
cho rằng việc này là không hữu ích và không<br />
kinh tế (Miller & Rock, 1985). Lý thuyết trật<br />
tự phân hạng trong tài trợ cho rằng nguồn vốn<br />
từ phát hành cổ phần mới nên được sử dụng<br />
sau cùng, sau khi công ty đã sử dụng hết lợi<br />
nhuận giữ lại và khả năng vay mượn, công ty<br />
nên bắt đầu chia cổ tức khi tạo ra dòng tiền đủ<br />
để tài trợ cho các nhu cầu đầu tư hiện tại và<br />
tương lai, và khuyến cáo các nhà quản lý nên<br />
duy trì mức cổ tức thấp để tránh việc dùng<br />
nguồn tài trợ bên ngoài đắt đỏ trong tương lai<br />
(Ross, Westfield, Jaffe &Jordon, 2008).<br />
Lý thuyết phát tín hiệu, được phát triển<br />
bởi Bhattacharya (1979), Miller & Rock<br />
(1985)John & William (1985) và một số tác<br />
giả khác, dựa trên bất cân xứng thông tin giữa<br />
những người tham gia thị trường và giữa các<br />
nhà quản lý với các nhà đầu tư. Họ cho rằng<br />
nhà quản lý sử dụng thay đổi trong tỷ lệ chi<br />
trả cổ tức tiền mặt để truyền tải những thông<br />
tin và kỳ vọng về lợi nhuận và hoạt động<br />
của công ty đến thị trường nhằm giảm thiểu<br />
chênh lệch thông tin, nhờ đó tác động đến giá<br />
cổ phiếu. Nhà đầu tư sẽ dựa vào việc chi trả<br />
cổ tức để đánh giá tình hình tài chính hiện tại<br />
và triển vọng hoạt động tương lai của công<br />
ty. Công ty sẽ tăng cổ tức chi trả một khi tin<br />
tưởng rằng trong tương lai công ty có thể đạt<br />
được lợi nhuận và dòng tiền tốt hơn. Điều có<br />
thể rút ra về lý thuyết phát tín hiệu là các công<br />
ty sẽ duy trì cổ tức để tạo sự tin tưởng cho nhà<br />
đầu tư, khi cần vốn tài trợ cho các dự án mới<br />
<br />
công ty có thể vay nợ, một khi tin tưởng rằng<br />
các dự án tương lai mang lại kết quả tốt, công<br />
ty sẽ tăng cổ tức để phát đi thông điệp này đến<br />
nhà đầu tư.<br />
Lý thuyết đại diện, giả định rằng các nhà<br />
quản lý không phải luôn hành động theo lợi<br />
ích của cổ đông là tối đa hóa giá trị cổ phiếu,<br />
rất nhiều nhà quản lý tập trung vào việc đạt<br />
được các lợi ích cá nhân. Theo Jensen (1986),<br />
khi lợi nhuận giữ lại cao các nhà quản lý công<br />
ty có xu hướng đầu tư vào những dự án xấu.<br />
Cổ tức làm giảm dòng tiền tự do mà ban quản<br />
lý có thể tùy nghi sử dụng và do đó kiểm soát<br />
được vấn đề đầu tư quá mức không hiệu quả.<br />
Theo Easterbrook (1984), cổ tức được sử<br />
dụng để lấy dòng tiền tự do khỏi sự kiểm soát<br />
của ban quản lý và trả về cho cổ đông, công<br />
ty sẽ phải tiếp cận thị trường vốn để huy động<br />
vốn tài trợ cho các dự án mới. Điều này áp đặt<br />
kỷ luật cho ban quản lý, vì khi huy động vốn<br />
bên ngoài công ty phải chịu sự giám sát của<br />
thị trường, làm giảm chi phí đại diện và làm<br />
tăng giá trị của công ty.<br />
Lý thuyết chính sách cổ tức theo chu kỳ<br />
sống của doanh nghiệp, được trình bày trong<br />
nghiên cứu của DeAngelo& các cộng sự<br />
(2006) cho rằng những công ty trưởng thành<br />
ít có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ phân phối<br />
dòng tiền dư thừa cho cổ đông, trong khi các<br />
công ty trẻ đang tăng trưởng hạn chế chi trả cổ<br />
tức và không mua lại cổ phiếu.<br />
Như vậy, các lý thuyết trật tự phân hạng<br />
trong tài trợ, chính sách cổ tức theo vòng đời<br />
và chi phí giao dịch không ủng hộ và thừa<br />
nhận việc các công ty huy động tiền bên ngoài<br />
để tài trợ cho cổ tức trong khi đó theo lý thuyết<br />
phát tín hiệu và lý thuyết đại diện thì công ty<br />
có thể và nên huy động tiền bên ngoài trong<br />
trường hợp cần thiết để duy trì cổ tức cho cổ<br />
đông và áp đặt kỷ luật lên các nhà quản lý.<br />
83<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
3. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
Mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết<br />
trên sàn giao dịch chứng khoán Tp HCM<br />
(HOSE), số liệu được thu thập cho giai đoạn<br />
từ 2006 - 2014. Dữ liệu được thu thập từ bản<br />
cáo bạch và báo cáo thường niên của các công<br />
ty niêm yết, trên trang Web của HOSE và của<br />
các công ty. Khi thu thập thông tin của các<br />
công ty niêm yết, chúng tôi tập hợp cả những<br />
thông tin tài chính của hai năm trước khi công<br />
ty niêm yết, được công bố trong bản cáo bạch<br />
của công ty, do đó số công ty phân tích ở mỗi<br />
năm có thể nhiều hơn số công ty thực tế niêm<br />
yết trên HOSE trong năm đó. Các công ty<br />
tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) được loại ra<br />
khỏi mẫu nghiên cứu vì bản chất hoạt động<br />
và các quy định quản lý của các công ty này<br />
khác biệt với các công ty sản xuất kinh doanh<br />
thông thường.<br />
Thông tin về chi trả tiền mặt cho cổ đông<br />
và huy động vốn được lấy từ báo cáo lưu<br />
chuyển tiền tệ. Công ty được xem là có chia<br />
cổ tức và mua lại cổ phiếu nếu dòng tiền từ<br />
hai mục này âm.Công ty được xem là có phát<br />
hành cổ phiếu nếu dòng tiền thu được từ phát<br />
<br />
hành cổ phiếu dương, có huy động thêm vốn<br />
từ vay nợ trong kỳ nếu chênh lệch giữa tiền<br />
thu từ đi vay với tiền chi trả các khoản nợ<br />
gốc dương, chênh lệch này được gọi là vay<br />
nợ ròng.<br />
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, số liệu<br />
được tổng hợp, thống kê, phân tích theo xu<br />
hướng và tỷ số. Do có nhiều nội dung phân<br />
tích khác nhau, cách tính toán các chỉ tiêu cần<br />
thiết để phân tích được giải thích chi tiết trong<br />
mỗi phần kết quả nghiên cứu. Bài báo này dựa<br />
trên khung phân tích về tài trợ cho chi trả của<br />
các công ty Mỹ, giai đoạn 1989-2011 của<br />
Farre-Mensa & các cộng sự (2015).<br />
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
4.1. Tình hình chi trả cho cổ đông<br />
Hình 1 thể hiện diễn biến số lượng công ty<br />
phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng<br />
khoán TP HCM (HOSE) được đưa vào phân<br />
tích và số công ty có chi trả tiền mặt cho cổ<br />
đông. Phân tích cho thấy bình quân 75% số<br />
công ty niêm yết chi trả tiền mặt cho cổ đông,<br />
chủ yếu là thông qua cổ tức tiền mặt với tỷ lệ<br />
71,5%, bình quân chỉ có 17% công ty mua lại<br />
cổ phiếu.<br />
<br />
Hình 1: Thống kê số lượng công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (công ty)<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE<br />
84<br />
<br />
Tài trợ cho chi trả . . .<br />
Hình 2: Tỷ lệ công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (% của công ty phi tài chính niêm yết trên HOSE)<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE<br />
<br />
Hình 3: Tổng số tiền chi trả cho cổ đông (ngàn tỷ đồng)<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE<br />
<br />
Tổng số tiền các công ty chi trả cho cổ<br />
đông tăng lên đều đặn qua các năm, trong đó<br />
chủ yếu là cổ tức tiền mặt, bình quân chiếm<br />
89,5% tổng số tiền chi trả. Mức chi trả cổ tức<br />
tiền mặt cao nhất vào năm 2014, đạt mức 30,4<br />
ngàn tỷ đồng. Số tiền các công ty chi ra để<br />
<br />
mua lại cổ phiếu không đáng kể trong tổng<br />
tiền chi cho cổ đông, bình quân xấp xỉ hai<br />
ngàn tỷ đồng mỗi năm, năm cao nhất là năm<br />
2013 đạt con số 6.618 tỷ đồng. Xét trong mối<br />
tương quan giữa số lượng công ty niêm yết<br />
và số tiền chi trả cổ tức thì dường như các<br />
85<br />
<br />