TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TĂNG THÊM HÀNH THỂ TRONG CÂU<br />
HÀNH ĐỘNG CỦA BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT<br />
TÁC PHẨM “HỒNG LÂU MỘNG”<br />
NGUYỄN THỊ LUYỆN*; PHAN THANH HOÀNG**<br />
*<br />
Đại học Phúc Đán, Trung Quốc, nguyenluyen1185@gmail.com<br />
**<br />
Đại học Phúc Đán, Trung Quốc, jack_lucky_phan@yahoo.com<br />
Ngày nhận bài: 28/7/2019; ngày sửa chữa: 27/8/2019; ngày duyệt đăng: 30/8/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Hành thể là thành phần phụ trong câu hành động tiếng Trung, thông thường đứng trước động ngữ.<br />
Bài viết thông qua phương pháp phân tích câu theo “Văn hóa câu tiếng Trung” của Thân Tiểu<br />
Long để tiến hành khảo sát bản gốc Hồng Lâu Mộng và bản dịch tiếng Việt tương đương của<br />
dịch giả Vũ Bội Hoàng cùng nhóm dịch, thu được kết quả như sau: câu đơn đoạn có tỷ lệ thêm<br />
vào hành thể là 19,41%, câu đa đoạn có tỷ lệ thêm vào hành thể là 80,59%. Trong câu đa đoạn có<br />
0,75% sau khi dịch sang tiếng Việt bị cắt thành hai hoặc ba câu, đồng thời thêm vào hành thể. Sự<br />
thêm vào hành thể và cắt câu như vậy giúp tính liên kết trong câu chặt chẽ hơn, ý nghĩa rõ ràng,<br />
dễ hiểu hơn và phù hợp với văn hóa giao tiếp của người Việt. Bài viết nhằm lý giải cho việc tăng<br />
hành thể đó và cung cấp thêm phương pháp dịch tăng hành thể trong câu tiếng Việt.<br />
Từ khóa: hành thể, Hồng Lâu Mộng, văn hóa ngôn ngữ, tính phân cắt<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ Câu chủ đề, câu hành động, câu quan hệ, câu miêu<br />
tả, câu thuyết minh,... (Thân Tiểu Long, 1988).<br />
Nhà ngôn ngữ học J.Baudouin de Courtenay<br />
nhấn mạnh việc nghiên cứu ngôn ngữ phải xuất Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích<br />
phát “từ bản thân nó” (Dẫn theo Nguyễn Quang câu theo “Văn hóa câu tiếng Trung” do Thân Tiểu<br />
Hồng, 2018, tr. 27). Long đề xuất và lấy thành phần chủ thể hành động<br />
trong câu hành động của tác phẩm “Hồng Lâu<br />
Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Thân Tiểu Long Mộng” làm đối tượng nghiên cứu.<br />
cho rằng, các câu tiếng Trung không có khung hình<br />
thức trừu tượng như câu trong ngôn ngữ châu Âu. Trong cuốn “Văn hóa câu tiếng Trung”, Thân<br />
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã chú ý đến sự Tiểu Long cho rằng: “Câu hành động(施事句)<br />
thống nhất giữa chức năng và kết cấu khi nghiên là câu trần thuật hành vi, hành động. Kết cấu đầy<br />
cứu các mẫu câu tiếng Trung. Theo đó, xuất phát đủ của loại câu này là: “ngữ thời gian (时间语) +<br />
từ chính ý nghĩa và chức năng diễn đạt của các loại ngữ địa điểm (地点语) + chủ thể hành động (施事<br />
câu. Chúng tôi chia thành các loại câu sau đây: 语) + động ngữ (动作语)”. Trong đó, động ngữ là<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 69<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
trọng tâm ngữ nghĩa và trọng tâm kết cấu của câu. ngữ được dùng trong văn hóa câu tiếng Trung,<br />
Chính vì vậy, động ngữ là thành phần không thể không giống với câu đơn, câu ghép và câu phức<br />
vắng mặt trong cấu trúc trên, các thành phần còn trong tiếng Việt. Do đó, khi khảo sát câu hành<br />
lại đều có thể vắng mặt mà không ảnh hưởng đến động trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng chúng tôi<br />
ý nghĩa ngữ pháp của câu”. Trong đó, chủ thể hành thống nhất sử dụng khái niệm câu đơn đoạn và câu<br />
động (施事语) là thành phần đứng trước động ngữ, đa đoạn.<br />
là đối tượng gây ra tác động đó. (申小龙, 1988, tr.<br />
364). Như vậy, “chủ thể hành động” tương ứng Tăng hành thể được hiểu theo hai trường hợp:<br />
với khái niệm “hành thể” trong câu chỉ hành động thứ nhất, trong câu tiếng Trung vốn không có hành<br />
của Cao Xuân Hạo. “Một biến cố trong đó có một thể nhưng trong bản dịch tiếng Việt lại thêm vào<br />
chủ thể làm một việc có chủ ý (chủ động, tự điều một hành thể, gồm 414 câu, chiếm 94,52%; thứ<br />
khiển) gọi là một hành động. Chủ thể (diễn tố duy hai, câu tiếng Trung có một hành thể, sau khi dịch<br />
nhất hoặc thứ nhất) của một hành động gọi là hành xuất hiện hai, gồm 24 câu, chiếm 5,48%.<br />
thể, hay kẻ hành động (actor).” (Cao Xuân Hạo,<br />
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ khảo<br />
1991, tr. 234). Dưới đây chúng tôi thống nhất gọi<br />
sát việc tăng thêm hành thể của câu tiếng Việt<br />
“chủ thể hành động” bằng tên gọi hành thể.<br />
thông qua câu hành động tiếng Trung và bản dịch<br />
Thân Tiểu Long (1988, tr. 147) cho rằng, “hành tương ứng của dịch giả Vũ Bội Hoàng cùng nhóm<br />
thể là thành phần có thể vắng mặt trong câu mà dịch để lý giải cho việc tăng đó và nhằm cung cấp<br />
không ảnh hưởng đến cấu trúc cú pháp và ý nghĩa thêm phương pháp dịch tăng hành thể trong câu<br />
toàn câu”. Vương Lý Hà (2004, tr. 8) đã chỉ ra tiếng Việt.<br />
rằng, “do trong đoạn văn luôn có sự liên kết thông<br />
Chúng tôi tiến hành thống kê câu tăng thêm<br />
tin câu trên dưới với nhau, chính vì vậy, hành thể<br />
hành thể trong 40 hồi đầu tiên và thu được kết quả<br />
hoàn toàn có thể vắng mặt mà không ảnh hưởng<br />
như sau:<br />
đến ý nghĩa và kết cấu của câu”. Vương Ý (2016,<br />
tr. 6) khi nghiên cứu về câu hành động tiếng Trung Bảng 1: Thống kê kết quả tăng thêm hành thể<br />
đã kết luận rằng: “Hành thể không phải là thành của bản dịch “Hồng Lâu Mộng”<br />
phần bắt buộc trong câu hành động, đặc biệt trong<br />
văn cổ tiếng Trung, thành phần này thường xuyên Thứ tự Loại câu Số lượng Tỷ lệ (%)<br />
vắng mặt trong câu”. 1 Câu đơn đoạn 85 19.41<br />
1.1 Câu đối thoại 24 5.48<br />
Trong 40 hồi đầu tiên của tác phẩm Hồng Lâu<br />
1.2 Câu trần thuật 61 13.93<br />
Mộng có tổng cộng 13407 câu, trong đó có 5684<br />
câu hành động, chiếm 42,4% tổng số câu và là loại 2 Câu đa đoạn 353 80.59<br />
<br />
câu có số lượng lớn nhất. Sau khi dịch sang tiếng 2.1 Câu hai đoạn 168 38.36<br />
<br />
Việt, có 438 câu được thêm vào hành thể, chiếm 2.2 Câu ba đoạn 124 28.31<br />
7,71% tổng số câu hành động. 2.3 Câu bốn đoạn 46 10.50<br />
<br />
2.4 Câu năm đoạn 15 3.42<br />
Thân Tiểu Long chia câu hành động thành câu<br />
3 Tổng cộng 438 100<br />
hành động đơn đoạn và câu hành động đa đoạn.<br />
“Câu hành động đơn đoạn là câu trần thuật hành 2. TĂNG HÀNH THỂ TRONG CÂU ĐƠN<br />
vi, hành động, chỉ có một cú đoạn1. Trong cú đoạn ĐOẠN<br />
đó có thể có một hoặc nhiều động từ”. “Câu hành<br />
động đa đoạn là câu có từ hai cú đoạn trần thuật Trong 40 hồi đầu tiên có 2472 câu đơn đoạn<br />
hành vi hành động trở lên.” (夏征农, 2003, tr. tiếng Trung, chiếm 43,49% câu hành động. Trong<br />
128). “Câu đơn đoạn” và “câu đa đoạn” là thuật đó có 85 câu khi dịch sang tiếng Việt tăng thêm<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
70 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
hành thể, chiếm 19,41% câu tăng thêm, chiếm nói trống không. “Trong tiếng Việt, rất ít sử dụng<br />
3,44% câu đơn đoạn. Tăng hành thể xuất hiện các đại từ nhân xưng đích thực (có thể bị coi là<br />
trong câu đối thoại và câu trần thuật, hành thể khiếm nhã), mà thường dùng các danh từ chỉ người<br />
được thêm vào do danh từ hoặc đại từ đảm nhiệm. có họ hàng (danh từ thân tộc) và cả từ chỉ chức<br />
vụ để làm từ xưng hô. Cũng thường gặp trong hội<br />
2.1. Tăng hành thể trong câu đối thoại thoại đời thường cách dùng một danh từ chỉ quan<br />
hệ thân tộc kết hợp ở phía sau các từ như “cháu,<br />
Trong các câu đối thoại có 24 câu tăng hành<br />
em, nó (tùy hoàn cảnh cụ thể) để tạo dạng nhân<br />
thể, chiếm 5,48% câu tăng, chiếm 0,97% câu đơn<br />
xưng ngôi thứ hai và ngôi thứ ba”. (Diệp Quang<br />
đoạn. Hiện tượng tăng hành thể tương đương với<br />
Ban, 2009, tr.334).<br />
tăng thêm chủ ngữ trong câu tiếng Việt. Ví dụ:<br />
(2) Câu trước:宝玉道……袭人忙回身拦住,<br />
(1) Câu trước: 周瑞家 (S) 的又问 (V)香菱<br />
(O):……香菱 (S) 听问 (V),都摇头说 (V). 笑道:)(Dịch: Tập Nhân vội kéo Bảo Ngọc lại nói.)<br />
(Dịch: Bà Chu lại hỏi Hương Lăng: ...Hương Lăng<br />
Câu chính:往哪里 (Ad) 去 (V)?(Dịch<br />
(S) lắc đầu (V).<br />
thẳng: Đi đâu đấy?)<br />
Câu chính:不记得 (V)了。(Dịch thẳng:<br />
Bản dịch: Cậu (S) định đi (V) đâu (O) đấy?<br />
Chẳng nhớ gì cả.)<br />
Trong bối cảnh giao tiếp trên gồm có “Tập<br />
Bản dịch: Em (S) chẳng nhớ (V) gì (O) cả.<br />
Nhân” (người hầu) và “Bảo Ngọc” (cậu chủ).<br />
Trong câu tiếng Trung không xuất hiện hành Chính vì vậy “Tập Nhân” không thể “nói trống<br />
thể nhưng khi dịch sang tiếng Việt được thêm vào không” với cậu chủ. Trong câu tiếng Trung (2)<br />
từ “em” bởi trong đoạn hội thoại trên có sự tham không xuất hiện hành thể, nhưng khi dịch sang<br />
gia của hai nhân vật, người hỏi là “bà Chu” lớn tiếng Việt được thêm vào từ “cậu” chỉ cách xưng<br />
tuổi hơn người nghe là “Hương Lăng”. Nếu dịch hô của “Tập Nhân” với “Bảo Ngọc”. Việc thêm<br />
thẳng câu tiếng Trung ra thành: “Chẳng nhớ gì cả.” vào hành thể là hoàn toàn hợp lý.<br />
thì không phù hợp trong ngữ cảnh này, bởi như vậy<br />
sẽ thiếu đi yếu tố văn hóa trong giao tiếp. (3) Câu trước:王夫人便问:“你从哪里<br />
来?” (Dịch: Vương phu nhân hỏi: Cháu ở đâu<br />
“Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có đến đây?)<br />
thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá... Tuổi<br />
tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình Câu chính: 从园子里 (Ad) 来 (V)。(Dịch<br />
trạng gia đình là những vấn đề người Việt thường thẳng: Ở bên vườn sang.)<br />
quan tâm... Mặt khác, do lối sống trọng tình cảm,<br />
mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô Bản dịch: Cháu (S) ở bên vườn sang (V).<br />
riêng”. (Trần Ngọc Thêm, 2000, tr.156-157).<br />
Trong câu (3) là cuộc đối thoại giữa “Vương<br />
“Tiếng Việt Nam lấy sự “biết gọi biết thưa” phu nhân”(người già) với “Bảo Thoa” (người trẻ).<br />
trong sự giao thiệp – làm rất thận trọng. Phải tùy Trong câu tiếng Trung không xuất hiện hành thể<br />
tuổi, tùy địa vị hay nghề nghiệp của từng người nhưng sau khi dịch đều được thêm vào, đó là “cháu”.<br />
mà dùng tiếng đại danh tự cho đúng. Ví như người<br />
đáng gọi là cụ, là bà mà gọi là anh, là chị thì bị Có thể thấy rằng, trong các ví dụ trên, các hành<br />
ngạo.” (Trần Trọng Kim, 1940, tr.69). thể tăng thêm đều do đại từ hoặc danh từ thân tộc<br />
như “em”, “cậu”, “cháu” đảm nhiệm. Nguyên<br />
“Hương Lăng” ít tuổi hơn “bà Chu” nên xưng nhân tăng là do hoàn cảnh giao tiếp giữa người<br />
là “em” chứ không xưng “tôi” và cũng không được dưới xưng hô với người trên hoặc do địa vị xã hội<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 71<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
quy định. Chẳng hạn trong câu (1), “周瑞家” lớn dụng từ xưng hô đóng vai trò chủ ngữ, tuy nhiên<br />
tuổi hơn “香菱” hoặc trong (3) “王夫人” lớn tuổi những trường hợp như vậy ít sử dụng hơn.<br />
hơn “宝钗”, còn với câu (2) là đối thoại giữa “袭<br />
人 (người hầu)” và “宝玉 (cậu chủ)” . Chính vì 2.2. Tăng hành thể trong câu trần thuật<br />
vậy việc thêm vào hành thể nhằm mục đích thể<br />
hiện thái độ tôn trọng và lễ phép của người dưới Trong các câu đơn đoạn mang tính trần thuật<br />
đối với người trên. Hơn nữa, khi thêm vào như vậy đa phần là lời kể chuyện của tác giả. Tổng số câu<br />
thì người đọc xác định rõ hơn mối quan hệ, vai vế tăng thêm hành thể là 61, chiếm 13,93% câu tăng,<br />
giữa người những người tham gia cuộc đối thoại. chiếm 2,47% câu đơn đoạn.<br />
<br />
Hành thể tăng thêm còn do danh từ riêng đảm Hầu hết những chủ thể đó đều do danh từ đảm<br />
nhiệm, ví dụ: nhiệm, có thể là danh từ chung hoặc danh từ riêng,<br />
ví dụ:<br />
(4) Câu trước: 林姑娘的行李东西可搬进来<br />
了?(Dịch: Những hành lý của cô Lâm đã mang (5) Câu trước: “凤姐见昭儿回来……交付<br />
vào chưa?) 昭儿”。(Dịch: Phượng Thư gọi ngay Chiêu Nhi<br />
đến ... trao cho Chiêu Nhi.)<br />
Câu chính: “带(V) 了几个人(O)来(C)?”(Dịch<br />
thẳng: Mang mấy người theo hầu?) Câu chính: “又细细吩咐(V)昭儿(O). (Dịch<br />
thẳng: Lại dặn dò Chiêu Nhi.)<br />
Bản dịch: Cô Lâm (S) mang (V) mấy người<br />
theo hầu? Bản dịch: Phượng Thư (S) lại dặn dò (V)<br />
Chiêu Nhi (O).<br />
Tương tự các câu trên, câu (4) cũng được thêm<br />
vào hành thể “cô Lâm” mà trong bản dịch không có. (6) Câu trước: 说起来更可笑,他说:‘……’<br />
)(Dịch: Nói ra thật đáng buồn cười, tên học trò<br />
Về cách xưng hô trong tiếng Việt, “như ai nấy bé con ấy nói ...”<br />
đều biết, nền tảng của xã hội Việt Nam là gia đình<br />
và làng xã. Trong quan hệ giao tiếp, chủ thể giao Câu chính: “又常对跟他的小厮们说(V)”<br />
tiếp dùng cách xưng hô trong gia đình để xưng hô (Dịch thẳng: Thường nói với bọn người nhà.)<br />
trong xã hội. Điều này, một mặt tạo được sợi dây<br />
Bản dịch: Nó thường nói với bọn người nhà.<br />
gần gũi trong cộng đồng, mặt khác phát huy được<br />
quan hệ tình cảm như kiểu đại gia đình. Đây có thể (7) Câu trước: “那婆子一时拿了盒子回来,<br />
coi là nét riêng về vẻ đẹp truyền thống của người 说:……”(Dịch: Một lúc, bà già mang cái làn về<br />
Việt.” (Trịnh Sâm, 2018, tr.15) nói:...)<br />
Nguyên nhân tăng hành thể trong câu đối thoại Câu chính: 又向平儿道(V):(Dịch thẳng:<br />
là do: Một là, để giúp câu tiếng Việt hoàn chỉnh Ngoảnh vào nói với Bình Nhi.)<br />
hơn về mặt liên kết logic, giúp nội dung giữa các<br />
câu được gắn kết chặt chẽ hơn; Hai là, trong tiếng Bản dịch: Bà ta (S) ngoảnh vào nói (V) với<br />
Việt, khi giao tiếp với người lớn tuổi hơn hay với Bình Nhi (O).<br />
cấp trên, các từ ngữ xưng hô đóng vai trò chủ ngữ<br />
trong câu là không thể thiếu. Nếu câu không có Trong ví dụ (5), (6), (7), câu tiếng Trung không<br />
chủ ngữ sẽ bị coi là “nói trống không” và bị đánh xuất hiện hành thể nhưng khi dịch sang tiếng Việt<br />
giá là người vô lễ, mất lịch sự. Chỉ trong trường thì thành phần này đều được thêm vào. Chúng tôi<br />
hợp giao tiếp giữa người trên với người dưới hoặc thử nghiệm phương án không cần thêm hành thể<br />
“ngang hàng phải lứa” thì mới có thể không sử mà dịch trực tiếp từ câu tiếng Trung sang, thì ý<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
72 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
nghĩa câu không rõ ràng, chính vì vậy việc thêm Bản dịch: Trông thấy (V) Bảo Ngọc (O), các<br />
vào đó giúp người đọc dễ hiểu hơn, câu được rõ nàng tiên (S) đều trách (V) Cảnh ảo tiên cô (O).<br />
nghĩa hơn nên cho rằng việc thêm vào như vậy là<br />
rất hợp lý. Trong ví dụ (8), câu phía trước của cả tiếng<br />
Trung và Việt đều xuất hiện “mấy cô tiên” ( 几个<br />
3. TĂNG HÀNH THỂ TRONG CÂU ĐA ĐOẠN 仙子). Câu tiếng Trung phía sau thì chủ thể này<br />
không xuất hiện nữa, tuy nhiên câu tiếng Việt vẫn<br />
Trong 40 hồi đầu tiên có 3212 câu đa đoạn chỉ rõ hành thể là “các nàng tiên”.<br />
tiếng Trung, chiếm 56,51% câu hành động. Trong<br />
số đó có 353 câu khi dịch sang tiếng Việt tăng hành (9) Câu trước: “宝玉 (S) 笑道 (V):(S)‘<br />
thể, chiếm 80,59% câu tăng, chiếm 10,99% câu đa 去 (V),不能。咱们斯斯文文的躺着说话儿’<br />
đoạn. Hiện tượng tăng hành thể trong câu đa đoạn 。”(Dịch: Bảo Ngọc cười: Tôi không về đâu.<br />
xuất hiện trong câu hai đoạn, ba đoạn, bốn đoạn Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với nhau.)<br />
và câu năm đoạn. Từ năm đoạn trở lên, câu tiếng<br />
Trung thường xuất hiện hành thể nên không xảy ra Câu chính: “说着 (V),复又倒下(V)” (Dịch<br />
hiện tượng tăng trong câu tiếng Việt. thẳng: Nói xong lại nằm ngả mình xuống.)<br />
<br />
Trong câu đa đoạn xuất hiện hai trường hợp Bản dịch: Bảo Ngọc (S) lại nằm ngả (V) mình<br />
tăng, thứ nhất là câu tiếng Trung vốn không có xuống.<br />
hành thể và tăng thành một sau khi dịch; Trường<br />
Nội dung câu (9) trần thuật hành động của<br />
hợp thứ hai là câu tiếng Trung có sẵn một hành thể,<br />
“Bảo Ngọc”. Khi ba câu tiếng Trung đi liền nhau<br />
sau khi dịch bị tăng thêm hành thể và cắt thành hai<br />
thì hành thể “宝玉” chỉ cần xuất hiện một lần ở câu<br />
hoặc ba câu tiếng Việt. Hiện tượng cắt câu này tỷ phía trước, hai câu phía sau không xuất hiện nữa.<br />
lệ thuận khi số đoạn trong câu tăng lên. Tuy nhiên, trong bản dịch tiếng Việt thì hành thể<br />
“Bảo Ngọc” xuất hiện hai lần và đại từ “tôi” (đồng<br />
3.1. Tăng hành thể trong câu hai đoạn<br />
sở chỉ) xuất hiện một lần. Như vậy, mặc dù cả đoạn<br />
Câu hai đoạn là câu có hai cú đoạn trần thuật đều trần thuật hành động của một đối tượng nhưng<br />
hành vi, hành động. Trong 40 hồi đầu tiên có 2144 hành thể cần xuất hiện ba lần thì mới có thể bao<br />
câu hai đoạn tiếng Trung, trong đó có 168 câu khi trùm được đoạn văn, và hầu như mỗi câu đều cần<br />
dịch sang tiếng Việt tăng hành thể, chiếm 38,36% có một hành thể.<br />
câu tăng, chiếm 7,84% câu hai đoạn. Với câu hai<br />
(10) Câu trước: “李嬷嬷又问道:……”(Dịch:<br />
đoạn chỉ xuất hiện tăng hành thể khi câu tiếng<br />
Vú Lý lại hỏi:...)<br />
Trung không có, sau khi dịch thì xuất hiện một<br />
hành thể. Ví dụ: Câu chính: “说毕 (V1),拿 (V2) 匙 (O) 就吃<br />
(V)”. (Dịch thẳng: Nói xong, lấy ngay ra ăn.)<br />
(8) Câu trước: “一语未了,只见房中又走出<br />
几个仙子来,皆是荷袂蹁跹,羽衣飘舞,娇若 Bản dịch: Nói xong (V1), vú Lý (S) lấy (V2)<br />
春花,媚如秋月”。(Dịch: “Tiếng gọi chưa dứt, ngay ra ăn (V).<br />
đã thấy mấy cô tiên ở trong buồng, tà sen phất<br />
phới, áo lông thướt tha, tươi như hoa xuân, đẹp Trong câu (10) là hai câu tiếng Trung liên tiếp<br />
như trăng thu, chạy ra”. nhau nhưng hành thể chỉ xuất hiện một lần, sau khi<br />
dịch thì “vú Lý”(hành thể) tăng lên thành hai lần.<br />
Câu chính: 一见 (V)了宝玉(O),都怨谤 (V)<br />
警幻 (O)道 (V):(Dịch thẳng: Vừa trông thấy Hành thể sau khi được thêm vào trong bản dịch<br />
Bảo Ngọc, đều trách móc Cảnh ảo tiên cô). có thể đứng đầu câu hoặc đầu đoạn thứ hai của câu.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 73<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
Ở câu tiếng Trung, hành thể này ẩn đi không xuất Câu chính: “一面说 (V1),一面拉着走<br />
hiện trực tiếp mà tự ngầm hiểu, tuy nhiên trong câu (V2),又叫 (V3) 丰儿 (O)” (Dịch thẳng: Vừa nói<br />
tiếng Việt, nó được thêm vào nhằm làm rõ nghĩa vừa dắt đi, lại gọi Phong Nhi.)<br />
câu để tránh gây hiểu lầm. Từ đó cho thấy, tính<br />
ngầm hiểu trong câu tiếng Trung lớn hơn trong Bản dịch: Phượng Thư (S) vừa nói (V1) vừa<br />
câu tiếng Việt, không cần nói rõ hoặc nói trực tiếp dắt (V2) vú Lý (O) đi, lại gọi (V3) Phong Nhi (O).<br />
trong văn cảnh nhưng người đọc vẫn hiểu đúng ý<br />
Câu (11) và (12) khi dịch thẳng không rõ nghĩa<br />
tác giả.<br />
câu và gây khó hiểu cho người đọc. Vì vậy, câu<br />
Khi thêm vào hành thể thì trọng tâm câu tiếng (11) dịch giả thêm vào hành thể “hắn (Giả Tường)”<br />
để chỉ rõ đối tượng gây ra hành động. Còn với câu<br />
Việt đã khác so với câu tiếng Trung bởi hai lý do:<br />
(12), dựa theo ngữ cảnh nên bản dịch thêm vào<br />
Thứ nhất, câu tiếng Trung không cần xuất hiện chủ<br />
hành thể (Phượng Thư) và đối tượng tiếp nhận<br />
thể đã ngầm hiểu đúng người gây ra tác động, còn<br />
hành động (vú Lý) giúp câu rõ nghĩa hơn. So sánh<br />
tiếng Việt buộc phải nêu ra để rõ nghĩa. Thứ hai,<br />
câu dịch thẳng và bản dịch, chúng tôi thấy cách<br />
khi thêm vào hành thể thì trọng tâm câu tiếng Việt<br />
dịch trong bản dịch phù hợp hơn.<br />
nhấn mạnh tới “kẻ gây ra tác động”, ngược lại câu<br />
tiếng Trung không xuất hiện chủ thể này vì trọng Như vậy, với câu ba đoạn, tăng hành thể xuất<br />
tâm câu nhấn mạnh đến hành động. hiện ngay cả khi trong câu tiếng Trung đã có sẵn<br />
một hành thể, và sau khi dịch tăng lên thành hai.<br />
3.2. Tăng hành thể trong câu ba đoạn<br />
Ví dụ:<br />
Câu ba đoạn là câu có ba cú đoạn trần thuật<br />
hành vi, hành động. Trong 40 hồi đầu tiên có 672 (13) 他 (S) 也知道 (V1) 袭人 (O) 在宝玉房<br />
câu ba đoạn tiếng Trung, trong đó có 124 câu khi 中比别个不同,今见 (V2) 她端了茶来,宝玉<br />
dịch sang tiếng Việt tăng hành thể, chiếm 28,31% 又在旁边坐着,便忙站起来笑道 (V3):<br />
câu tăng, chiếm 18,45% câu ba đoạn. Trong câu ba<br />
đoạn xuất hiện hai trường hợp tăng chủ thể: Một Bản dịch: Hắn (S) cũng biết (V1) Tập Nhân<br />
là, sau khi dịch hành thể tăng lên thành một, gồm được coi thân hơn so với tất cả những người hầu<br />
120 câu, chiếm 27,4%; Hai là, sau khi dịch hành trong buồng Bảo Ngọc (O). Nay thấy (V2) chị ta<br />
thể tăng lên thành hai, trường hợp này chỉ có 4 câu, pha trà đưa lên mời, lại có Bảo Ngọc ngồi bên<br />
chiếm 0,91% câu tăng, chiếm 0,6% câu ba đoạn. cạnh, hắn (S) liền đứng dậy cười nói (V3):<br />
Ví dụ:<br />
Trong ví dụ (13), câu tiếng Trung đã có sẵn<br />
(11) Câu trước: “贾蔷听了...。” (Dịch: Giả một hành thể là “他” bao trùm ba đoạn liền nhau,<br />
Tường nghe nói...) nhưng khi dịch sang tiếng Việt thì “hắn” xuất hiện<br />
hai lần, đồng thời cắt câu tiếng Trung ra thành hai<br />
Câu chính: “说 着 (V1), 果 然 将 雀 儿 放 了 câu tiếng Việt. Câu đầu tiên, đại từ “hắn” chỉ bao<br />
(V2), 一顿把将笼子拆了(V3)”. (Dịch thẳng: Nói trùm một đoạn. Câu thứ hai, đại từ “hắn” đứng ở<br />
xong, quả nhiên thả con chim ra và bẻ gãy cả lồng). đoạn thứ hai và quản hai đoạn với hai động ngữ<br />
“thấy (V2)”, “đứng dậy cười nói (V3)”. Việc xuất<br />
Bản dịch: Nói xong (V), hắn (S) thả (V) con hiện hai hành thể và cắt câu giúp cho nội dung câu<br />
chim (O) ra và bẻ gãy (V) cả lồng (O). không bị phân tán, mà tập trung vào đối tượng,<br />
khiến cho người đọc dễ hiểu. Từ đó cũng thấy được<br />
(12) Câu trước: “我家里烧的滚热的野鸡,快 khả năng bao trùm thông tin của hành thể trong câu<br />
来跟我吃酒去。” (Dịch: Bên nhà tôi mới nấu thịt tiếng Trung tương đối mạnh. Với câu ba đoạn chỉ<br />
chim trĩ còn nóng, mời u sang uống rượu với tôi.) cần một hành thể có thể bao trùm được, nhưng với<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
74 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
câu tiếng Việt thì hành thể đó không bao trùm được Về mặt ý nghĩa, câu trong bản dịch rõ ràng, chi tiết<br />
hết mà cần phải cắt câu và tăng thêm hành thể. và dễ hiểu hơn so với câu dịch thẳng. Chính vì vậy<br />
chúng tôi cho rằng, việc tăng hành thể và cắt thành<br />
Chúng tôi đặt giả thiết dịch câu như sau: hai câu trong bản dịch hoàn toàn hợp lý.<br />
“Hắn cũng biết Tập Nhân được coi thân hơn Từ câu (13) và (14) chúng tôi thấy rằng, khi<br />
so với tất cả những người hầu trong buồng Bảo dịch câu từ tiếng Trung sang tiếng Việt, đặc biệt<br />
Ngọc, nay thấy chị ta pha trà đưa lên mời, lại có với những câu dài thì việc cắt câu và thêm hành thể<br />
Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, liền đứng dậy cười nói:” sẽ hợp lý và giúp câu liên kết chặt chẽ hơn, ý nghĩa<br />
(Dịch thẳng) rõ ràng và dễ hiểu hơn.<br />
So sánh câu trong bản dịch và câu dịch thẳng: 3.3. Tăng hành thể trong câu bốn đoạn<br />
có sự khác biệt rõ ràng, đó là câu trong bản dịch<br />
cắt thành hai câu và tăng thêm hành thể; Còn câu Câu bốn đoạn là câu có bốn đoạn trần thuật<br />
dịch thẳng: chỉ có một câu và một hành thể bao hành vi, hành động. Trong 40 hồi đầu tiên có 264<br />
trùm các đoạn. Chúng tôi thấy rằng, câu trong bản câu bốn đoạn tiếng Trung, trong số đó có 46 câu khi<br />
dịch rõ nghĩa và liên kết chặt chẽ hơn so với câu dịch sang tiếng Việt tăng hành thể, chiếm 10,5%<br />
trong bản dịch thẳng, chính vì vậy việc cắt câu và câu tăng, chiếm 17,42% câu bốn đoạn. Trong câu<br />
thêm vào hành thể hoàn toàn hợp lý. bốn đoạn có hai trường hợp tăng hành thể: Một là,<br />
sau khi dịch hành thể tăng lên thành một, gồm 35<br />
Hoặc trường hợp khác như sau:<br />
câu, chiếm 7,99% câu tăng; Hai là, sau khi dịch<br />
(14) 凤姐 (S) 因见 (V1)他素日不大拿班作 hành thể tăng lên thành hai, trường hợp này chỉ<br />
势的,便依允(V2)了,想了(V3)几句话便回王 có 11 câu, chiếm 2,51% câu tăng, và chiếm 4,17%<br />
夫人说(V): câu bốn đoạn. Ví dụ:<br />
<br />
Bản dịch: Phượng Thư (S) biết (V1) Chu thị (15) Câu trước: “袭人冷笑道:……” (Dịch:<br />
xưa nay không hay cậy thần cậy thế mấy, liền nhận Tập Nhân cười nhạt:....)<br />
lời (V2). Nghĩ ngợi một lúc (V3), Phượng Thư<br />
Câu chính: “一面说(V1),一面禁不住流泪<br />
(S) sang trình (V) Vương phu nhân:<br />
(V2),又怕(V3)宝玉烦恼,只得又勉强忍着<br />
Trong câu tiếng Trung chỉ có một chủ thể “ (V4)。<br />
凤姐” trải bao trùm cả ba đoạn, nhưng sau khi dịch<br />
đã cắt thành hai câu và hành thể “Phượng Thư” Bản dịch: Tập Nhân (S) vừa nói (V1) vừa ứa<br />
xuất hiện hai lần. nước mắt (V2) , nhưng lại sợ(V3) Bảo Ngọc buồn,<br />
nên phải cố nén đi (V4).<br />
Giả sử dịch câu thành:<br />
Trong đoạn văn trên, hành thể của tiếng Trung<br />
“Phượng Thư biết Chu thị xưa nay không hay chỉ có một “袭人 (Tập Nhân)” xuất hiện ở câu<br />
cậy thần cậy thế mấy, liền nhận lời, nghĩ ngợi một trước, câu phía sau gồm bốn đoạn đều không sử<br />
lúc, sang trình Vương phu nhân:”. (Dịch thẳng) dụng hành thể, nhưng khi dịch sang tiếng Việt, hai<br />
câu liên tiếp đều sử dụng chủ thể là “Tập Nhân”.<br />
Hai cách dịch trên có sự khác biệt lớn: Câu Như vậy, hành thể của câu tiếng Trung có độ bao<br />
dịch thẳng tuy giữ được nguyên kết cấu theo câu trùm rộng hơn so với câu tiếng Việt.<br />
tiếng Trung nhưng ý nghĩa chưa được rõ ràng như<br />
trong bản dịch. Về mặt hình thức, liên kết trong (16) Câu trước: “凤姐儿说道:……尤氏笑<br />
câu dịch thẳng kém chặt chẽ hơn so với bản dịch. 道.”(Dịch: “Phượng Thư nói:...Vưu Thị nói...”)<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 75<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
Câu chính: “于是说说笑笑 (V1),点的戏都 câu tăng, chiếm 16,13% câu năm đoạn. Câu năm<br />
唱完 (V2)了,方才撤下(V3)酒席,摆上 (V4) đoạn cũng có hai trường hợp tăng hành thể: Một<br />
饭来。 là, sau khi dịch tăng lên thành một, gồm 6 câu,<br />
chiếm 1,37% câu tăng, hai là sau khi dịch tăng lên<br />
Bản dịch: Mọi người (S) cười cười nói nói thành hai, trường hợp này có 9 câu, chiếm 2,05%<br />
(V1), nghe hát (V2) xong, dọn (V3) tiệc rượu đi câu tăng, chiếm 9,68% câu năm đoạn. Từ đó cho<br />
bưng cơm (V4) lên. thấy, tính phân cắt câu tỷ lệ thuận với đoạn, hay<br />
nói cách khác, câu càng nhiều đoạn càng dễ xảy<br />
Câu (15) và (16) đều tương tự như câu (14). ra hiện tượng cắt câu và tăng lên thành hai hành<br />
Tuy nhiên, với câu bốn đoạn còn có hiện tượng khi thể. Ví dụ:<br />
trong câu tiếng Trung đã có sẵn một hành thể, sau<br />
khi dịch tăng lên thành hai hành thể. Ví dụ: (19) 倪二 (S) 听见(V1)是熟人的语音,将醉<br />
眼睁开看 (V2) 时,见 (V3)是贾芸,忙把手松<br />
(17) “凤姐 (S) 便一扬 (V1) 手,照 (V2) 脸一 (V4)了,趔趄着笑道 (V5):<br />
下,把那小孩子打 (V3)了一个筋斗,骂道 (V4):<br />
Bản dịch: Nghê Nhị (S1) nghe (V1) tiếng quen<br />
Bản dịch: Phượng Thư (S1) giơ tay (V1) tát quen, trừng mắt nhìn (V2), biết (V3) là Giả Vân,<br />
(V2) nó một cái, làm (V3) thằng bé ngã lộn nhào, vội buông tay (V3) ra. Hắn (S2) đi lảo đảo (V4),<br />
Phượng Thư (S2) mắng (V4)” cười nói (V5):<br />
<br />
Trong câu (17), tiếng Trung đã có sẵn một (20) 宝钗 (S) 只顾看 (V1) 着活计,便不留<br />
hành thể là “凤姐” và bao trùm bốn đoạn, nhưng 心一蹲身 (V2),刚刚的也坐 (V3) 在袭人方才<br />
khi dịch sang tiếng Việt thì hành thể này được lặp 坐的所在,因又见 (V4) 那活计实在可爱,不<br />
lại, đứng trước đoạn thứ tư, vì vậy, câu có hai chủ 由得拿起 (V5) 针来替她代刺。<br />
thể “Phượng Thư”.<br />
Bản dịch: Bảo Thoa (S1) chỉ chăm chú nhìn<br />
(18) 薛蟠 (S)见 (V1) 英莲生得不俗,立意 (V1) cái bức thêu nên không để ý, ngồi (V2) luôn<br />
买 (V2) 了,又遇 (V3) 冯家来夺人,因恃强喝 xuống đó. Vì cũng thích (V3) bức thêu, Bảo Thoa<br />
令手下豪奴将冯渊打 (V4) 死。 (S2) liền lấy (V4) ngay kim thêu (V5) tiếp.<br />
<br />
Câu dịch: Tiết Bàn (S) trông thấy (V1) Anh Trong câu (19) và (20), hành thể chỉ xuất hiện<br />
Liên có nhan sắc, liền mua ngay (V2), ngờ đâu lại một lần trong câu tiếng Trung và bao trùm trên cả<br />
bị (V) họ Phùng đến đòi về. Cậy (V3) có thế lực, năm đoạn, nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt<br />
hắn thét (V4) người nhà đánh chết Phùng Uyên đã cắt thành hai câu, bởi vì thông thường một hành<br />
thể không thể bao trùm hết được. Vì vậy, nó phải<br />
Cũng giống như câu ba đoạn, khi bản dịch xuất hiện hai lần.<br />
thêm vào hành thể thì thường hoặc cắt thành hai<br />
câu hoặc tăng thành hai hành thể, điều này giúp Từ kết quả thống kê cho thấy, số lượng tăng<br />
liên kết trong câu chặt chẽ hơn, nghĩa trong câu rõ hành thể trong câu đa đoạn (80,59%) chiếm lượng<br />
ràng hơn. lớn hơn so với câu đơn đoạn (19,41%), đồng thời<br />
tính phân cắt câu thể hiện rõ nét và tỷ lệ thuận với<br />
3.4. Tăng hành thể trong câu năm đoạn số đoạn của câu. Tỷ lệ phân cắt của câu ba đoạn<br />
là 0,6%, bốn đoạn là 4,17%, năm đoạn là 9,69%.<br />
Câu năm đoạn là câu có năm đoạn trần thuật Với câu tiếng Trung, cho dù là câu năm đoạn vẫn<br />
hành vi, hành động. Trong 40 hồi đầu tiên có 93 không cần hành thể hoặc chỉ cần một là có thể bao<br />
câu năm đoạn tiếng Trung, trong đó có 15 câu khi trùm lên toàn bộ cả câu. Ngược lại với tiếng Việt,<br />
dịch sang tiếng Việt tăng hành thể, chiếm 3,42% khi câu có độ dài lên đến ba đoạn thì rất dễ có hiện<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
76 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
<br />
tượng phân cắt để thành hai câu và hành thể phải Bản dịch dùng một câu với một chủ ngữ duy<br />
xuất hiện hai lần. Từ đó cho thấy, hành thể trong nhất là “四张苍白的脸”để dịch lại hai câu tiếng<br />
câu tiếng Trung có độ bao trùm lớn hơn câu tiếng Việt, từ đó cho thấy hiện tượng câu tiếng Việt dịch<br />
Việt, nói cách khác, câu tiếng Việt có tính phân cắt sang tiếng Trung đã lược chủ ngữ.<br />
mạnh hơn tiếng Trung.<br />
(22) Bản gốc: “Kinh hoàng, tôi (S) lao đầu<br />
Thực tế chứng minh, câu tiếng Việt cắt câu và chạy (V), có nhẽ khi ấy tôi (S) đã phát rồ (V).”<br />
thêm hành thể như vậy nhằm mục đích tăng tính Bản dịch: 我 (S) 发疯 (V) 似的叫喊着,奔跑<br />
liên kết giữa các đoạn và các câu với nhau, nói 着(V),慌慌张张地寻找着(V)。<br />
cách khác là việc tăng này giúp tính liên kết giữa<br />
các câu và đoạn được chặt chẽ hơn. Với câu (22), tiếng Việt có ba đoạn với ba động<br />
ngữ khác nhau, đầu tiên là “kinh hoàng” “lao đầu<br />
Tăng hành thể và cắt câu như vậy nhằm liên chạy” và cho rằng khi đó mình đã “phát rồ”. Trong<br />
kết nội dung chặt chẽ hơn, “liên kết nội dung của câu có đến hai chủ ngữ “tôi” được sử dụng, nhưng<br />
văn bản không chỉ giới hạn trong phạm vi giữa khi dịch sang tiếng Trung chỉ dùng một chủ ngữ “<br />
các phát ngôn mà nó còn thể hiện ở mọi cấp độ 我” có thể bao trùm toàn bộ ba đoạn câu.<br />
có nghĩa khác (giữa các đoạn văn, giữa các vế của<br />
phát ngôn, giữa các từ...)”. (Trần Ngọc Thêm,1999, (23) Bản gốc: “Anh (S) lẫn (V) chị với hết<br />
tr. 238) người này sang người nọ, cả những người chết với<br />
những hồn ma. Và anh (S) chẳng biết gì (V) cái sự<br />
Khi thêm vào hành thể và phân cắt câu như tình rằng chị là đàn bà.”<br />
vậy, giúp câu tiếng Việt trở nên hoàn chỉnh hơn về<br />
kết cấu, dễ hiểu hơn về mặt ý nghĩa và có thể trở Bản dịch: “阿坚 (S) 常常会把她误认为 (V1)<br />
thành “câu tự nghĩa”. “Câu tự nghĩa là loại phát 某个其他的人,有时候觉得 (V) 她是张三,有<br />
ngôn hoàn chỉnh nhất, nó tập trung trong mình sự 时候觉得 (V) 她是李四,甚至有时候把她当做<br />
hoàn chỉnh về cả ba mặt: hình thức, cấu trúc và nội (V) 某个死去的人或某个鬼鬼。”<br />
dung...Nó có thể đứng một mình mà không cần<br />
Câu (23) cho thấy, trong tiếng Việt có hai câu<br />
sự hỗ trợ của phát ngôn nào”. (Trần Ngọc Thêm,<br />
liên tiếp và chủ ngữ đều là “anh” (Kiên), khi dịch<br />
1999, tr.84).<br />
sang tiếng Trung chỉ dùng một câu với chủ ngữ là<br />
Cùng với việc thống kê lượng câu tăng hành “阿坚” để gộp toàn bộ nội dung đó.<br />
thể khi dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt, chúng<br />
Hai là, dùng một câu tiếng Trung để gộp lại từ<br />
tôi đã tiến hành thử khảo sát lấy ví dụ ngược lại với<br />
hai hoặc ba câu tiếng Việt, số lượng chủ ngữ của<br />
tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và<br />
câu tiếng Trung ít hơn câu tiếng Việt. Ví dụ:<br />
bản dịch tương ứng của dịch giả Hạ Lộ. Chúng tôi<br />
thấy có hai hiện tượng như sau: (24) Bản gốc: “Mặt chúng (S1) rắn lại. Lòng<br />
căm thù bóp méo nhân dạng. Câm nín, chúng (S2)<br />
Một là, với hai câu tiếng Việt liền nhau được nghiến răng”.<br />
dùng hai chủ ngữ nhưng khi dịch sang tiếng Trung<br />
có thể dùng một chủ ngữ và gộp thành một câu, Bản dịch: 他们脸上的表情(S) 变得僵硬,心<br />
ví dụ: 里充满着某种仇恨,但全都紧咬牙关,默默地<br />
忍耐。<br />
(21) Bản gốc: “Bốn bộ mặt (S) tái ngoét vụt<br />
ngửng lên (V). Bốn cái nhìn (S) trân trân ngây cứng.” Câu (24) tiếng Trung chỉ dùng một chủ ngữ để<br />
bao trùm toàn bộ nội dung câu, trong khi đó tiếng<br />
Bản dịch: “四张苍白的脸 (S) 仰了起来(V), Việt cắt thành ba câu khác nhau và chủ ngữ phải<br />
露出 (V) 恐惧和紧张的神色”。 xuất hiện hai lần.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 77<br />
v TRAO ĐỔI<br />
<br />
<br />
Ba là, câu tiếng Trung và Việt có số lượng chủ tỷ lệ tăng là 19,41%, câu đa đoạn có tỷ lệ tăng là<br />
ngữ bằng nhau nhưng một câu tiếng Trung có thể 80,59%. Từ kết quả thống kê đó, chúng tôi thấy<br />
gộp được từ hai đến ba câu tiếng Việt. Ví dụ: được rằng:<br />
<br />
(25) Bản gốc: “Còn Tạo “voi”(S1) lại đặc biệt Đối với câu đơn đoạn, tỷ lệ tăng hành thể xuất<br />
hay mơ sự ăn uống. Không chỉ mơ được ăn no, hiện ít chứng tỏ sự tương đồng giữa câu tiếng Việt<br />
Tạo (S2) còn vẽ ra trong đầu những mâm cỗ ăm ắp và câu tiếng Trung; câu đa đoạn có tỷ lệ tăng hành<br />
các món ăn béo bở do tâm thần mộng mị của hắn thể nhiều cho thấy sự khác biệt giữa câu tiếng<br />
bịa tạc nên.” Việt và câu tiếng Trung. Vị trí của các hành thể<br />
này tương ứng với vị trí của chủ ngữ trong câu<br />
Bản dịch: “大象”阿造(S1) 呢,在魔玫瑰的 tiếng Việt. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học Việt<br />
刺激下,总是特别惦记(V)食物,他 (S2) 可不 Nam đều cho rằng chủ ngữ là bộ phận nòng cốt<br />
光想吃饱,还常常幻想出 (V) 在一张长长的餐 của câu. Theo Martinet “chủ ngữ là người bạn<br />
桌上摆满各种精美诱人的菜肴的情形。 đường thường xuyên của vị ngữ” (Dẫn theo Lê<br />
(26) Bản gốc: “Tên ngụy (S1) thở dài (V). Hắn Xuân Thại,1994, tr.63); “chủ ngữ là một trong hai<br />
(S2) uốn éo (V) cặp vai, nhìn (V) Kiên thiết tha, thành phần chính của mệnh đề (câu)...là thành tố<br />
rồi thấp giọng(V) xuống”. hạt nhân của thành phần câu” (Jarsheva Ed,1990,<br />
tr.379). Nguyễn Minh Thuyết (1998, tr.121) cho<br />
Bản dịch: 那个伪军 (S1) 长长地叹(V)了一口 rằng “chủ ngữ là thành tố bắt buộc, không thể bị<br />
气,他 (S2) 耸了耸肩 (V),恳求地看着(V) 阿 lược bỏ mà không ảnh hưởng tới tính trọn vẹn của<br />
坚,然后低声说(V): câu”. Do đó, hành thể trong câu tiếng Việt có tính<br />
chất cần thiết hơn so với trong câu tiếng Trung.<br />
(27) Bản gốc: Kiên (S) trở lên phòng. Tắm táp,<br />
thay quần áo, nhưng không dám xuống. Trong 40 hồi đầu tiên, có 0,75% câu đa đoạn<br />
sau khi dịch sang tiếng Việt bị cắt thành hai hoặc<br />
Bản dịch: 阿坚 (S) 回家洗了澡,换了衣 ba câu tiếng Việt, đồng thời tỷ lệ phân cắt này tăng<br />
服,却不敢再下去了。 cao khi số đoạn của câu tăng lên. Việc tăng hành<br />
thể giúp câu liên kết chặt chẽ hơn, ý nghĩa rõ ràng<br />
Trong câu (25), (26) và (27) số lượng chủ và dễ hiểu hơn. Chúng tôi cho rằng, hành thể trong<br />
ngữ của câu tiếng Trung và tiếng Việt bằng nhau, câu tiếng Trung có tính bao trùm hơn câu tiếng<br />
nhưng có thể dùng một câu tiếng Trung để gộp lại Việt. Ngược lại, với mỗi câu tiếng Việt thường đòi<br />
hai câu tiếng Việt đến ba câu tiếng Việt. hỏi phải có “chủ thể” để đảm bảo “tính trọn vẹn<br />
Từ những ví dụ trên cho thấy, chủ ngữ trong của câu”. Với những câu ba đoạn trở lên, tiếng<br />
câu tiếng Trung có độ bao trùm rộng, lớn hơn Việt thường cắt thành hai câu và tăng thêm hành<br />
chủ ngữ trong câu tiếng Việt. Câu tiếng Việt có thể để đảm bảo tính liên kết chặt chẽ và rõ nghĩa<br />
tính phân cắt mạnh hơn câu tiếng Trung, hoặc nói hơn trong câu. Từ đó cho thấy tính phân cắt của<br />
ngược lại, câu tiếng Trung có độ tổng hợp hơn câu câu tiếng Việt mạnh hơn câu tiếng Trung.<br />
tiếng Việt.<br />
Ngoài ra, cách dịch tăng hành thể này cũng<br />
4. KẾT LUẬN nhằm mục đích phù hợp với văn hóa giao tiếp<br />
của người Việt Nam, đặc biệt thể hiện qua các<br />
Qua thống kê chúng tôi thấy, tăng hành thể tỷ câu đối thoại. Khi người trẻ nói chuyện với người<br />
lệ thuận với số đoạn. Tỷ lệ tăng hành thể trong câu lớn tuổi hơn hoặc người có địa vị thấp nói chuyện<br />
đơn đoạn là 3,44% tổng số câu đơn đoạn; câu đa với những người có địa vị cao hơn thì việc “xưng<br />
đoạn là 10,99% tổng số câu đa đoạn. Xét từ tổng khiêm hô tôn” thể hiện thái độ tôn trọng và lịch sự<br />
số câu tăng hành thể cho thấy, câu đơn đoạn có với đối tượng giao tiếp./.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
78 Số 21 (9/2019)<br />
TRAO ĐỔI v<br />
<br />
<br />
Chú thích:<br />
1. Cú đoạn là một trong những khái niệm lý luận của phái văn hóa ngôn ngữ học. Cú đoạn là đơn vị cơ bản cấu<br />
tạo nên câu tiếng Trung, nó được đánh dấu bằng sự ngắt đoạn, mỗi cú đoạncó chức năng diễn đạt riêng (ví dụ: chức<br />
năng diễn đạt chủ đề, chức năng bình luận, chức năng diễn đạt hành thể, chức năng diễn đạt động ngữ) và chức năng<br />
cú pháp, ngữ nghĩa.” (Hạ Trinh Nông, 2003, trong 大辞海, Nxb上海辞书, tr. 123)<br />
<br />
Tài liệu tham khảo:<br />
Diệp Quang Ban. (2009). Ngữ pháp Việt Nam. Hà Nội: Nxb giáo dục Việt Nam.<br />
Cao Xuân Hạo. (1991). Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.<br />
Vũ Bội Hoàng và nhóm dịch. (2015). Hồng Lâu Mộng. Hà Nội: Nxb Văn học.<br />
Nguyễn Quang Hồng. (2018). Ngôn Ngữ Văn Tự Ngữ Văn. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.<br />
Trần Trọng Kim. (1940). Việt Nam văn phạm. Hà Nội: Lê Thăng xuất bản.<br />
Trịnh Sâm. (2018). Đi tìm bản sắc tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Trẻ.<br />
Lê Xuân Thại. (1994). Câu Chủ - Vị tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.<br />
Trần Ngọc Thêm. (1999). Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Giáo dục.<br />
Trần Ngọc Thêm. (2000). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội: Nxb Giáo dục.<br />
Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp. (1998). Thành phần câu tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.<br />
Phạm Văn Tình. (2002). Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc tỉnh lược trong tiếng Việt. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.<br />
申小龙. (1998).中国句型文化,东北师范大学出版社,长春。<br />
王李霞. (2004).《红楼梦》施事句研究,复旦大学,上海。<br />
王懿. (2016).汉语施事句研究,复旦大学,上海。<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
THE ADDING OF THE ACTOR TO THE ACTION SENTENCES<br />
IN THE VIETNAMESE TRANSLATION OF THE NOVEL<br />
“DREAM OF THE RED MANSIONS”<br />
NGUYEN THI LUYEN, PHAN THANH HOANG<br />
Abstract: The actor is a minor part of the Chinese action sentence, usually before the verb.<br />
The article uses Than Tieu Long's method of analyzing the sentence of “Chinese Sentence Style<br />
Culture” to explore the novel “Dream of the Red Mansions” and its Vietnamese translation<br />
equivalent by translator Vu Boi Hoang and his partners. The research results demonstrate that<br />
19.41 % of the Chinese simple sentences and 80.59 % of the Chinese compound ones translated<br />
into Vietnamese are added an actor to. Out of the collected Chinese compound sentences, 0.75%<br />
are split into two or three sentences.The addition of an actor to the sentences helps link the<br />
sentences more tightly, make their meaning clearer and make it easier to understand and suitable<br />
to the communication culture of Vietnamese people. The article hopes to explain the actor-added<br />
process and provide suggestions for translating the ‘extra’ actor in the Vietnamese sentences.<br />
Keywords: actor, dream of the red mansions, language culture, cleavage<br />
Received: 28/7/2019; Revised: 27/8/2019; Accepted: 30/8/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 21 (9/2019) 79<br />