intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tập bài giảng Tài chính tiền tệ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:208

36
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tập bài giảng Tài chính tiền tệ gồm có 7 chương với những nội dung cụ thể như sau: Chương 1: đại cương về tài chính tiền tệ; chương 2: ngân sách nhà nước; chương 3: tài chính doanh nghiệp; chương 4: thị trường tài chính; chương 5: các tổ chức tài chính trung gian; chương 6: ngân hàng trung ương; chương 7: tài chính quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tập bài giảng Tài chính tiền tệ

  1. CHƢƠNG 1: ĐẠI CƢƠNG VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1. TIỀN TỆ 1.1. Sự ra đời của tiền tệ Từ rất sớm trong lịch sử loài ngƣời đã xuất hiện nhu cầu phải có một hình thức tiền tệ làm trung gian trao đổi. Khi nền sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, giá trị hàng hóa mới đƣợc biểu hiện bằng tiền – tức là có sự ra đời của tiền tệ. Nhƣ vậy có thể thấy, quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa dẫn đến sự xuất hiện những vật ngang giá chung là những hàng hóa có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hóa thông thƣờng khác. Do vậy, tiền tệ là sản phẩm của quan hệ trao đổi hàng hóa. 1.2. Khái niệm và bản chất của tiền tệ 1.2.1. Khái niệm tiền tệ Tiền là bất cứ thứ gì đƣợc chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hoá, dịch vụ hoặc để hoàn trả các khoản nợ. Khái niệm này chỉ đƣa ra các tiêu chí để nhận biết một vật có phải là tiền tệ hay không. Tuy nhiên nó chƣa giải thích đƣợc tại sao vật đó lại đƣợc chọn làm tiền tệ. Để giải thích đƣợc điều này phải tìm hiểu bản chất của tiền tệ. 1.2.2. Bản chất của tiền tệ Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ, là phƣơng tiện giúp cho quá trình trao đổi đƣợc thực hiện dễ dàng hơn. Bản chất của tiền tệ đƣợc thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính sau của nó: - Giá trị sử dụng của tiền tệ: là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Nhƣ vậy ngƣời ta sẽ chỉ cần nắm giữ tiền khi có nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội qui định: đến khi nào xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt vai trò tiền tệ (tức là vai trò vật trung gian môi giới trong trao đổi) thì khi đó giá trị sử dụng của nó với tƣ cách là tiền tệ còn tồn tại. Đây chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng nhƣ biến mất của các dạng tiền tệ trong lịch sử. - Giá trị của tiền tệ: đƣợc thể hiện qua khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng đổi đƣợc nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi. Tuy nhiên khái niệm sức mua tiền tệ không đƣợc xem xét dƣới góc độ sức mua đối với từng hàng hoá nhất định mà xét trên phƣơng diện toàn thể các hàng hoá trên thị trƣờng. 1
  2. 1.2.3. Các hình thái của tiền tệ Nghiên cứu lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái: hoá tệ, tín tệ và tiền tín dụng... 1.2.3.1. Hoá tệ (Tiền tệ hàng hóa) Đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ. Đặc điểm chung của loại tiền tệ này là: - Hàng hóa dùng làm trung gian trong trao đổi phải có giá trị thực sự. - Giá trị của vật trung gian trao đổi này phải ngang bằng với giá trị của hàng hóa đem ra trao đổi, tức là trao đổi ngang giá một hàng hóa thông thƣờng lấy hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Hóa tệ xuất hiện lần lƣợt dƣới 2 dạng: a. Hoá tệ phi kim loại Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn ngẫu nhiên, không còn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vƣợt khỏi cái khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phƣơng. Sự trao đổi ngày càng nhiều hơn đó giữa các hàng hoá đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi, và bảo tồn giá trị. Những hình thái tiền tệ đầu tiên có vẻ lạ lùng, nhƣng nói chung là những vật trang sức hay những vật có thể ăn. Thổ dân ở các bờ biển Châu Á, Châu Phi, trƣớc đây đã dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền. Lúa mì và đại mạch đƣợc sử dụng ở vùng Lƣỡng Hà, gạo đƣợc dùng ở quần đảo Philippines. Trƣớc Công nguyên, ở Trung Quốc kê và lụa đƣợc sử dụng làm tiền… Hóa tệ phi kim loại có nhƣợc điểm là: - Tính chất không đồng nhất. - Dễ hƣ hỏng, khó bảo quản và vận chuyển. - Khó phân chia hay gộp lại. - Chỉ đƣợc công nhận trong từng khu vực, từng địa phƣơng. Vì những nhƣợc điểm đó mà hóa tệ phi kim loại dần biến mất và thay vào đó là hóa tệ kim loại. b. Hoá tệ bằng kim loại Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển kèm theo sự mở rộng phân công lao động xã hội đồng thời với sự xuất thiện của Nhà nƣớc và giao dịch quốc tế thƣờng xuyên. Kim loại ngày càng có những ƣu điểm nổi bật trong vai trò của vật ngang giá bởi những thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến,… Những đồng tiền bằng kim loại: đồng, chì, kẽm, thiếc, bạc, vàng xuất hiện thay thế cho các hoá tệ không kim loại. Tiền bằng chì chỉ xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dƣới dạng một thỏi dài có lỗ ở một đầu 2
  3. để có thể xâu thành chuỗi. Tiền bằng hợp kim vàng và bạc xuất hiện đầu tiên vào những năm 685 – 652 trƣớc Công nguyên ở vùng Tiểu Á và Hy Lạp có đóng dấu in hình nổi để đảm bảo giá trị. Các đồng tiền bằng kim loại đã sớm xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải. Tiền kim loại đầu tiên ở Anh làm bằng thiếc, ở Thuỵ Sĩ và Nga bằng đồng. Khi bạch kim mới đƣợc phát hiện, trong thời kỳ 1828 – 1844, ngƣời Nga cho đó là kim loại không sử dụng đƣợc nên đem đúc tiền. Nếu so với các loại tiền tệ trƣớc đó, tiền bằng kim loại, bên cạnh những ƣu điểm nhất định cũng đƣa đến những bất tiện trong quá trình phát triển trao đổi nhƣ: cồng kềnh, khó cất giữ, khó chuyên chở… Cuối cùng, trong các kim loại quý ( quí kim) nhƣ vàng, bạc, những thứ tiền thật sự chúng có giá trị nội tại trở nên thông dụng trong một thời gian khá lâu cho đến cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX. Khoảng thế kỷ thứ XVI ở Châu Âu nhiều nƣớc sử dụng vàng làm tiền, có nƣớc vừa sử dụng vàng vừa sử dụng bạc. Các nƣớc Châu Á sử dụng bạc là phổ biến. Việc đúc quý kim thành tiền ngay từ đầu đƣợc coi là vƣơng quyền, đánh dấu kỷ nguyên ngự trị của lãnh chúa vua chúa. Lịch sử phát triển của tiền kim loại quý đã trải qua ba biến cố chủ yếu, quyết định đến việc sử dụng phổ biến tiền bằng kim loại quý. - Sự gia tăng dân số và phát triển đô thị ở các nƣớc Châu Âu từ thế kỷ XIII đƣa đến sự gia tăng nhu cầu trao đổi. Các mỏ vàng ở Châu Âu không đủ cung ứng. - Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bạch kim loại bị mất giá, trong thời gian dài vàng, bạc song song đƣợc sử dụng làm tiền; các nƣớc Châu Âu sử dụng cả vàng lẫn bạc. Chỉ các nƣớc Châu Á mới sử dụng bạc (do không đủ vàng) đến cuối thế kỷ XIX bạc ngày càng mất giádo vậy các nƣớc Châu Âu và cả Hoa Kỳ quyết định và sử dụng vàng, các nƣớc Chấu Á nhƣ Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa do lệ thuộc sự nhập cảng nguyên liệu máy móc… từ Phƣơng Tây nên cũng bãi bỏ bạc sử dụng vàng. Ở Đông Dƣơng, bạc đƣợc sử dụng làm tiền từ 1885 đến 1931. Đến năm 1931 đồng bạc Đông Dƣơng từ bản vị bạc sang bản vị vàng, có thể cho rằng, khoảng từ 1935 chỉ còn một kim loại quý đƣợc tất cả các nƣớc chấp nhận làm tiền trên thế giới là vàng. Các kim loại có nhiều ƣu điểm hơn so với các hàng hóa khác khi sử dụng làm tiền tệ nhƣ: - Chất lƣợng, trọng lƣợng có thể xác định chính xác. - Dễ chia nhỏ. - Giá trị tƣơng đối ít biến đổi. - Có tính bền hơn. Tuy có những đặc điểm thích hợp cho việc sử dụng làm tiền tệ nhƣ vậy nhƣng tiền vàng vẫn không thể đáp ứng đƣợc nhu cầu trao đổi của xã hộ khi nền sản xuất và 3
  4. trao đổi hàng hóa phát triển đến mức cao. Một số lý do sau đây đã khiến cho việc tiền vàng không thực hiện đƣợc chức năng tiền tệ nữa: - Quy mô và trình độ sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, khối lƣợng hàng hóa trao đổi ngày càng tăng và đa dạng. Trong khi đó, lƣợng vàng sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu về phƣơng tiện trao đổi của nền kinh tế. - Giá trị tƣơng đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên do năng suất lao động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành sản xuất hàng hóa khác. Điều này dẫn đến giá trị của vàng trở nên quá lớn, không thể đáp ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lƣợng giá trị trao đổi mỗi lần nhỏ nhƣ mua bán dịch vụ hoặc hàng hóa tiêu dùng... - Ngƣợc lại, trong những giao dịch có giá trị lớn thì vàng lại trở nên cồng kềnh. - Việc sử dụng tiền tệ hàng hóa bị các nhà kinh tế xem là sự lãng phí nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Để dùng một loại tiền tệ làm hàng hóa, xã hội sẽ phải cắt giảm các công dụng khác của hàng hóa đó hoặc dùng các nguồn lực khan hiếm để sản xuất bổ sung. Với việc dùng vàng làm tiền tệ, con ngƣời đã phải giảm bớt các nhu cầu dùng vàng làm đồ trang sức hoặc trong các ngành có sử dụng vàng làm nguyên liệu vì xã hội phải dành một phần lớn số lƣợng vàng hiện có làm tiền tệ. Với những lý do nhƣ vậy, xã hội phải đi tìm một dạng tiền tệ mới phù hợp hơn. 1.2.3.2. Tín tệ Tín tệ đƣợc hiểu là thứ tiền tự nó không có giá trị nhƣng do sự tín nhiệm của mọi ngƣời mà nó đƣợc lƣu dụng. Tín tệ có thể bao gồm tiền bằng kim loại và tiền giấy. - Tiền kim loại là tiền đƣợc đúc bằng kim loại nhƣng hoàn toàn khác với hóa tệ kim loại do giá trị danh nghĩa mà nó đại diện (giá trị trao đổi) khác xa so với giá trị đích thực của lƣợng kim loại đúc ra nó. - Tiền giấy là những tờ giấy bạc do Ngân hàng phát hành. Tiền giấy bao gồm 2 loại: + Tiền giấy khả hoán: là loại tiền giấy đƣợc ấn định theo tiêu chuẩn giá cả bằng vàng và nó có thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo hàm lƣợng đã đƣợc nhà nƣớc công bố. Nhƣ vậy, tiền giấy khả hoán là tiền giấy đƣợc đảm bảo bằng vàng. + Tiền giấy bất khả hoán (tiền dấu hiệu): là tiền giấy đƣợc ấn định theo tiêu chuẩn giá cả pháp luật bắt buộc lƣu hành và không thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng. Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền đồng vào cho Nhà nƣớc, cứ 1 quan tiền đồng đổi đƣợc 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ, dân chƣa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền đồng và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn). Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể đƣợc hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các 4
  5. nƣớc Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gửi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho ngƣời khác các giấy nhỏ này cũng đƣợc chấp nhận. Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy đƣợc phát hành, lƣu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các nƣớc phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xƣa là vƣơng quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vƣơng quyền các nƣớc Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định: + Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy vàng hay bạc bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành. + Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: ban đầu là 100% sau còn 40%. + Điều kiện phải cho Nhà nƣớc vay không tính lãi khi cần thiết. Tiền giấy bất khả hoán là thứ tiền giấy bắt buộc lƣu hành, mọi ngƣời không thể đem tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Nguồn gốc của tiền bất khả hoán là bởi những nguyên nhân sau: + Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nƣớc Anh từ năm 1931 đã cƣỡng bức lƣu hành tiền giấy bất khả hoán, nƣớc Pháp năm 1936. + Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 dẫn đến ở nƣớc Đức mọi ngƣời đua nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ƣơng Đức đã phải dùng vàng trả nợ nƣớc ngoài và do đó số dự trữ vàng gần nhƣ không còn. Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chƣơng trình kinh tế, xã hội lớn. Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934). Từ đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng nhƣ các quan điểm trƣớc đây. Ngày nay, tiền giấy chủ yếu là tiền dấu hiệu. Việc xã hội chấp nhận sử dụng tiền giấy mặc dù giá trị thực của nó thấp hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện vì tiền giấy đƣợc quy định trong luật là phƣơng tiện trao đổi, vì mọi ngƣời tin tƣởng vào uy tín của cơ quan phát hành ra chúng là ngân hàng trung ƣơng, và vì việc sử dụng tiền giấy là tiện lợi. Những ƣu điểm của việc sử dụng tiền giấy có thể thấy là: - Sử dụng tiền giấy giúp cho con ngƣời có thể dễ dàng cất trữ và vận chuyển. - Tiền giấy có đủ các mệnh giá từ lớn đế nhỏ phù hợp với các quy mô giao dịch. 5
  6. - Về phía Chính phủ, ƣu điểm của tiền giấy là việc in tiền giấy tốn chi phí nhỏ hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện và có thể phát hành không phụ thuộc vào số lƣợng các hàng hóa dùng làm tiền tệ trƣớc đây. Tuy nhiên, tiền giấy cũng có một số nhƣợc điểm nhƣ: - Dễ rách, không bền. - Chi phí lƣu thông vẫn còn lớn. - Khi trao đổi hàng hóa diễn ra trên phạm vi rộng (giữa các quốc gia...), đòi hỏi tốc độ thanh toán nhanh và an toàn thì tiền giấy vẫn trở nên cồng kềnh, không an toàn. - Dễ bị làm giả, dễ rơi vào tình trạng bất ổn (do không có giá trị nội tại và không thể tự điều tiết đƣợc số lƣợng tiền giấy trong lƣu thông nhƣ tiền vàng). 1.2.3.3. Tiền tín dụng (Tiền ngân hàng, Tiền ghi sổ) Bên cạnh tiền giấy, do sự phát triển của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, một hình thái tiền tệ mới xuất hiện dựa trên hoạt động của các tổ chức đó là tiền tín dụng. Tiền tín dụng là tiền nằm trong các tài khoản mở ở ngân hàng và đƣợc hình thành trên cơ sở các khoản tiền gửi không kỳ hạn vào ngân hàng. Tiền tín dụng thực chất là cam kết của ngân hàng cho phép ngƣời sở hữu tài khoản tiền gửi đƣợc rút ra một lƣợng tiền giấy bằng đúng số dƣ có ghi trong tài khoản. Trong các hoạt động thanh toán bằng tiền tín dụng thì phải thông qua hệ thống ngân hàng làm trung gian, do vậy tiền tín dụng còn có tên gọi khác là tiền ngân hàng. Tiền tín dụng chỉ là những con số ghi trên tài khoản tại ngân hàng nên có thể nói, tiền tín dụng là đồng tiền phi vật chất (không có hình thái vật chất) và nó cũng là loại tiền mang dấu hiệu giá trị nhƣ tiền giấy. Để sử dụng tiền tín dụng, có nhiều công cụ thanh toán khác nhau mà ngân hàng sẽ cung cấp nhƣ: séc, thƣ chuyển tiền, điện chuyển tiền... Trong đó phổ biến nhất là séc (là một tờ lệnh do ngƣời chủ tài khoản séc phát hành yêu cầu ngân hàng thanh toán từ tài khoản của mình cho ngƣời thụ hƣởng đƣợc chỉ định trong tờ séc). Việc sử dụng séc trong thanh toán có ƣu điểm: - Tiết kiệm chi phí giao dịch: giảm bớt việc chuyển tiền thực giữa các ngân hàng. - Tốc độ thanh toán cao và an toàn. - Tiện cho việc thanh toán vì có thể viết ra với bất kỳ lƣợng tiền nào và do đó làm cho việc thanh toán những khoản tiền lớn đƣợc thực hiện dễ dàng hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng séc cũng có những hạn chế nhất định: - Thanh toàn bằng séc đòi hỏi một khoảng thời gian cần thiết để kiểm tra tính hợp lệ của séc. - Thanh toán bằng séc đòi hỏi phải xử lý các chứng từ thanh toán và chi phí cho hoạt động này ngày càng tăng gây ra sự tốn kém đáng kể. 6
  7. Chính vì những hạn chế đó mà để đáp ứng nhu cầu trao đổi, thanh toán trong nền kinh tế ngày nay cần phải có một hình thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn. 1.2.3.4. Tiền điện tử Gần đây, những tiến bộ về công nghệ máy tính cũng nhƣ sự phát triển của mạng lƣới thông tin viễn thông đã cho phép các ngân hàng thay thế phƣơng thức thanh toán truyền thống là sử dụng các chứng từ giấy bằng phƣơng thức thanh toán điện tử. Bằng phƣơng thức mới này, tốc độ chuyển tiền tăng lên rất nhanh, giảm bớt những chi phí về giấy tờ so với lƣu thông tiền mặt và séc. Tiền điện tử là tiền trong các tài khoản ở ngân hàng đƣợc lƣu trữ trong hệ thống máy tính dƣới hình thức điện tử. Nhƣ vậy, tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dƣới hình thức điện tử. Tiền điện tử đƣợc sử dụng trực tiếp trong các giao dịch dƣới các hình thức sau: - Thẻ thanh toán: là các tấm thẻ do ngân hàng hoặc các công ty tài chính phát hành mà nhờ đó ngƣời ta có thể lƣu thông những khoản tiền điện tử. Thẻ thanh toán có một số dạng sau: + Thẻ rút tiền ATM: thẻ ATM đƣợc dùng để rút tiền hoặc chuyển khoản thông qua máy rút tiền tự động ATM. + Thẻ tín dụng: là loại thẻ mà tổ chức phát hành đảm bảo rằng họ sẽ thanh toán cho ngƣời sử dụng thẻ trong hạn mức tín dụng của thẻ. Số tiền này sẽ đƣợc ngƣời sử dụng thẻ thanh toán lại cho tổ chức phát hành sau một thời gian nhất định. Nói cách khác, tổ chức phát hành đã cho ngƣời sử dụng thẻ vay một khoản tiền nhất định nên đƣợc gọi là thẻ tín dụng. Ngƣời sử dụng thẻ tín dụng cũng có thể rút tiền trong hạn mức tín dụng của thẻ. Một số loại thẻ thông dụng nhƣ Master Card, Visa Card, American Express... + Thẻ ghi nợ: hình thức tƣơng tự nhƣ thẻ tín dụng nhƣng thẻ ghi nợ không phải là công cụ để vay tiền mà là công cụ để tiêu tiền trong tài khoản. Khi thanh toán, ngƣời thu tiền sẽ quẹt thẻ qua máy đọc thẻ, sau đó yêu cầu chủ thẻ ký xác nhận vào hóa đơn mua hàng. Sau một số ngày nhất định (thƣờng là 2 ngày), tiền sẽ đƣợc chuyển từ tài khoản của chủ thẻ sang tài khoản ngƣời bán hàng. + Thẻ thông minh: thực chất chính là thẻ ghi nợ nhƣng trên thẻ gắn thêm bộ mạch vi xử lý cho phép lƣu trữ ngay trên thẻ một số lƣợng tiền điện tử. Số lƣợng tiền này có thể nạp từ tài khoản ngân hàng vào thẻ thông qua các máy ATM, máy tính cá nhân hoặc các điện thoại có bộ phận nạp tiền. Ngoài tính năng dùng làm phƣơng tiện thanh toán, loại thẻ này còn có thể dùng nhƣ thẻ điện thoại, thẻ căn cƣớc lƣu trữ các thông tin về ngƣời dùng thẻ... - Tiền mặt điện tử: là một dạng tiền điện tử đƣợc sử dụng để mua sắm hàng hóa, dịch vụ trên Internet. Những ngƣời sử dụng loại tiền này có thể tải tiền từ tài khoản 7
  8. ngân hàng của mình về máy tính cá nhân rồi khi duyệt Web mua sắm có thể chuyển tiền từ máy tính mình sang máy tính ngƣời bán để thanh toán. - Séc điện tử: cho phép những ngƣời sử dụng Internet có thể thanh toán các hóa đơn qua mạng mà không cần phải gửi những tờ séc bằng giấy nhƣ trƣớc. Những ngƣời này có thể viết một tờ séc điện tử trên máy tính rồi gửi cho ngƣời đƣợc thanh toán. Ngƣời này sẽ chuyển tờ séc điện tử tới ngân hàng, sau khi kiểm tra tính hợp lệ của từ séc, ngân hàng sẽ thực hiện chuyển tiền từ tài khoản của ngƣời viết séc sang tài khoản của ngƣời đƣợc thanh toán. Những lợi thế về tiền điện tử nêu trên khiến chúng ta có thể nghĩ rằng nền kinh tế sẽ nhanh chóng tiến tới không dùng tiền giấy hoặc séc. Tuy nhiên, có một số lý do khiến cho điều này khó có thể diễn ra trong tƣơng lai gần: - Việc thiết lập một hệ thống các máy tính, máy đọc thẻ, mạng truyền thông cần thiết cho phƣơng thức thanh toán điện tử là rất tốn kém. - Việc sử dụng các tờ séc bằng giấy có lợi thế là cung cấp các chứng từ xác nhận việc thanh toán trong khi tiền điện tử không có đƣợc điều này. - Việc sử dụng séc bằng giấy để thanh toán luôn mất một khoảng thời gian từ lúc ký séc đến lúc ngƣời nhận séc rút tiền. Chủ tài khoản séc rất thích điều này vì họ vẫn hƣởng lãi trên số tiền đã thanh toán nhƣng chƣa bị trừ khỏi tài khoản. Điều này không xảy ra với tiền điện tử. - Việc sử dụng tiền điện tử gặp phải nguy cơ cao về tính an toàn do các hoạt động ăn trộm qua mạng máy tính. Để đối phó với điều này không phải là việc dễ dàng và mất khá nhiều thời gian. Đây có phải là một hình thái tiền tệ không là vấn đề chƣa thống nhất. Một số quan điểm cho rằng đây chỉ là “phƣơng tiện chi trả mới”, sự “chuyển dịch vốn bằng điện tử”. 1.3. Chức năng của tiền tệ Dù biểu hiện dƣới hình thức nào, tiền tệ cũng có ba chức năng cơ bản: phƣơng tiện trao đổi, thƣớc đo giá trị và phƣơng tiện cất giữ giá trị. 1.3.1. Chức năng phương tiện trao đổi Là một phƣơng tiện trao đổi, tiền tệ đƣợc sử dụng nhƣ một vật môi giới trung gian trong việc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, phản ánh lý do tại sao tiền tệ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa. Việc dùng tiền làm phƣơng tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế thông qua việc bỏ nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, ngƣời ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và mua với một ngƣời khác. Điều đó là đơn giản trong trƣờng hợp chỉ có ít ngƣời 8
  9. tham gia trao đổi, nhƣng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm kiếm nhƣ vậy quá cao. Vì vậy, ngƣời ta cần sử dụng tiền làm môi giới trong quá trình này, tức là ngƣời ta trƣớc hết sẽ đổi hàng hóa của mình lấy tiền, sau đó dùng tiền mua thứ hàng hóa mình cần. Rõ ràng, việc thực hiện lần lƣợt các giao dịch bán và mua với hai ngƣời sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc thực hiện đồng thời hai giao dịch đối với cùng một ngƣời. Để thực hiện chức năng phƣơng tiện trao đổi, tiền có những tiêu chuẩn nhất định: - Đƣợc chấp nhận rộng rãi: nó phải đƣợc con ngƣời chấp nhận rộng rãi trong lƣu thông bởi vì chỉ khi mọi ngƣời cùng chấp nhận nó thì ngƣời có hàng hóa mới đồng ý đổi hàng hóa của mình lấy tiền. - Dễ nhận biết: con ngƣời phải nhận biết nó dễ dàng. - Có thể chia nhỏ đƣợc: để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng hóa có giá trị khác nhau. - Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng hóa ở khoảng cách xa. - Không bị hƣ hỏng một cách nhanh chóng. - Đƣợc tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để số lƣợng đủ dùng trong trao đổi. - Có tính đồng nhất: các đồng tiền cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau. 1.3.2. Chức năng thước đo giá trị Chức năng thứ hai của tiền là thƣớc đo giá trị, tức là tiền đƣợc sử dụng làm đơn vị để đo giá trị của các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của các hàng hóa, dịch vụ đƣợc biểu hiện ra bằng tiền nhờ đó việc trao đổi hàng hóa đƣợc diễn ra thuận lợi hơn. Và biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa đƣợc gọi là giá cả hàng hóa. Nếu giá trị hàng hóa không có đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hóa sẽ đƣợc định giá bằng tất cả các hàng hóa còn lại, và nhƣ vậy, số lƣợng giá các mặt hàng trong nền kinh tế ngày nay sẽ nhiều đến mức ngƣời ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng hàng hóa, do phần lớn thời gian là dành cho việc đọc giá hàng hóa. Khi giá các hàng hóa, dịch vụ đƣợc biểu hiện bằng tiền không những thuận tiện cho ngƣời bán hàng hóa mà việc đọc bảng giá cũng đơn giản hơn nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các giao dịch. Ví dụ, trong trao đổi trực tiếp, có 3 mặt hàng đƣa ra để trao đổi thì ta chỉ cần biết 3 giá để có thể trao đổi các hàng hóa này với nhau. Tƣơng tự, nếu có 10 hàng hóa, chúng ta phải có 45 giá để trao đổi và nếu số lƣợng hàng hóa là 100, chúng ta cần tới 4.950 giá để trao đổi (số lƣợng = N(N-1)/2). Nếu nền kinh tế có tiền tệ làm môi giới, ngƣời ta định giá bằng đơn vị tiền tệ cho tất cả các hàng hóa đen trao đổi trên thị trƣờng, có bao nhiêu hàng hóa đƣa ra trao đổi 9
  10. thì có bấy nhiêu giá cả. Vì vậy, việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá sẽ thuận lợi rất nhiều cho quá trình trao đổi hàng hóa. Là một thƣớc đo giá trị, nó tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng tiền làm phƣơng tiện trao đổi, nhƣng cũng chính trong quá trình trao đổi, sử dụng tiền làm trung gian, các tỷ lệ trao đổi đƣợc hình thành ngay từ khi mới ra đời, việc sử dụng tiền làm phƣơng tiện trao đổi đã dẫn tới việc dùng tiền làm thƣớc đo giá trị. Cơ sở cho việc dùng tiền để biểu hiện giá trị các hàng hóa khác chính là tiền cũng có giá trị sử dụng nhƣ các hàng hóa khác. Vì vậy, trong thời đại ngày nay, mặc dù các phƣơng tiện đƣợc sử dụng là tiền không còn có giá trị nhƣ các hàng hóa khác nhƣng nó đƣợc mọi ngƣời chấp nhận trong lƣu thông (có giá trị sử dụng đặc biệt). 1.3.3. Chức năng phương tiện cất giữ giá trị Là một phƣơng tiện cất giữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi ngƣời ta nhận đƣợc thu nhập mà chƣa muốn tiêu nó hoặc chƣa có điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một phƣơng tiện để cho việc cất giữ sức mua trong trƣờng hợp này hoặc ngƣời ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải. Việc cất giữ nhƣ vậy có thể đƣợc thực hiện bằng nhiều phƣơng tiện ngoài tiền nhƣ: cổ phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa… Một số loại tài sản nhƣ vậy đem lại một mức lãi cao hơn cho ngƣời giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao về giá so với giữ tiền mặt. Tuy nhiên, ngƣời ta vẫn giữ tiền với mục đích dự trữ giá trị vì tiền có thể nhanh chóng chuyển đổi ra các tài sản khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí giao dịch cao khi ngƣời ta muốn chuyển đổi nó sang tiền. Những điều này cho thấy, tiền là một phƣơng tiện cất giữ giá trị bên cạnh các tài sản khác. Việc thực hiện chức năng phƣơng tiện cất giữ giá trị của tiền tốt đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định của mức giá chung do giá trị của tiền đƣợc xác định theo khối lƣợng hàng hóa mà nó có thể đổi đƣợc. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngƣợc lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho ngƣời ta ít muốn giữ nó, điều này thƣờng xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy, để tiền thực hiện tốt chức năng này đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. 1.4. Khối tiền tệ Việc định nghĩa tiền tệ là một phƣơng tiện trao đổi mới chỉ đƣa ra cách hiểu khái quát về tiền, nó không cho chúng ta biết rõ trong nền kinh tế hiện tại, những phƣơng tiện cụ thể nào đƣợc coi là tiền, số lƣợng của nó nhiều hay ít. Vì vậy, ngƣời ta phải định nghĩa tiền một cách cụ thể hơn bằng việc đƣa ra các phép đo về các khối tiền trong lƣu thông. Các khối tiền tệ trong lƣu thông tập hợp các phƣơng tiện đƣợc sử dụng chung làm phƣơng tiện trao đổi, đƣợc phân chia tuỳ theo độ lỏng hay tính thanh khoản của 10
  11. các phƣơng tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Độ lỏng hay tính thanh khoản của một phƣơng tiện trao đổi đƣợc hiểu là khả năng chuyển đổi từ phƣơng tiện đó ra hàng hoá, dịch vụ - tức là phạm vi và mức độ có thể sử dụng những phƣơng tiện đó trong việc thanh toán chi trả. Khối lƣợng tiền tệ trong lƣu thông là tất cả các phƣơng tiện đƣợc chấp nhận làm trung gian trong trao đổi, thanh toán các loại hàng hóa, dịch vụ tại một thị trƣờng nhất định trong một khoảng thời gian nhất định. Các phép đo khối lƣợng tiền tệ đƣa ra tùy thuộc vào các phƣơng tiện đƣợc hệ thống tài chính cung cấp và thƣờng xuyên có sự thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, nhìn chung các khối tiền trong lƣu thông bao gồm: - M1 (tiền giao dịch) bao gồm tiền giấy và tiền xu đang lƣu hành (gồm toàn bộ tiền mặt do ngân hàng trung ƣơng phát hành đang lƣu hành ngoài hệ thống ngân hàng), các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thƣơng mại. Khối tiền này có tính lỏng (thanh khoản) cao nhất. - M2 (tiền rộng) bao gồm M1 và các khoản tiền gửi có kỳ hạn ngắn ở các ngân hàng thƣơng mại. - M3 bao gồm M2 và các khoản tiền gửi kỳ hạn dài ở các ngân hàng thƣơng mại. - L bao gồm M3 và các chứng từ có giá dễ chuyển thành tiền mặt (chứng chỉ tiền gửi, thƣơng phiếu, tín phiếu, trái phiếu…). Nhìn chung, tiền mặt có thể đƣợc sử dụng trực tiếp, ngay lập tức và không hạn chế cho việc thanh toán. Do vậy, tiền mặt đƣợc coi là tài sản có độ thanh khoản cao nhất. Các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cũng đƣợc coi là tiền vì chúng ta có thể rút chúng ra khỏi ngân hàng bất kỳ lúc nào mà không phải chịu bất kỳ chi phí nào. Ngoài ra với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, chúng ta có thể viết séc và sử dụng nó để thanh toán cho các khoản chi tiêu của mình. Đối với tài khoản có kỳ hạn, về nguyên tắc, chúng ta chỉ có thể rút tiền mặt khi đến hạn, hoặc phải thông báo trƣớc và phải chịu phạt lãi suất. Trƣớc đây, chỉ có các tài khoản có kỳ hạn là đƣợc hƣởng lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay, các tài khoản không kỳ hạn cũng đã đƣợc hƣởng lãi suất nhƣng với mức thấp hơn tài khoản có kỳ hạn. Mặc dù số liệu về các khối tiền tệ đƣợc công bố và sử dụng vào những mục đích nhất định, nhƣng việc đƣa ra các phép đo lƣợng tiền chỉ có ý nghĩa khi nó vừa tập hợp đƣợc các phƣơng tiện trao đổi trong nền kinh tế, vừa tạo cơ sở dự báo lạm phát và chu kỳ kinh doanh. Vì vậy, hiện nay một số nƣớc đang nghiên cứu để đƣa ra phép đo “tổng lƣợng tiền có tỷ trọng” trong đó mỗi loại tài sản có một tỷ trọng khác nhau tuỳ theo độ lỏng của nó khi cộng lại với nhau. Việc lựa chọn phép đo nào phụ thuộc vào nhận thức và khả năng của Ngân hàng trung ƣơng trong điều hành chính sách thực tế. Tuy nhiên, đƣợc sử dụng trực tiếp trong các giao dịch làm phƣơng tiện trao đổi chủ yếu là khối 11
  12. tiền M1, vì vậy định nghĩa M1 đƣợc sử dụng thƣờng xuyên khi nói tới cung hay cầu tiền tệ. 1.5. Chế độ tiền tệ Khi nói đến chế độ tiền tệ là nói đến hệ thống tổ chức lƣu thông tiền tệ của một nƣớc do pháp luật quy định, trong đó các nhân tố khác nhau của lƣu thông tiền tệ đƣợc kết hợp thành một khối thống nhất. Chế độ tiền tệ đƣợc cấu thành bởi các yếu tố sau: - Bản vị tiền tệ: chính là cái đƣợc sử dụng làm căn cứ để định giá đồng tiền. Có thể chọn một kim loại nào đó hoặc có thể lấy ngoại tệ hay sức sản xuất trong nƣớc để làm bản vị tiền tệ. - Đơn vị tiền tệ: mỗi một quốc gia có một đơn vị tiền tệ khác nhau, ví dụ ở Việt Nam là “đồng”, ở Mỹ là “dollar”… - Công cụ lƣu thông tiền tệ: là những phƣơng tiện lƣu thông và phƣơng tiện thanh toán đƣợc sử dụng, chẳng hạn nhƣ: tiền giấy, tiền tín dụng, tiền xu… Trong lịch sử tiền tệ, kể từ khi chủ nghĩa tƣ bản hình thành và phát triển, các nƣớc đã trải qua nhiều chế độ bản vị tiền tệ khác nhau. 1.5.1. Chế độ đơn bản vị kim loại Là chế độ tiền tệ trong đó chỉ có một kim loại, vàng hoặc bạc, đƣợc tự do đúc thành tiền và có khả năng thanh toán. Tự do đúc thành tiền nghĩa là mọi ngƣời dân có thể biến đổi những thỏi kim khí thành những đồng tiền bằng cách đem đến nơi đúc tiền. Khả năng thanh toán nghĩa là bắt buộc mọi ngƣời phải nhận tiền kim khí pháp định, mặc dù số lƣợng là bao nhiêu. Ở nƣớc nào sử dụng bạc làm bản vị, ngƣời ta gọi là đơn kim bản vị bạc, nƣớc nào sử dụng vàng làm bản vị, ngƣời ta gọi là đơn kim bản vị vàng. Lúc đầu các quốc gia dùng bạc làm bản vị trƣớc tiên, bởi lẽ bạc tƣơng đối nhiều hơn vàng. Mặc khác giá vàng tƣơng đối đắt hơn, do đó nếu sử dụng vàng để đúc thành tiền thì quá nhỏ. Về sau, ngƣời ta khám phá ra nhiều mỏ vàng hơn, do vậy có thể đúc vàng thành tiền. Từ đó, việc dùng vàng làm bản vị ngày càng trở nên phổ biến hơn. Tình trạng này đã dẫn đến hiện tƣợng các nƣớc dùng cả bạc lẫn vàng làm bản vị tiền tệ. 1.5.2. Chế độ song bản vị kim loại Là chế độ tiền tệ trong đó có hai loại kim loại vàng và bạc đƣợc đúc thành tiền và đều có khả năng thanh toán. Có một giá trị pháp định giữa giá trị của vàng và bạc. Ví dụ: trƣớc năm 1914, tại Pháp đã định nghĩa đồng Franc vừa theo vàng vừa theo bạc nhƣ sau: 1Franc vàng = 322,5mg vàng chuẩn độ 0,900 12
  13. 1Franc bạc = 5g bạc chuẩn độ 0,900 Nhƣ vậy, một Franc bạc nặng gấp 15,5 lần 1 Franc vàng, tức là giá chính thức của 1 gam vàng bằng giá chính thức của 15,5 gam bạc. Trong thực tế, chế độ song bản vị kim loại là nguyên nhân của nhiều sự xáo trộn trong đời sống kinh tế, vì việc sử dụng đồng tiền vàng hay đồng tiền bạc phụ thuộc vào giá vàng hay giá bạc lên xuống trên thị trƣờng. Ở Mỹ, áp dụng chế độ song bản vị kim loại năm 1792, nhƣng kể từ năm 1792 đến năm 1834, giá bạc trên thị trƣờng giảm hẳn so với tƣơng quan chính thức là 1 vàng - 15 bạc. Kết quả là đồng tiền vàng biến mất chỉ còn lại những đồng tiền bạc kém giá hơn. Đầu năm 1848, nhờ sự khám phá đƣợc nhiều mỏ vàng ở Calcornia và năm 1851 tại Australia, số lƣợng vàng đƣợc sản xuất gia tăng, vàng dần dần mất giá trong khi bạc lại cao giá hẳn. Đồng tiền bạc dần biến mất trên thị trƣờng. Một kinh tế gia ngƣời Anh ở thế kỷ 17 tên là Gresham đã đƣa ra một định luật, đƣợc gọi là định luật Gresham. Đinh luật này cho rằng: trong một quốc gia, khi nào hai thứ tiền tệ cùng đƣợc pháp luật chấp nhận theo một giá trị chênh lệch, đồng tiền xấu sẽ dần trục xuất đồng tiền tốt ra khỏi thị trƣờng. Tiền xấu đƣợc hiểu là đồng tiền đang mất giá, tiền tốt là tiền đang có giá. Kể từ năm 1867 trở đi, do bạc đƣợc sản xuất nhiều, bạc dần bị mất giá gây nhiều khó khăn cho các nƣớc áp dụng chế độ song bản vị kim loại, các nƣớc lần lƣợt chấm dứt chế độ này và thiết lập chế độ bản vị vàng (gold stardand). Nƣớc Anh bãi bỏ bản vị bạc năm 1819, Úc 1871, Hà Lan 1875, Áo 1892… 1.5.3. Các chế độ bản vị vàng biến thể Vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chỉ còn một kim loại quý là vàng làm bản vị tiền tệ. Kể từ đấy tiền giấy trở nên thông dụng hẳn, chủ yếu là tiền giấy khả hoán, còn đồng tiền vàng ngày càng ít lại. Điều này đã làm cho châu Âu đã đổi kim bản vị vàng nguyên thủy biến thể qua một vài hình thái: chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thoi, chế độ bản vị hối đoái vàng. - Chế độ bản vị tiền vàng (gold specie stardand): là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán đƣợc chuyển đổi thành tiền vàng theo định nghĩa chính thức. - Chế độ bản vị vàng thoi hay hay là chế độ kim định bản vị (gold bullion stardand): theo chế độ này tiền giấy không đƣợc tự do đổi ra tiền vàng mà phải có một khối lƣợng tiền giấy nhất định mới đổi đƣợc một thoi vàng. Chế độ bản vị vàng thoi thi hành ở Anh năm 1925, muốn đổi tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất 1500 bảng Anh, ở Pháp năm 1928 con số tối thiểu này là 225.000 Franc. - Chế độ bản vị hối đoái vàng hay là chế độ kim hoàn bản vị (gold exchange stardand): là chế độ trong đó tiền giấy không đƣợc đổi trực tiếp ra vàng, muốn chuyển 13
  14. đổi ra vàng phải thông qua một đồng tiền trung gian khác. Thông thƣờng đồng tiền trung gian là đồng tiền có quan hệ chuyển đổi ra vàng. Việc từ bỏ chế độ bản vị vàng cũng có nghĩa là các chính phủ thừa nhận quy luật hình thành giá vàng theo cung cầu. Giá vàng ở Việt Nam thay đổi cùng chiều và cùng mức độ với giá vàng thế giới là một hiện tƣợng bình thƣờng. Cùng với chính sách đổi mới, “mở cửa”, mở rộng giao lƣu hàng hóa, trong đó có giao lƣu vàng, với thế giới bên ngoài, quy luật hình thành giá vàng theo cung-cầu ở Việt Nam đang phát huy tác dụng. Sau khi hệ thống bản vị vàng sụp đổ, nhiều nƣớc chuyển sang hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. 1.5.4. Chế độ bản vị ngoại tệ Chế độ bản vị ngoại tệ là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một nƣớc đƣợc định nghĩa theo một ngoại tệ nhất định, thƣờng là ngoại tệ mạnh. Khác với chế độ bản vị hối đoái vàng, bản vị ngoại tệ không có liên hệ gì với vàng. Ngoại tệ mạnh đƣợc dùng làm bản vị có thể không chuyển đổi ra vàng theo một giá cố định nhƣ trong bản vị hối đoái vàng. Ở chế độ bản vị ngoại tệ, chỉ có sự liên hệ giữa đơn vị tiền tệ này với đơn vị tiền tệ khác đƣợc dùng làm bản vị tiền tệ theo một giá trị chính thức cố định. Đơn vị ngoại tệ mạnh đƣợc chọn là để làm phƣơng tiện thanh toán trong các cuộc giao dịch quốc tế. Những nƣớc theo chế độ bản vị ngoại tệ thƣờng tích lũy số dƣ ngoại tệ đƣợc chọn làm bản vị và gửi tới ngân hàng thƣơng mại của nƣớc có đơn vị tiền tệ dùng làm bản vị để hƣởng lãi. Về nguyên tắc, trong chế độ bản vị ngoại tệ, nƣớc ngoài có thể đem tiền quốc gia đó đổi lấy ngoại tệ và ngƣợc lại theo định nghĩa chính thức. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều nƣớc thực hiện chính sách kiểm soát ngoại hối không thực thi chính sách này. Chế độ bản vị ngoại tệ phát triển nhanh và trở nên phổ biến từ khi các nƣớc lần lƣợt bãi bỏ tiền giấy khả hoán, chuyển sang sử dụng tiền giấy bất khả hoán. Việc chuyển sang thực hiện chế độ bản vị ngoại tệ đã dẫn đến những sự kiện quan trọng sau: - Hình thành xu hƣớng sử dụng ngoại tệ thay cho vàng trong các cuộc giao dịch quốc tế. Theo nguyên tắc khi mua hàng hóa của nƣớc nào thì phải dùng tiền của nƣớc đó để thanh toán cho ngƣời bán. Nhƣ vậy đáng lẽ ngoại tệ nào cũng đƣợc coi có công dụng để trả nợ cho chính nƣớc phát hành ra đồng tiền đó. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có một số ngoại tệ đóng vai trò là tìền tệ quốc tế, chẳng hạn nhƣ Bảng Anh, Dollar Mỹ…bởi lẽ những ngoại tệ này đƣợc các nƣớc ƣa chuộng sử dụng. - Sự xuất hiện các khu vực tiền tệ: một số ngoại tệ mạnh đóng vai trò lãnh đạo đối với một số đồng tiền khác trên thế giới. Điều này đã dẫn đến hình thành một số khu vực tiền tệ riêng biệt. Trong lịch sử tiền tệ thế giới có năm khu vực tiền tệ riêng 14
  15. biệt, đó là: khu vực bảng Anh (các nƣớc trong khối liên hiệp Anh, một số nƣớc ngoài liên hiệp Anh nhƣ: Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Jordan, Argentina, Thái Lan, một số nƣớc nằm trong vùng biển Baltic). Khu vực Dollar Mỹ (Các nƣớc thuộc ảnh hƣởng của Mỹ nhƣ Trung Mỹ, Nam Mỹ, những đảo quốc thuôc Thái Bình Dƣơng…). Khu vực thuộc Franc Pháp (Các nƣớc thuộc liêp hiệp Pháp, Algeirie, Guyane, Guadeloupe, Martinique, Togo, Cameroun, Gabon…). Khu vực Escudo (Bồ Đào Nha, các lãnh thổ hải ngoại của Bồ Đào Nha. Khu vực đồng Rouble (Liên xô (cũ) và các nƣớc theo chủ nghĩa xã hội) *Bản vị dollar: Nền tảng vật chất của đồng dollar là nền kinh tế của Mỹ. Giá trị của dollar đƣợc chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hàng trung ƣơng Mỹ điều tiết và duy trì ổn định. Trƣớc năm 1971, đồng dollar có bản vị vàng, sau đó tuy dollar không còn đƣợc đổi ra vàng theo tỷ lệ cố định nữa nhƣng duy trì giá trị của dollar vẫn luôn luôn là một chủ trƣơng hàng đầu của chính phủ Mỹ. Đồng dollar là đồng tiền mạnh, có giá trị ổn định, thuận tiền trong thanh toán quốc tế, do vậy nó đƣợc sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nhiều nƣớc đã gắn đồng tiền nƣớc mình với dollar, còn đƣợc coi là theo bản vị dollar, nhất là trƣớc năm 1971, khi đồng dollar có bản vị vàng. Ở Việt Nam, tuy không cố định giá trị đồng tiền của mình với dollar, nhƣng tâm lý bản vị dollar cũng khá mạnh, mặc dầu tạo ra một tiêu chuẩn cho giá trị đồng tiền, nhƣng nó có những hạn chế sau: - Đồng dollar cho dù là một đồng tiền mạnh, nó vẫn là một đại lƣợng biến thiên. Ngoài ra, điều quan trọng hơn là vai trò duy trì sức mua (giá trị) của đồng dollar là thuộc về chính phủ Mỹ mà đại diện là ngân hàng trung ƣơng Mỹ chứ không thuộc về chính phủ nƣớc theo bản vị dollar. Do vậy, việc theo đuổi bản vị dollar sẽ bị động và khó bảo đảm cho đồng tiền nƣớc mình đƣợc ổn định do vẫn có tình hình vĩ mô thất thƣờng ở Mỹ. - Thay đổi tỷ giá (giá dollar) là một phƣơng pháp quan trọng nhằm điều tiết tình hình xuất nhập khẩu. Cố định tỷ giá sẽ tƣớc đoạt quyền sử dụng phƣơng pháp này. Việc định giá đồng tiền cao hơn có tác dụng hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Ngƣợc lại, việc định giá đồng tiền thấp hơn thì có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. - Đồng tiền là tấm gƣơng phản ánh thực trạng nền kinh tế. Nền kinh tế rất phức tạp và phong phú nhƣ một cơ thể sống. Có nhiều nhân tố luôn tác động đến trạng thái của nền kinh tế nhƣ sự thay đổi về điều kiện khai thác tài nguyên thiên nhiên, sự thay đổi trong quan hệ đối ngoại, sự thay đổi về kỹ thuật và công nghệ trên thế giới, sự thay đổi về mức sống thực tế… 1.5.5. Bản vị hàng hóa Nếu nhƣ bản vị vàng gắn đơn vị tiền tệ với một lƣợng vàng nhất định, thì bản vị 15
  16. hàng hóa lại gắn tiền với hàng hóa. Bản vị hàng hóa hay đồng tiền đƣợc bảo đảm bằng hàng hóa đã xuất hiện và đƣợc áp dụng tại các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thông qua hệ thống thƣơng nghiệp nhà nƣớc và hệ thống giá nhà nƣớc, đồng tiền đƣợc bảo đảm bằng hàng hóa cung cấp, thậm chí theo nhiều nhóm hàng. Gắn liền với hệ thống này là chế độ tem phiếu. Liệu trong hệ thống kế hoạch hành chính này đồng tiền có phải là đồng tiền ổn định? Trong hệ thống này, đồng tiền đƣợc coi là ổn định trong chừng mực mà nhà nƣớc còn duy trì đƣợc sự mua bán bình thƣờng theo hệ thống giá nhà nƣớc. Cái giá cao phải trả cho việc cố duy trì hệ thống này là chi phí cao, hiệu quả thấp, trao đổi mang tính gò ép, hình thành cơ cấu kinh tế không hợp lý, thị trƣờng không có vai trò điều tiết nền kinh tế…Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó hệ thống giá nhà nƣớc là một bộ phận quan trọng, đã thể hiện là không có hiệu quả và kèm theo nhiều tiêu cực khác, do vậy nó đã bị bác bỏ khi các nƣớc xã hội chủ nghĩa tiến hành cải cách, cải tổ và đổi mới nền kinh tế theo hƣớng thị trƣờng. Trong khuôn khổ của kinh tế thị trƣờng, bản vị hàng hóa có nội dung nhƣ thế nào? Cũng giống nhƣ trong bản vị vàng, bản vị hàng hóa riêng lẻ cũng không đƣợc kinh tế thị trƣờng chấp nhận. Tuy nhiên nếu nhƣ nhà nƣớc ổn định đƣợc giá thị trƣờng trong tổng thể (điều tiết nền kinh tế sao cho chỉ số giá tiêu dùng CPI bằng 1) trong khi vẫn thừa nhận sự biến đổi tự nhiên của các giá cả riêng lẻ theo tình hình thị trƣờng, thì khái niệm bản vị hàng hóa trong trƣờng hợp này hoàn toàn có thể chấp nhận vì nó có tính khoa học, khả thi và hiện thực. 2. TÀI CHÍNH 2.1. Sự ra đời của phạm trù tài chính 2.1.1. Tiền đề ra đời của tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Từ toàn bộ lịch sử phát sinh, phát triển của tài chính chúng ta thấy: Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tƣợng kinh tế - xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tƣợng kinh tế - xã hội khách quan đó là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Karl Marx trong tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính trị học đã chỉ ra hai tiền đề ra đời của tài chính, đó là sự ra đời, tồn tại của Nhà nƣớc và sự xuất hiện, phát triển của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ. 16
  17. 2.1.1.1. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước Trong các hình thái xã hội có Nhà nƣớc, tài chính đã từng tồn tại với tƣ cách là một công cụ trong tay Nhà nƣớc để phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc đầu tiên trong xã hội loài ngƣời là Nhà nƣớc chủ nô, cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nó, những hình thức sớm của tài chính nhƣ thuế cũng bắt đầu xuất hiện. Khi hình thái xã hội mới thay thế hình thái xã hội cũ, thì một nền tài chính mới ra đời phù hợp với hình thái Nhà nƣớc mới. F. Ănghen viết: “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những ngƣời công dân của Nhà nƣớc, đó là thuế má. Với những bƣớc tiến của văn minh thì bản thân thuế má cũng không đủ nữa; Nhà nƣớc còn phát hành hối phiếu vay nợ, tức là phát hành công trái”. Trong các chế độ xã hội phát triển, các Nhà nƣớc với chức năng quản lý xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng… đều tăng cƣờng tài chính của mình. Nhƣ vậy, có thể nói trong điều kiện lịch sử nhất định khi có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của Nhà nƣớc thì có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của tài chính. 2.1.1.2. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ Lịch sử phát triển của tài chính cho thấy rằng, khi những hình thức tài chính đầu tiên xuất hiện theo sự xuất hiện của Nhà nƣớc (thuế) thì đã có sự xuất hiện và tồn tại của sản xuất hàng hoá - tiền tệ và hình thức tiền tệ đã đƣợc sử dụng trong lĩnh vực của các quan hệ tài chính nhƣ một tất yếu. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, thuế bằng tiền đã đƣợc áp dụng (nhƣ thuế quan, thuế gián thu, thuế chợ, thuế tài sản…). Trong chế độ phong kiến, theo với sự mở rộng các quan hệ thị trƣờng, sản xuất hàng hoá và tiền tệ, lĩnh vực của các quan hệ thuế bằng tiền đã mở rộng và tiến hành thƣờng xuyên hơn (nhƣ thuế đất, thuế gián thu với vật phẩm tiêu dùng, thuế hộ gia đình…), tín dụng Nhà nƣớc cũng bắt đầu phát triển. Với sự phát triển vƣợt bậc của kinh tế hàng hoá - tiền tệ thu nhập bằng tiền qua thuế và công trái đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nƣớc. Theo với thu nhập bằng tiền, chi tiêu bằng tiền đã làm phong phú các hình thức chi tiêu và linh hoạt trong khi sử dụng vốn. Chính trong thời kỳ phát triển kinh tế tƣ bản, ngân sách Nhà nƣớc - một loại quỹ tiền tệ tập trung đã đƣợc hình thành và ngày càng có tính hệ thống chặt chẽ, ngày càng đóng vai trò quan trọng phân phối của cải xã hội dƣới hình thức giá trị. Kinh tế hàng hoá - tiền tệ càng phát triển thì hình thức giá trị tiền tệ càng trở thành hình thức chủ yếu của thu nhập và chi tiêu của Nhà nƣớc. Kinh tế hàng hoá - tiền tệ đã mở rộng lĩnh vực của các quan hệ tài chính. Nền kinh tế tƣ bản ra đời và phát triển, thì hình thức giá trị tiền tệ của các quan hệ tài chính đã là một yếu tố bản chất 17
  18. của tài chính. Nhƣ vậy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là một tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và phát triển của tài chính. Khi nói đến tiền đề của tài chính, một số nhà lý luận kinh tế nhấn mạnh đến tiền đề thứ nhất - tức là nhấn mạnh đến sự tồn tại của Nhà nƣớc; nhƣng một số nhà kinh tế khác không tán thành quan điểm đó; các nhà kinh tế này đƣa ra ví dụ về một Nhà nƣớc Khơ-me không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, do đó không có nền tài chính. Nhiều nhà lý luận kinh tế nhất trí nhấn mạnh đến tiền đề thứ hai. Theo các nhà kinh tế học này, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ra đời và tồn tại của tiền tệ và cho rằng đây là tiền đề có tính chất quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính. Các nhà lý luận này dẫn chứng bằng thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi đó Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá, nhƣng tồn tại tiền tệ nên vẫn tồn tại một nền tài chính. 2.1.2. Sự cần thiết khách quan của tài chính Khi nghiên cứu các tiền đề của tài chính, chúng ta thấy rằng: chính sự tồn tại của Nhà nƣớc và sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ quyết định tính tất yếu khách quan tồn tại của tài chính. Trong quá trình phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, Nhà nƣớc ra đời; để tồn tại và phát triển cũng nhƣ để thực hiện chức năng quản lý toàn diện xã hội của Nhà nƣớc ở các quốc gia và ở mọi thời kỳ, cần thiết phải sử dụng tài chính. Vì: - Thông qua các quan hệ tài chính, để thực hiện phân phối của cải xã hội theo yêu cầu phát triển quốc gia. - Sử dụng công cụ tài chính điều tiết một phần thu nhập cuả các thành phần kinh tế, phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội trong các giai đoạn phát triển. - Thông qua phân phối tài chính, đảm bảo tái sản xuất xã hội và thực hiện đầu tƣ phát triển kinh tế. - Sử dụng các công cụ tài chính, thực hiện giám sát toàn bộ các hoạt động của quốc gia, đảm bảo sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả. Tóm lại, sự cần thiết khách quan của tài chính là do sự tồn tại khách quan của các tiền đề tài chính. Trong đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và quản lý xã hội, Nhà nƣớc của các quốc gia cần thiết phải nắm lấy tài chính nhƣ một công cụ sắc bén để quản lý kinh tế - xã hội. 2.2. Khái niệm và bản chất của tài chính 2.2.1. Khái niệm tài chính Tài chính là quá trình tạo lập và phân phối các nguồn tài chính (hay vốn tiền tệ) nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự vận động độc lập tƣơng đối của các luồng giá trị dƣới hình thái tiền tệ thông qua 18
  19. việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Một cách định nghĩa khác, tài chính có thể hiểu nhƣ sau: với tƣ cách là một lĩnh vực khoa học, tài chính nghiên cứu về cách thức phân phối các nguồn lực tài chính hạn chế qua thời gian. Quá trình phân phối trong tài chính không chỉ diễn ra giữa các chủ thể kinh tế mà còn diễn ra trong nội bộ chủ thể kinh tế đó, liên quan đến việc phân chia quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế cho các mục đích sử dụng khác nhau của mình. Việc hình thành các quỹ tiền tệ cho các mục đích nhất định của chủ thể kinh tế cũng không chỉ bắt nguồn từ quỹ tiền tệ mà chủ thể kinh tế sở hữu mà còn bao gồm cả các nguồn tài chính từ bên ngoài mà chủ thể có thể huy động đƣợc để phục vụ cho các mục đích của mình. Ví dụ: để hình thành một quỹ tiền tệ nhằm tài trợ cho một hoạt động đầu tƣ của mình, doanh nghiệp không chỉ lấy từ quỹ tiền tệ mà mình sở hữu mà còn từ các hình thức huy động bên ngoài dƣới dạng vay mƣợn hoặc kêu gọi góp vốn. Có 4 loại quan hệ tài chính sau: - Quan hệ tài chính hoàn trả: ví dụ quan hệ tín dụng. - Quan hệ tài chính hoàn trả có điều kiện và không tƣơng đƣơng: ví dụ quan hệ bảo hiểm. - Quan hệ tài chính không hoàn trả: ví dụ quan hệ ngân sách nhà nƣớc, cụ thể là quan hệ thu nộp thuế, trợ cấp, hỗ trợ, cung cấp dịch vụ công cộng miễn phí (nhƣ dịch vụ an ninh, chiếu sáng đô thị…) hoặc ngƣời sử dụng chỉ đóng góp một phần (nhƣ giáo dục, y tế…). - Quan hệ tài chính nội bộ trong mỗi chủ thể kinh tế, đƣợc xem xét khi cần cân đối giữa các mục đích chi tiêu. Với doanh nghiệp gồm các quan hệ phân phối lợi nhuận cho mục tiêu phát triển kinh doanh, cho khen thƣởng ngƣời lao động và trả lãi cho ngƣời góp vốn; phân phối vốn cho các nhu cầu mua sắm từng loại tài sản để đảm bảo cơ cấu vốn đầu tƣ hợp lý… Với Nhà nƣớc gồm có phân phối giữa các cấp chính quyền Trung ƣơng và địa phƣơng, cho các ngành kinh tế quốc dân, trích lập các quỹ. Với gia đình quan trọng nhất là phân phối cho mục đích tích lũy và tiêu dùng theo tỉ lệ nhƣ thế nào cho hợp lý và thứ tự ƣu tiên mua sắm. 2.2.2. Bản chất của tài chính Tài chính - sự vận động của các quỹ tiền tệ là biểu hiện bên ngoài của tài chính, bên trong - bản chất của nó là mối quan hệ giữa ngƣời chi trả và ngƣời thu nhận vốn tiền tệ, đây là mối quan hệ tài chính. 2.2.2.1. Đặc điểm của quan hệ tài chính Các quan hệ tài chính phát sinh về sự vận động của vốn tiền tệ - biểu hiện mặt giá trị của sản phẩm xã hội, là kết quả của hoạt động sản xuất thuộc lĩnh vực kinh tế. 19
  20. Vì vậy các quan hệ tài chính là các quan hệ kinh tế. Các khoản thu chi của Ngân sách Nhà nƣớc, các doanh nghiệp… biểu hiện vận động của vốn tiền tệ, đều thể hiện việc của cải xã hội đƣợc phân chia thành những bộ phận khác nhau, mỗi bộ phận đƣợc phân phối cho những chủ thể khác nhau, chứng tỏ tài chính là các quan hệ về phân phối sản phẩm. Các hiện tƣợng tài chính thể hiện ra thành sự vận động của vốn tiền tệ, nhất là sự phân phối sản phẩm dƣới hình thức tiền tệ, vì vậy quan hệ tài chính là các quan hệ phân phối của cải xã hội dƣới hình thức tiền tệ. 2.2.2.2. Đặc điểm của các quỹ tiền tệ Các quỹ tiền tệ trong quá trình hình thành và sử dụng có những đặc điểm cơ bản: - Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu. Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể biểu hiện trong phạm vi một hình thức sở hữu hoặc nhiều hình thức sở hữu. - Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của tiền vốn. Đây là tiêu thức chính của các quỹ tiền tệ tài chính. - Tất cả các quỹ tiền tệ đều vận động thƣờng xuyên, tức là luôn luôn đƣợc sử dụng (chi tiêu) và bổ sung (thu vào). - Các quỹ tiền tệ trong việc hình thành và sử dụng, đều thể hiện tính pháp lý và đƣợc thể thức hoá bằng các văn bản chính quy. Nhƣ vậy các quỹ tiền tệ, trong sự vận động của chúng, là phản ánh thể hiện những quan hệ giữa con ngƣời với nhau trong phân phối của cải xã hội dƣới hình thái tiền tệ. Từ những điều phân tích trên, có thể khái quát về bản chất của tài chính nhƣ sau: Tài chính là một mặt của quan hệ phân phối biểu hiện dƣới hình thái tiền tệ, đƣợc sử dụng để phân phối của cải xã hội, xây dựng và hình thành lên những quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung, và sử dụng các quỹ tiền tệ đó nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Có thể nói tài chính là một phạm trù trừu tƣợng đƣợc khái quát từ sự vận động của tiền tệ gắn liền với hoạt động của con ngƣời. 2.3. Chức năng của tài chính Chức năng của tài chính là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung của tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Chức năng của tài chính là khả năng bên trong, biểu lộ tác dụng xã hội của nó và tác dụng đó chỉ có thể có đƣợc với sự tham gia nhất thiết của con ngƣời. Tài chính vốn có hai chức năng cơ bản, chức năng phân phối tổng sản phẩm xã hội dƣới dạng hình thái tiền tệ và chức năng giám đốc bằng tiền đối với toàn bộ hoạt 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2