intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thận niệu quản ba và bốn (Thông báo hai bệnh nhân)

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

35
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết thông báo trường hợp dị tật hiếm gặp: Thận niệu quản bốn và ba, cụ thể báo cáo 2 ca Bệnh án 1: Bệnh nhân nam 14 tuổi vào viện ngày 19-2-2006 với chẩn đoán ứ nước thận trái, bệnh nhi được mổ dẫn lưu thận ngày 22-2-2006. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thận niệu quản ba và bốn (Thông báo hai bệnh nhân)

THẬN NIỆU QUẢN BA VÀ BỐN (THÔNG BÁO HAI BệNH NHÂN)<br /> Trần Ngọc Bích*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục đích: Thông báo một dị tật hiếm gặp: thận niệu quản bốn và ba.<br /> Phương pháp: Mô tả hồi cứu.<br /> Kết quả: báo cáo 2 ca Bệnh án 1: BN nam 14 tuổi vào viện ngày 19-2-2006 với chẩn đoán ứ nước thận<br /> trái. Bệnh nhi được mổ dẫn lưu thận ngày 22-2-2006. Ngày 7-3-2006, bệnh nhi được mổ lại và được phát<br /> hiện thận niệu quản bốn không hoàn toàn. Có hẹp chỗ nối bể thận -niệu quản.. Đã mổ theo phương pháp<br /> Anderson Hynes. Kết quả theo dõi sau hơn một năm là tốt. Bệnh án 2: Bệnh nhân nữ 14 tuổi vào viện 11-62007. Sau đẻ bị đái rỉ liên tục. Lúc 3 tuổi, bệnh nhân đã được chẩn đoán niệu quản lạc chỗ hai bên và được<br /> mổ trồng lại hai niệu quản vào bàng quang. Sau mổ, bệnh nhân đái được thành bãi nhưng còn són tiểu. Khi<br /> 7 tuổi, bệnh nhân được mổ lần thai cắt bỏ thận phụ trên bên phải với chẩn đoán thận niệu quản đôi hai bên,<br /> niệu quản lạc chỗ. Sau mổ bệnh nhân vẫn són tiểu. Khám lâm sàng- cận lâm sàng, chúng tôi kết luận: bệnh<br /> nhân có thận niệu quản ba không hoàn toàn hai bên. Nguyên nhân són tiểu có thể do mất đồng vận cơ thắt<br /> và co bóp bàng quang.<br /> Kết luận: Thận niệu quản bốn và ba là dị tật hiếm gặp. Cần có chẩn đoán đúng để có chỉ định điều trị<br /> đúng.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> URETERAL TRIPLICATION AND QUADRUPLICATION (TWO CASES REPORT)<br /> Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 154 – 161<br /> Purpose: Report a rare malformation: ureteral quadruplication and triplication.<br /> Methods: retrospective study<br /> Results: two case report<br /> Case report 1: a 14 years-old boy was admitted in Viet-Duc Hospital on 19 Jannuary 2006 with<br /> diagnosis of hydronephrosis on left side. He was operated for nephrostomy on 22 Jannuary 2006. He was<br /> reoperated on 7 March 2006 and was found out a incomplete ureteral quadruplication.. The ureteropelvic<br /> stenosis caused the dilatation of the pelvis and four renal units. A Hynes Anderson technic was done. Result<br /> after one years was good.<br /> Case report 2: a 14 years-old girl was admitted in Viet-Duc Hospital on 11 Jun 2007. After the birth,<br /> she had a urinary incontinence She was operated for reimplatation of two ectopic ureters when she was 3<br /> years old. After the operation, she urinated normally but still existed enuresis. She was reoperated for<br /> ablation a upper renal unit on the right when she was 7 years old. After the second operation, eunuresis was<br /> changeless.<br /> . After clinical, paraclinical examination, we had a diagnosis: the patient was suffering from the<br /> incomplete bilateral ureteral triplication with two ectopic principal ureters that were reimplanted and one<br /> right upper renal unit was excised. Enuresis can be detrusor sphincter discordination.<br /> Conclusion: Ureteral quadruplication and triplication are rare. It is necessary to make correct<br /> diagnosis in order to have a correct treatment.<br /> * Khoa Phẫu thuật nhi, Bệnh viện Việt-Đức<br /> <br /> 154<br /> <br /> Chuyên đề Nhi Khoa<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Dị tật nhiều thận thường gặp là thậnniệu quản đôi với tỷ lệ khoảng 2- 4 % khi<br /> khám hệ tiết niệu và khoảng 0,5% ở cộng<br /> đồng, hiếm gặp thận niệu quản ba và rất<br /> hiếm gặp thận niệu quản bốn. Bệnh thường<br /> được phát hiện khi có triệu chứng hay biến<br /> chứng. ở trong nước, đã có nhiều báo cáo<br /> thận- niệu quản đôi. Trường hợp thận niệu<br /> quản ba đầu tiên được báo cáo lần đầu bởi<br /> Wrany năm 1870. Các thông báo lâm sàng<br /> sau này chủ yếu là thận niệu quản ba. Tới<br /> 2004, có hơn trăm trường hợp thận niệu quản<br /> ba được thông báo. Còn thận niệu quản bốn<br /> thì tới năm 1994 mới có 4 trường hợp được<br /> thông báo và tới nay đã có khoảng hơn mười<br /> trường hợp(1,2,3,4,5,6,7,8,9). Tại Khoa Phẫu thuật<br /> Nhi Bệnh viện Việt - Đức, chúng tôi đã mổ<br /> chữa bảo tồn thành công một bệnh nhân có<br /> thận- niệu quản bốn bên trái bị giãn vào<br /> tháng 2- 2006 và chúng tôi đã khám chẩn<br /> đoán một bệnh nhân bị thận niệu quản ba 2<br /> bên tháng 6-2007. Chúng tôi xin thông báo 2<br /> bệnh nhân này để nêu những điểm cần chú ý<br /> về chẩn đoán và điều trị dị tật nhiều thận.<br /> <br /> BỆNH ÁN 1<br /> Bệnh nhân nữ H.P.U.14 tuổi, ở Đắc Lắc.<br /> Vào viện ngày 11-6-2007, ra viện 20-6-2007.<br /> Đến khám vì són tiểu. Về quá trình bệnh và<br /> điều trị theo mẹ bệnh nhân kể lại: Bệnh nhân<br /> từ ngay sau đẻ đã bị đái rỉ liên tục, không<br /> thành bãi. Lúc 3 tuổi, bệnh nhân được chẩn<br /> đoán thận niệu quản đôi hai bên, niệu quản<br /> hai bên lạc chỗ và được mổ trồng lại hai niệu<br /> quản vào bàng quang ở Bệnh viện Nhi. Sau<br /> mổ, bệnh nhân đái thành bãi nhưng vẫn còn rỉ<br /> nước tiểu ít và không liên tục. Khi 7 tuổi, bệnh<br /> nhân được mổ lần thứ hai tại TP.Hồ chí Minh<br /> với chẩn đoán thận niệu quản đôi hai bên,<br /> niệu quản lạc chỗ gây đái rỉ. Bệnh nhân được<br /> mổ cắt bỏ thận phụ trên bên phải. Sau mổ<br /> bệnh nhân vẫn són tiểu như trước mổ.<br /> <br /> Khám khi vào viện: có một đường mổ ở<br /> nếp lằn bụng dưới và một đường mổ ngang từ<br /> đầu xương sườn 12 tới bờ ngoài cơ thẳng to<br /> phải, da ở vùng tầng sinh môn, âm hộ bị viêm.<br /> Hỏi quá trình rỉ nước tiểu thì thường rỉ nước<br /> tiểu ban đêm, còn ban ngày thỉnh thoảng rỉ<br /> khi buồn tiểu mà chưa kịp đi tiểu. Bệnh nhân<br /> uống viên xanh methylen 3 lần, mỗi lần uống<br /> 2 viên và cách nhau 2 ngày để quan sát nước<br /> tiểu rỉ ra từ đâu. Cả 3 lần đều không tháy nước<br /> tiểu rỉ ra từ niệu đạo, âm đạo và âm hộ cả khi<br /> kích thích vùng xương mu. Chụp thận niệu<br /> quản bằng tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch<br /> (UIV) thấy bên phải có 2 bể thận. Hai niệu<br /> quản của 2 bể thận này đổ chung vào một niệu<br /> quản. Chỗ hội lưu của 2 niệu quản này có một<br /> mỏm thừa niệu quản của thận phụ trên đã bị<br /> cắt bỏ lần mổ trước. Niệu quản chung này đổ<br /> vào bàng quang. Bên trái thấy rõ 3 bể thận với<br /> 3 niệu quản chạy xuống nhưng không rõ<br /> đường đi niệu quản bên dưới. Do vậy chúng<br /> tôi đã soi bàng quang và chụp niệu quản bể<br /> thận trái ngược dòng. Khi soi bàng quang thấy<br /> 2 lỗ niệu quản ở đúng bên. Bơm thuốc chụp<br /> thấy hình ảnh 3 bể thận trái với 3 niệu quản<br /> chạy xuống một đoạn thì đổ vào một niệu<br /> quản chung rồi xuống bàng quang. Kết luận:<br /> thận niệu quản ba bên trái không hoàn toàn..<br /> Bệnh nhân được khám niệu động học tại<br /> Học viện Quân Y 103 do TS.BS. Nguyễn Phú<br /> Việt làm thì kết luận: Bàng quang ổn định,<br /> không có rỉ nước tiểu khi ho, ở tư thế nằm.<br /> Qua thăm khám lâm sàng và cận lâm<br /> sàng, chúng tôi kết luận: bệnh nhân có thận<br /> niệu quản ba không hoàn toàn hai bên với 2<br /> niệu quản chính lạc chỗ đã được trồng lại vào<br /> bàng quang. Nguyên nhân đái rỉ không liên<br /> tục hay són tiểu là do giảm chức năng co thắt<br /> cổ bàng quang.<br /> Chúng tôi đã hướng dẫn bệnh nhân tập<br /> xiết cơ mông- nín giữ nước tiểu, đi tiểu chủ<br /> đông ngay khi muốn tiểu, đi tiểu trước khi đi<br /> ngủ và một lần vào nửa đêm thì triệu chứng rỉ<br /> nước tiểu giảm hẳn.<br /> <br /> Bệnh nhân đang tự điều trị tiếp tục và<br /> theo dõi.<br /> <br /> BỆNH ÁN 2<br /> BN nam P. V.T 14 tuổi, ở tỉnh Hải Dương.<br /> Vào viện ngày 19- 2-2006, ra viện 5-4-2006.<br /> Trước vào viện 5 ngày, đau vùng mạn sườn<br /> trái. Có sốt nhẹ 37,5 - 38 độ. Bệnh nhân tới<br /> Quân y viện 7 rồi được chuyển tới Bệnh viện<br /> Việt-Đức với chẩn đoán thận trái căng to.<br /> Khám: Thận to bên trái, Siêu âm: thận trái to,<br /> nhu mô giãn mỏng, niệu quản không giãn.<br /> UIV(20-2-2006): thận phải ngấm thuốc và<br /> bài tiết xuống bàng quang. Thận trái không<br /> ngấm thuốc và có bóng mờ ở vùng mạn sườn<br /> trái. Siêu âm: nhu mô thận trái giãn mỏng,<br /> dịch ở trong đài bể thận không trong. Kết<br /> luận: thận trái căng to do hẹp phần nối bể thận<br /> niệu quản và chỉ định mổ dẫn lưu thận.<br /> - Mổ ngày 22- 2-2006, BS Hùng mổ dẫn lưu<br /> thận trái, hút ra khoảng hơn 1 lít nước tiểu,<br /> cấy nước tiểu không có vi khuẩn sau 48 giờ.<br /> Sau mổ, mỗi ngày nước tiểu trong qua ống<br /> thông từ 700-900 ml. Ngày 28-2-2006, bơm<br /> thuốc cản quang qua dẫn lưu vào bể thận<br /> chụp thấy hình đài và bể thận khá nhỏ, thuốc<br /> không xuống niệu quản và bàng quang, nhìn<br /> hình thái không bình thường do vậy cho chụp<br /> lại lần 2 (ngày 1-3-2006) và bơm nhiều thuốc<br /> hơn thì thấy vẫn có hình thận như lần chụp<br /> ngày 28-2-2006, nhưng thấy một hình trông<br /> giống đại tràng trái, thuốc không xuống niệu<br /> quản- bàng quang. Siêu âm lại thấy có ổ dịch ở<br /> hố thận trái. Chẩn đoán hẹp chỗ nối bể thậnniệu quản trái và nghi ngờ có rò thận với đại<br /> tràng theo cơ chế rò có van một chiều. Chẩn<br /> đoán như vậy vì sau mổ dẫn lưu nước tiểu<br /> trong, không có cặn phân ra và cấy nước tiểu<br /> không có E.Coli.<br /> - Mổ lại ngày 7-3-2006: BS mổ chính: PGS<br /> Bích, phụ mổ: BS Thuỷ, BS Ngân, gây mê: TS<br /> Kim. Vào hố thận trái có ổ dịch hơi đục ở mặt<br /> sau thận, t giải phóng thận thấy thận to và dài<br /> như đại tràng, thận giãn mỏng không đều<br /> <br /> 156<br /> <br /> nhau ở 4 vùng và mỏng dần từ trên xuống<br /> dưới, có ngấn rõ giữa các thận. ở vùng thận<br /> trên cùng, nhu mô thận dầy khoảng 2-3 mm, ở<br /> 3 vùng thận bên dưới nhu mô chỉ độ 1-2 mm,<br /> phần cực dưới là mỏng nhất. Có một bể thận<br /> giãn to và bể thận này nối liền với phần thận<br /> có nhu mô dày nhất ở cực trên, ở mặt trước có<br /> 3 niệu quản từ 3 vùng thận bên dưới đổ vào bể<br /> thận giãn to trên, mỗi niệu quản dài độ 3 cm, 2<br /> niệu quản trên và dưới (của thận thứ 2 và thứ<br /> 4 tính từ trên xuống) khá to khoảng 5 mm, còn<br /> niệu quản giữa (của thận thứ 3 từ trên xuống)<br /> khoảng 4 mm. Có một niệu quản chung từ<br /> bàng quang nối với bể thận giãn và có chỗ hẹp<br /> rõ ở chỗ nối bể thận chung với niệu quản<br /> chung. Mở bể thận kiểm tra xác định có 4 đơn<br /> vị thận riêng biệt, không thông nhau. Thận<br /> được mở dẫn lưu ở lần mổ trước là thận thứ 2<br /> từ trên xuống. Ranh giới giữa các thận nhìn rõ<br /> dựa ngấn và độ dày thận.<br /> Chẩn đoán trong mổ là thận- niệu quản<br /> bốn không hoàn toàn, có hẹp phần nối niệu<br /> quản chung với bể thận chung.<br /> Chúng tôi đã quyết định giữ cả 4 đơn vị<br /> thận trái và điều trị bảo tồn bằng cắt bỏ phần<br /> hẹp ở chỗ nối bể thận-niệu quản chung, tạo<br /> hình nhỏ bể thận, nối niệu quản-bể thận<br /> (Anderson-Hyne), luồn sonde Plastic số 10<br /> qua đài bể thận thứ ba từ trên xuống qua<br /> miệng nối xuống niệu quản, còn đặt vào thận<br /> trên cùng và dưới cùng mỗi thận một sonde<br /> plastic số 10, đặt lại sond Foley số 14 vào thận<br /> thứ hai từ trên xuống để dẫn lưu, xếp lại thận<br /> vào hố thận, đặt dẫn lưu hố thận, khâu lại vết<br /> mổ bằng chỉ tiêu theo các lớp giải phẫu. Kết<br /> quả giải phẫu bệnh chỗ hẹp nối bể thận niệu<br /> quản: tổn thương viêm, xơ hoá.<br /> Sau mổ: nước tiểu qua lưu thận mỗi ngày<br /> 800 – 1100 ml và đái khoảng 1500 ml. Ngày 223-2006, bơm Telebrix qua ống dẫn lưu chụp<br /> thấy thận tráI nhỏ đi nhiều. Sau chụp, rút bỏ 3<br /> ống dẫn lưu chỉ để lại một. Ngày 2- 4- 2006,<br /> chụp đồng vị phóng xạ thận. Kết quả: chức<br /> năng thận trái là 24%, thận phải là 76%,<br /> <br /> Chuyên đề Nhi Khoa<br /> <br /> Thận phải bài tiết bình thường nhưng bài<br /> xuất hơi chậm, có giãn nhẹ đài bể thận.<br /> Thận trái chức năng giảm, thấy được hình<br /> 4 đơn vị thận, chức năng thận trên cùng<br /> tốt hơn 3 thận bên dưới (điều nàyphù hợp<br /> với nhận xét trong mổ). Ngày 3-4-2006, bệnh<br /> nhân được bơm thuốc qua ống dẫn lưu chụp<br /> thì thấy hình thận trái nhỏ lại và đã có hình<br /> thận, thấy được rõ hình ảnh 4 đơn vị thận<br /> riêng biệt, thuốc xuống bàng quang nhanh.<br /> Rút dẫn lưu và bệnh nhân ra viện. Bệnh<br /> nhân được khám lại và chụp đồng vị phóng<br /> xạ thận lần thứ 2 ngày 16-6-2006 với kết quả<br /> thận phải vẫn còn giãn nhẹ bể thận và chức<br /> năng là 75% còn thận trái có chức năng 25%<br /> và chức năng thận trên cùng vẫn tốt hơn 3<br /> thận bên dưới. Đã siêu âm thận 2 lần nữa và<br /> đang tiếp tục theo dõi bệnh nhân. Bệnh<br /> nhân trong tình trạng sức khoẻ tốt.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Chúng tôi xin bàn luận về: chẩn đoán và<br /> điều trị.<br /> <br /> Về chẩn đoán và thuật ngữ hay tên gọi<br /> Trước hết, chúng tôi nêu dị tật thận niệu<br /> quản đôi là dị tật hay gặp. Dị tật thận niệu<br /> quản đôi cũng đã có một số tên gọi khác nhau<br /> như: Thận -niệu quản đôi, niệu quản đôi, thận<br /> đôi, đường bài xuất đôi, bể thận-niệu quản<br /> đôi. Thuật ngữ thận niệu quản đôi hay được<br /> sử dụng.<br /> Thận niệu quản đôi có thể ở một hay hai<br /> bên. Hai đơn vị thận này có thể có 2 niệu quản<br /> riêng biệt được gọi là thận niệu quản đôi hoàn<br /> toàn (Duplication) hay 2 niệu quản này đổ<br /> chung vào một niệu quản trước khi đổ vào<br /> bàng quang được gọi thận- niệu quản đôi không<br /> hoàn toàn (Duplicité). Đơn vị thận phụ nằm bên<br /> trên và thường nhỏ hơn đơn vị thận dưới..<br /> Thận niệu quản ba đã có phân loại của<br /> Smith năm 1946 theo số niệu quản có và cách<br /> đổ vào bàng quang.<br /> <br /> Type 1: Ba đơn vị thận đổ vào ba niệu<br /> quản riêng biệt và có ba lỗ niệu quản trong<br /> bàng quang<br /> Type 2: Ba đơn vị thận nhưng 2 đơn vị<br /> thận có 2 niệu quản đổ chung vào một niệu<br /> quản nên có hai niệu quản đổ vào bàng quang<br /> Type 3:Ba đơn vị thận có 3 niệu quản cùng<br /> đổ vào một niệu quản chung trước khi đổ vào<br /> bàng quang.<br /> Type 4: Hai đơn vị thận có hai niệu quản lúc<br /> đầu nhưng một trong hai niệu quản đó lại tách<br /> thành hai niệu quản (Niệu quản hình chữ Y<br /> ngược) nên có ba niệu quản đổ vào bàng quang.<br /> Bệnh nhân U có tổng số 6 đơn vị thận, mỗi<br /> bên có ba mà theo thuật ngữ hay sử dụng thì gọi<br /> là thận-niệu quản ba không hoàn toàn hai bên.<br /> Theo phân loại của Smith thì thuộc type III.<br /> Bệnh nhân T theo thuật ngữ được gọi là<br /> thận niệu quản bốn không hoàn toàn, theo<br /> phân loại của Smith là là type III.<br /> Thường dị dạng nhiều thận được phát<br /> hiện khi có biến chứng hay những biểu hiện<br /> bất thường như đái rỉ, nhiễm trùng tiết niệu,<br /> thận to- đau….và về điều trị thì thường là cắt<br /> bỏ thận và niệu quản phụ. Có một số trường<br /> <br /> hợp khi phát hiện bệnh sớm, chức năng thận<br /> phụ còn thì vẫn điều trị bảo tồn.<br /> Trường hợp bệnh nhân T của chúng tôi tới<br /> bệnh viện khi có biến chứng thận căng<br /> to do ứ nước tiểu.. Sau mổ dẫn lưu thận,<br /> với lượng nước tiểu ra như vậy nên chúng<br /> tôi thấy thận trái còn chức năng. Kết quả<br /> chụp thận qua dẫn lưu lần đầu cho thấy<br /> hình ảnh thận trái nhưng do không bình<br /> thường về hình thái nên chỉ định chụp lần 2<br /> và đã thấy được một hình ảnh đặc biệt của<br /> thận bị giãn mà mọi người đều chẩn đoán là<br /> rò thận trái với đại tràng. Lần mổ thứ hai thấy<br /> thận trái giãn to, nhu mô mỏng không đều<br /> nhau giữa các thận, kết quả phẫu tích đã xác<br /> định rõ có 4 đơn vị thận và nguyên nhân gây<br /> giãn là hẹp phần nối bể thận niệu quản chung.<br /> Do hẹp phần nối này mà 4 quả thận trái bị<br /> giãn dần để tạo nên một hình ảnh đặc biệt như<br /> đại tràng.<br /> Bệnh nhân U được điều trị lần đầu lúc 3<br /> tuổi vì đái rỉ liên tục do niệu quản lạc chỗ cả 2<br /> bên, cả hai niệu quản đã được trồng lại vào<br /> bàng quang với kết quả lâu dài tốt. Triệu<br /> chứng đái rỉ liên tục hết mà chỉ còn triệu<br /> chứng són tiểu và thường vào ban đêm. Chính<br /> triệu chứng này đã gợi ý bệnh cảnh niệu quản<br /> phụ lạc chỗ ở bệnh lý thận niệu quản đôi nên<br /> bệnh nhân được mổ lần 2 để cắt bỏ thận niệu<br /> quản phụ bên phải. Sau mổ lần 2, dấu hiệu són<br /> tiểu vẫn tồn tại như trước nên bệnh nhân đã<br /> được đi khám nhiều lần tại nhiều bệnh viện<br /> khác nhau.<br /> Với khám lâm sàng kỹ, chúng tôi đã nghĩ<br /> tới khả năng són tiểu có thể do rối loạn chức<br /> năng giữ và tống thoát nước tiểu chủ động<br /> chứ không nghĩ tới niệu quản phụ lạc chỗ vì<br /> nếu niệu quản phụ lạc chỗ thì nước tiểu<br /> thường phải rỉ liên tục. Thăm khám niệu động<br /> học đã giúp chúng tôi có xác định chẩn đoán<br /> và quyết định hướng điều trị bảo tồn bằng<br /> luyện tập. Còn chẩn đoán thận niệu quản ba<br /> không hoang toàn hai bên, chúng tôi dựa vào<br /> UIV và chụp niệu quản trái ngựơc dòng.<br /> <br /> 158<br /> <br /> Để chẩn đoán dị dạng thận- niệu quản<br /> đôi, thận- niệu quản ba hoặc bốn, các dấu hiệu<br /> lâm sàng chỉ có tính gợi ý hướng về dị tật<br /> thận- niệu quản còn để chẩn đoán chính xác<br /> phải dựa vào siêu âm, X quang soi bàng<br /> quang, chụp đồng vị phóng xạ thận.<br /> Với thận- niệu quản đôi: siêu âm đơn<br /> thuần có thể chẩn đoán chính xác và hướng<br /> cho chọn cách chữa mổ bảo tồn hay cắt bỏ.<br /> Với thận- niệu quản ba hoặc bốn: do hiếm<br /> gặp nên các thầy thuốc thường không nghĩ<br /> đến, không cố tìm các dấu hiệu để có thể chẩn<br /> đoán được trước mổ. Thậm chí nếu không có<br /> kinh nghiệm thì lúc mổ cũng có thể không<br /> phát hiện ra và cắt bỏ thận chỉ với chẩn đoán<br /> thận giãn mỏng mất chức năng. hoặc thận –<br /> niệu quản phụ lạc chỗ nên cắt bỏ.<br /> <br /> Về điều trị<br /> Cần có chẩn đoán đúng về hình thái, chức<br /> năng thận- niệu quản để có chỉ định điều trị.<br /> Chức năng thận được đánh giá bằng chụp thận có<br /> tiêm thuốc cản quang vào tĩnh mạch (UIV) và đặc<br /> biệt là chụp đồng vị phóng xạ thận.<br /> Với niệu quản lạc chỗ mà chức năng thận<br /> niệu quản còn tốt thì phải phẫu thuật bảo tồn<br /> như bệnh nhân trên. Phẫu thuật bảo tồn trồng<br /> lại hai niệu quản vào bàng quang là chỉ định<br /> đúng và đã có kết quả tốt.<br /> Triệu chứng són tiểu do giảm chức năng<br /> co thắt ở cổ bàng quang nên được điều trị bảo<br /> tồn bằng luyện tập cách giữ nước tiểu và đi<br /> tiểu đúng lúc hy vọng sẽ cho kết quả tốt.<br /> Chúng tôi bảo tồn thận bốn bị giãn của<br /> bệnh nhân T, vì các lý do:<br /> - Bệnh nhân còn trẻ, mới 14 tuổi.<br /> - Sau mổ dẫn lưu: thận trái vẫn tiết nước<br /> tiểu mỗi ngày khoảng 800 ml – 1100 ml.<br /> -Thận phải cũng không hoàn toàn bình<br /> thường vì có giãn nhẹ đài bể thận và vẫn có<br /> nguy cơ phải mổ trong tương lai.<br /> Kết quả qua theo dõi chức năng thận trái<br /> bằng lượng nước tiểu hàng ngày, bằng chụp<br /> <br /> Chuyên đề Nhi Khoa<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2