intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành phần loài cá khai thác ở vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa

Chia sẻ: Hân Hân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

49
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo trình bày các kết quả điều tra, nghiên cứu về tính đa dạng loài của nguồn lợi cá khai thác ở vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) được tiến hành trong năm 2013. Kết quả phân tích đã xác định được 351 loài cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống, chủ yếu là nhóm cá đáy ven bờ và nhóm cá rạn san hô (283 loài chiếm 80,63%), nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành phần loài cá khai thác ở vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa

Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2014, tập 20: 70 - 88<br /> <br /> THÀNH PHẦN LOÀI CÁ KHAI THÁC Ở VỊNH VÂN PHONG,<br /> TỈNH KHÁNH HÒA<br /> Trần Thị Hồng Hoa, Võ Văn Quang, Nguyễn Phi Uy Vũ,<br /> Lê Thị Thu Thảo, Trần Công Thịnh<br /> Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam<br /> Tóm tắt<br /> <br /> Bài báo trình bày các kết quả điều tra, nghiên cứu về tính đa dạng loài của<br /> nguồn lợi cá khai thác ở vịnh Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) được tiến hành<br /> trong năm 2013. Kết quả phân tích đã xác định được 351 loài cá thuộc 19 bộ,<br /> 100 họ và 215 giống, chủ yếu là nhóm cá đáy ven bờ và nhóm cá rạn san hô<br /> (283 loài chiếm 80,63%), nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%). Bộ cá<br /> vược (Perciformes) gồm 50 họ (chiếm 60,68%) với sự ưu thế là họ cá khế<br /> (Carangidae) có 19 loài. Trong số 351 loài nói trên, có 68 loài được xem là<br /> những đối tượng có giá trị kinh tế như cá thu, cá ngừ, cá mú, cá cơm, cá<br /> trích, cá đối, cá phèn, cá nhồng… Trong 5 nghề chính, nghề giã cào đánh bắt<br /> được 237 loài, nghề lặn: 140 loài, lưới rạn: 158 loài, lưới giũ: 12 loài, lưới<br /> vây: 47 loài. Số lượng loài khai thác trong vụ cá nam (342 loài, chiếm<br /> 97,4%) cao hơn so với vụ cá bắc (269 loài, chiếm 76,6%).<br /> <br /> SPECIES COMPOSITION OF EXPLOITED FISHES IN VAN PHONG BAY,<br /> KHANH HOA PROVINCE<br /> Tran Thi Hong Hoa, Vo Van Quang, Nguyen Phi Uy Vu,<br /> Le Thi Thu Thao, Tran Cong Thinh<br /> Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology<br /> Abstract<br /> <br /> This paper presents the results of the survey of exploited fish resources in<br /> Van Phong bay (Khanh Hoa province) conducted in 2013. A total of 351<br /> species of fish belonging to 19 orders, 100 families and 215 genera were<br /> identified. Of which, the coastal-benthic fishes and coral reef fishes were the<br /> major groups with 283 species (80.63%) recorded; the pelagic fishes were 68<br /> species (19.37%). The order Perciformes was the most diverse with 50<br /> families (60.68%) found, in which the family Carangidae was the most<br /> common (19 species). Among 351 species mentioned above, there were 68<br /> species considered as target fishes (occupying with 19.4% of total species)<br /> such as mackerels and tunas (Scombridae), groupers (Serranidae), anchovies<br /> (Engraulidae), herrings (Clupeidae), mullets (Mugilidae), Goatfishes<br /> (Mullidae), Barracudas (Sphyraenidae)… Among the five fishing gears, the<br /> number of species caught by trawling net was the highest (237 species) and<br /> then diving (140 species), reef nets (158 species), anchovy purse seines (12<br /> species) and seines (47 species). The number of species caught in the<br /> southwest monsoon (342 species, 97.4%) was higher than that in the<br /> northeast monsoon (269 species, 76.6%).<br /> 70<br /> <br /> II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> <br /> Thực hiện 02 đợt khảo sát thu mẫu khai<br /> thác trong 2 vụ cá của năm 2013: vụ cá nam<br /> (tháng 5) và vụ cá bắc (tháng 10).<br /> Chúng tôi chọn 6 bến cá ven vịnh Vân<br /> Phong: Đầm Môn, Tuần Lễ, Vạn Giã, Xuân<br /> Tự (huyện Vạn Ninh) và Ninh Hải, Mỹ<br /> Giang (huyện Ninh Hòa) là địa điểm thu<br /> mẫu thành phần loài. Các làng nghề ven bờ<br /> suốt từ phía bắc đến nam vịnh với đầy đủ<br /> các kiểu hình hệ sinh thái đại diện cho toàn<br /> vịnh. Các mẫu vật thu thập trực tiếp từ các<br /> loại nghề đánh bắt trong vịnh (Hình 1).<br /> Nhằm đánh giá đặc điểm nguồn lợi<br /> chúng tôi khảo sát những nghề khai thác hải<br /> sản có ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế xã hội<br /> và nguồn lợi sinh vật, những nghề có sản<br /> lượng đánh bắt cao, lực lượng lao động<br /> đông đảo, sản phẩm khai thác có giá trị cao.<br /> Căn cứ vào những tiêu chí trên lựa chọn các<br /> nghề: giã cào, lặn, lưới cước đánh trên rạn<br /> (lưới rạn), lưới vây cá cơm (lưới giũ), lưới<br /> vây. Thu mẫu nguồn lợi tại 3 khu vực bến<br /> cá tập trung đại diện cho toàn vịnh: phía<br /> bắc là Đầm Môn, khu vực trung tâm Vạn<br /> Giã và phía nam là Mỹ Giang. Mỗi vụ cá<br /> thu một mẫu/nghề (Bảng 1). Đầm Môn có<br /> đội tàu công suất lớn làm nghề lưới vây,<br /> lưới cản đánh bắt xa bờ hoặc ven bờ nhưng<br /> không khai thác trong vịnh, vì vậy đối với<br /> những tàu này chỉ thu thập thông tin dùng<br /> tham khảo.<br /> Mẫu vật có thể phân tích thành phần loài<br /> ngay tại hiện trường hoặc được xử lý để<br /> chụp ảnh và được cố định bằng formaline<br /> 8%. Tất cả các mẫu cá được định loại bằng<br /> phương pháp phân loại hình thái (Pravdin,<br /> 1973). Tài liệu chính được sử dụng trong<br /> định loại dựa vào các tài liệu của Shen và<br /> cs. (1993); Allen và Steene (1996); Randall<br /> và cs. (1997) và Nakabo (2002).<br /> Phân tích, tổng hợp số liệu từ bộ mẫu<br /> thành phần loài thu thập từ 10 nghề (896<br /> con) và 20 mẫu nguồn lợi (Bảng 1).<br /> Sau khi mẫu đã định danh, chỉnh lý tài<br /> liệu, chuẩn hóa tên loài theo Froese &<br /> Pauly (2004) và Eschemeyer (1998). Tên<br /> tiếng Việt được dựa theo Danh mục cá biển<br /> <br /> Vân Phong là vịnh lớn ven bờ, có vai trò<br /> quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội.<br /> Vùng này đã được điều tra nghiên cứu tổng<br /> hợp cơ bản về điều kiện tự nhiên, thủy văn<br /> động lực, sinh vật.<br /> Đã có nhiều nghiên cứu về thành phần<br /> loài cá tại vùng biển này. Song các tài liệu<br /> nghiên cứu chủ yếu là các báo cáo khoa học<br /> chuyên đề chưa xuất bản. Các công trình<br /> nghiên cứu đã đưa ra thành phần loài cá với<br /> số lượng còn ít hoặc các kết quả chỉ hạn chế<br /> trong một số khu vực nhỏ thuộc vịnh Vân<br /> Phong (Bùi Hồng Long, 1997; Hoàng Xuân<br /> Bền, 2005). Năm 1997, Bùi Hồng Long và<br /> cs. (1997) đã xác định có 54 loài cá đáy với<br /> trữ lượng 800 - 1.700 tấn, trong đó cá tạp<br /> chiếm 65%; 8 loài cá nổi với trữ lượng 250<br /> - 300 tấn; 100 loài cá rạn san hô có trữ<br /> lượng 140 - 270 tấn; cá nước lợ gồm 20 loài<br /> có trữ lượng 3 - 5 tấn. Nghiên cứu của<br /> Nguyễn Tác An (1997) đã xác định được<br /> 159 loài và cho rằng quần xã cá khá đa<br /> dạng về thành phần loài, nhưng mật độ của<br /> chúng đều rất thấp so với các thủy vực<br /> tương tự khác ở Đông Nam Á. Tuy nhiên cả<br /> hai nghiên cứu nói trên này đều không đưa<br /> ra danh mục loài nên không thể so sánh đối<br /> chiếu.<br /> Kết quả nghiên cứu khu vực Rạn Trào đã<br /> ghi nhận có 60 loài cá rạn san hô và 114<br /> loài cá khai thác tại Xuân Tự và lân cận<br /> (Hoàng Xuân Bền, 2005). Trên cơ sở tập<br /> hợp các kết quả nghiên cứu trước đó, Võ Sĩ<br /> Tuấn và cs. (2005) đã thống kê được 114<br /> loài thuộc 45 họ và 10 bộ cá ở vịnh Vân<br /> Phong – Bến Gỏi, trong đó có 100 loài cá<br /> rạn san hô thuộc 41 giống và 23 họ với mật<br /> độ dao động trong khoảng 133 - 1.081 cá<br /> thể/400m2.<br /> Nghiên cứu này góp phần cung cấp dữ<br /> liệu về thành phần nguồn lợi cá khai thác,<br /> đồng thời làm rõ đặc điểm các nghề, mùa<br /> vụ khai thác. Kết quả này sẽ là cơ sở cho<br /> việc định hướng khai thác và sử dụng hợp<br /> lý nguồn lợi ở vịnh Vân Phong.<br /> 71<br /> <br /> Việt Nam (Nguyễn Hữu Phụng và cs.,<br /> 1994-1999). Các loài được nhập bảng danh<br /> mục và sắp xếp theo hệ thống phân loại của<br /> Lindberg (1971) (Nelson, 2006).<br /> <br /> Thống kê và quản lý các bảng dữ liệu<br /> trên phần mềm Excel.<br /> Sử dụng PRIMER 6 để phân tích mức độ<br /> giống/khác nhau về thành phần loài giữa<br /> các loại nghề.<br /> <br /> QĐ. Hoàng Sa<br /> <br /> QĐ. Trường Sa<br /> <br /> Hình 1. Sơ đồ các trạm thu mẫu ở vịnh Vân Phong<br /> Fig. 1. The sampling sites in Van Phong bay<br /> Bảng 1. Số lượng mẫu nguồn lợi cá khai thác thu thập từ các loại nghề<br /> tại các địa phương khai thác chính xung quanh vịnh Vân Phong<br /> Table 1. Number of samples collected from different fishing gears<br /> at key locations in Van Phong bay<br /> Địa điểm thu mẫu<br /> Đầm Môn<br /> Vạn Giã<br /> Mỹ Giang<br /> Tổng số<br /> <br /> Giã cào<br /> 2<br /> 2<br /> 4<br /> <br /> Lặn<br /> 2<br /> 2<br /> 4<br /> <br /> 72<br /> <br /> Nghề khai thác<br /> Lưới rạn<br /> Lưới giũ<br /> 2<br /> 2<br /> 2<br /> 2<br /> 4<br /> 4<br /> <br /> Lưới vây<br /> 2<br /> 2<br /> 4<br /> <br /> III. KẾT QUẢ<br /> 1. Cấu trúc thành phần loài cá ở vịnh<br /> Vân Phong<br /> Kết quả phân tích đã xác định được 351 loài<br /> cá thuộc 19 bộ, 100 họ và 215 giống (Phụ<br /> lục 1).<br /> Qua bảng cấu trúc thành phần loài (Bảng<br /> 2), bộ ưu thế là bộ cá vược (Perciformes)<br /> chiếm 60,68%, tiếp theo là bộ cá nóc<br /> (Tetraodontiformes) chiếm 7,41%, bộ cá<br /> bơn (Pleuronectiformes) chiếm 6,27%, bộ<br /> cá mù làn (Scorpaeniformes) và bộ cá chình<br /> (Anguilliformes) cùng chiếm 4,84%. Một<br /> số bộ chiếm tỷ lệ thấp là bộ cá Trích<br /> (Clupeiformes): 3,70%, bộ cá đối (Mugiliformes): 2,85%, bộ cá nhói (Beloniformes):<br /> 2,28%, bộ cá đèn lồng (Myctophiformes)<br /> và bộ cá chìa vôi (Syngnathiformes):<br /> 1,42%, bộ cá tráp mắt vàng (Beryciformes):<br /> 1,14% và 8 bộ khác mỗi bộ chỉ có 1 - 2 loài<br /> (< 1%).<br /> Trong các họ cá đã được phát hiện, họ cá<br /> khế (Carangidae) có số lượng loài lớn nhất<br /> (19 loài), tiếp đến là họ cá bống (Gobiidae):<br /> 15 loài, họ cá mú (Serranidae), họ cá bàng<br /> chài (Labridae) và họ cá sơn (Apogonidae)<br /> cùng có 12 loài. Các họ cá phèn (Mullidae),<br /> họ cá bướm (Chaetodontidae) và họ cá nóc<br /> (Tetraodontidae) mỗi họ đều có 11 loài.<br /> Xem xét cấu trúc thành phần loài cá khai<br /> thác ở vịnh Vân Phong cho thấy chủ yếu là<br /> nhóm cá đáy ven bờ và cá rạn san hô với<br /> 283 loài (chiếm 80,63% tổng số loài), trong<br /> đó cá rạn san hô là 135 loài (chiếm<br /> 38,46%). Các loài thuộc họ cá bàng chài, họ<br /> cá sơn, họ cá bướm, họ cá mó (Scaridae),<br /> họ cá thia (Pomacentridae)… thường xuyên<br /> có trong vịnh, đời sống gắn liền với các rạn<br /> san hô. Đặc biệt, trong vịnh có sự xuất hiện<br /> của một số loài thường sống ở vùng<br /> nước tương đối sâu như cá mắt lồi<br /> <br /> (Champsodon vorax), cá đai đuôi dài<br /> (Xiphasia setifer), cá sao sọc (Uranoscopus bicinctus) và điều này có thể do vịnh<br /> có độ sâu khá lớn nên có sự phân bố của<br /> các loài này.<br /> Nhóm cá nổi có 68 loài (chiếm 19,37%),<br /> chủ yếu là các loài thuộc họ cá khế<br /> (Carangidae), họ cá thu ngừ (Scombridae),<br /> họ cá trích (Clupeidae), họ cá cơm<br /> (Engraulidae), họ cá nhói (Belonidae), họ<br /> cá đối (Mugillidae) và họ cá liệt<br /> (Leiognathidae).<br /> So sánh với các vũng vịnh ven bờ khác<br /> cho thấy, thành phần loài cá ở vịnh Vân<br /> Phong đa dạng hơn vịnh Cô Tô – Thanh<br /> Lâm (136 loài) và vịnh Quy Nhơn (116<br /> loài) (Trần Đức Thạnh và cs., 2008), vịnh<br /> Bình Cang- Nha Phu (190 loài, Võ Văn<br /> Quang và cs., 2012). Do tính chất biển khơi<br /> của vùng nước vịnh Vân Phong (Bùi Hồng<br /> Long, 1997), không có sông suối lớn đổ<br /> vào, cùng với đó là sự đa dạng các kiểu sinh<br /> cảnh với các đảo, rạn đá, rạn san hô, thảm<br /> cỏ biển và cây ngập mặn nên thành phần cá<br /> khai thác ở đây có nguồn gốc biển chiếm ưu<br /> thế, với các loài sống trong rạn san hô và<br /> các hệ sinh thái khác đã làm cho sự đa dạng<br /> thành phần loài cá tương đối cao. Tuy cùng<br /> tính chất như nhau, nhưng vịnh Nha Trang<br /> (796 loài, Vo Si Tuan và cs., 2002) có các<br /> sông lớn đổ vào nên cũng có sự đa dạng<br /> môi trường sống cho các loài, số lượng loài<br /> cá ở đây nhiều hơn ở Vân Phong.<br /> Trong số 351 loài cá đã được phát hiện<br /> có 68 loài xếp vào nhóm cá có giá trị kinh<br /> tế gồm họ cá thu ngừ, họ cá mú, họ cá khế,<br /> họ cá mối, họ cá đối, họ cá trích, họ cá<br /> cơm, họ cá trác, cá nhồng… (Phụ lục 1).<br /> Loài cá nhói chấm (Ablennes hians) được<br /> xem là cá kinh tế của vùng (Hình 2).<br /> <br /> Hình 2. Cá Nhói chấm Ablennes hians (Valenciennes, 1846)<br /> Fig. 2. Flat needlefish Ablennes hians (Valenciennes, 1846)<br /> <br /> 73<br /> <br /> Bảng 2. Số lượng loài, giống và họ cá khai thác theo các bộ<br /> Table 2. Number of species, genera and families between orders of exploited fish<br /> Họ<br /> <br /> Bộ Cá<br /> <br /> STT<br /> <br /> SL<br /> 1<br /> 1<br /> 2<br /> 6<br /> 3<br /> 1<br /> 1<br /> 1<br /> <br /> %<br /> 1,03<br /> 1,03<br /> 2,06<br /> 6,19<br /> 3,09<br /> 1,03<br /> 1,03<br /> 1,03<br /> <br /> Giống<br /> %<br /> SL<br /> 1<br /> 0,47<br /> 2<br /> 0,93<br /> 2<br /> 0,93<br /> 12<br /> 5,58<br /> 8<br /> 3,72<br /> 1<br /> 0,47<br /> 3<br /> 1,40<br /> 1<br /> 0,47<br /> <br /> Loài<br /> SL<br /> 1<br /> 2<br /> 2<br /> 17<br /> 13<br /> 1<br /> 5<br /> 2<br /> <br /> %<br /> 0,28<br /> 0,57<br /> 0,57<br /> 4,84<br /> 3,70<br /> 0,28<br /> 1,42<br /> 0,57<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> <br /> Bộ cá đuối Rajiformes<br /> Bộ cá đuối ó Myliobatiformes<br /> Bộ cá cháo biển Elopiformes<br /> Bộ cá chình biển Anguilliformes<br /> Bộ cá trích Clupeiformes<br /> Bộ cá nheo Siluriformes<br /> Bộ cá đèn lồng Myctophiformes<br /> Bộ cá tuyết Gadiformes<br /> <br /> 9<br /> 10<br /> <br /> Bộ cá chồn Ophidiiformes<br /> Bộ cá nhái Lophiiformes<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> <br /> 1,03<br /> 1,03<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> <br /> 0,47<br /> 0,47<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> <br /> 0,28<br /> 0,28<br /> <br /> 11<br /> 12<br /> 13<br /> 14<br /> 15<br /> 16<br /> 17<br /> 18<br /> 19<br /> <br /> Bộ cá suốt Atheriniformes<br /> Bộ cá nhói Beloniformes<br /> Bộ cá tráp mắt vàng Beryciformes<br /> Bộ cá chìa vôi Syngnathiformes<br /> Bộ cá mù làn Scorpaeniformes<br /> Bộ cá đối Mugiliformes<br /> Bộ cá vược Perciformes<br /> Bộ cá bơn Pleuronectiformes<br /> Bộ cá nóc Tetraodontiformes<br /> <br /> 1<br /> 3<br /> 1<br /> 2<br /> 8<br /> 3<br /> 50<br /> 6<br /> 5<br /> <br /> 1,03<br /> 3,09<br /> 1,03<br /> 2,06<br /> 8,25<br /> 3,09<br /> 51,55<br /> 6,19<br /> 5,15<br /> <br /> 1<br /> 6<br /> 3<br /> 3<br /> 15<br /> 6<br /> 117<br /> 15<br /> 17<br /> <br /> 0,47<br /> 2,79<br /> 1,40<br /> 1,40<br /> 6,98<br /> 2,79<br /> 54,42<br /> 6,98<br /> 7,91<br /> <br /> 1<br /> 8<br /> 4<br /> 5<br /> 17<br /> 10<br /> 213<br /> 22<br /> 26<br /> <br /> 0,28<br /> 2,28<br /> 1,14<br /> 1,42<br /> 4,84<br /> 2,85<br /> 60,68<br /> 6,27<br /> 7,41<br /> <br /> Tổng số<br /> <br /> 97<br /> <br /> 100,00<br /> <br /> 215<br /> <br /> 100,00<br /> <br /> 351<br /> <br /> 100,00<br /> <br /> 2. So sánh tính chất thành phần loài cá<br /> giữa các nghề khai thác<br /> <br /> Phân tích nhóm trung bình dựa trên ma<br /> trận giống nhau Bray-Curtis cho thấy có sự<br /> khác nhau về tính chất thành phần loài giữa<br /> các nghề khai thác. Nghề lặn và lưới rạn có<br /> mức độ giống nhau cao nhất (khoảng 71%)<br /> có thể do phạm vi hoạt động của các nghề<br /> này giống nhau, đánh bắt chủ yếu trên và<br /> xung quanh các rạn san hô nên thành phần<br /> khai thác chủ yếu là nhóm cá rạn. Nghề giã<br /> cào sản phẩm đánh bắt khá đa dạng và có<br /> sự tương đồng với nghề lưới rạn (khoảng<br /> 52%) và với nghề lặn (khoảng 38%). Nghề<br /> lưới giũ và lưới vây đánh bắt các loài cá nổi<br /> với mức độ giống nhau của hai nghề này<br /> với các nghề còn lại thấp (< 20%) (Hình 4).<br /> Các làng nghề mỗi vùng có các thế mạnh<br /> riêng. Đầm Môn nằm gần cửa vịnh, độ sâu<br /> lớn, tại đây có đội tàu đánh bắt rất hiện đại,<br /> công suất lớn nên các nghề đánh bắt thường<br /> <br /> Trong vùng vịnh Vân Phong các nghề khai<br /> thác cá khá đa dạng gồm nghề đăng, giã<br /> đơn, lưới vây cá cơm (lưới giũ), lưới trũ<br /> bao ánh sáng, cản, vây, pha xúc, vó mành,<br /> lưới cước, soi bộ, lặn đêm (săn), lặn ngày,<br /> lưới cước đánh trên rạn (lưới rạn), câu, soi<br /> bộ, lội bộ, lưới rùng, lưới quây… Kết quả<br /> phân tích thành phần loài cá theo các loài<br /> nghề ghi nhận có 338/351 loài thuộc 95 họ<br /> và 18 bộ được ghi nhận trong 5 nghề chính<br /> ở Đầm Môn, Vạn Giã, Mỹ Giang. Trong đó<br /> nghề giã cào có thành phần đa dạng nhất<br /> (237 loài), tiếp theo là lặn (140 loài), lưới<br /> rạn (158 loài), lưới giũ (12 loài) và lưới vây<br /> (47 loài). Tỷ lệ thành phần loài cá theo nghề<br /> khai thác ở vịnh Vân Phong thể hiện qua<br /> biểu đồ hình 3.<br /> 74<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2