VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 35-40<br />
<br />
THIẾT KẾ TÌNH HUỐNG HỌC TẬP<br />
NHẰM ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC TÍNH TOÁN CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC<br />
Phạm Thị Kim Châu - Trường Đại học Đồng Tháp<br />
Ngày nhận: 19/06/2018; ngày sửa chữa: 26/11/2018; ngày duyệt đăng: 30/11/2018.<br />
Abstract: The learning situation provides students with opportunities to interact, experience and<br />
express calculatical behavior. This article briefly presenst the characteristics of how to design a<br />
learning situation. The design of the learning situation helps teachers orient their observation,<br />
creating the opportunity to collect evidence. The evidence is a basis for assessing students’<br />
calculation capacities.<br />
Keywords: Learning situation, assessment, calculation capacity, primary students.<br />
1. Mở đầu<br />
Hiện nay, đánh giá (ĐG) học sinh (HS) tiểu học thực<br />
hiện theo Thông tư 22, ngày 22/09/2016 của Bộ GD-ĐT<br />
[1]. Thông tư này nhấn mạnh việc ĐG năng lực HS qua<br />
quan sát các hành vi và sản phẩm của quá trình hoạt động.<br />
Các hành vi và sản phẩm của quá trình tính toán của HS<br />
có thể được bộc lộ qua nhiều hình thức khác nhau, chẳng<br />
hạn qua sản phẩm các bài kiểm tra, vở bài tập, vở nháp<br />
và qua quá trình tương tác của HS khi làm việc nhóm đối<br />
với các nhiệm vụ học tập. Tuy nhiên, việc đánh giá học<br />
sinh thông qua các tình huống học tập là cần thiết và cũng<br />
phù hợp với xu hướng đánh giá của thế giới, chẳng hạn<br />
như vấn đề đánh giá thực (authentic assessment), đánh<br />
giá qua tình huống (situational assessment), ...[2].<br />
Bài viết trình bày năng lực tính toán của học sinh tiểu<br />
học và cách thức thiết kế tình huống học tập (THHT), tạo<br />
cơ hội cho HS tương tác trải nghiệm bộc lộ các hành vi<br />
tính toán, đó là cơ hội để chúng tôi quan sát, thu thập<br />
minh chứng làm cơ sở đánh giá năng lực tính toán<br />
(NLTT) của học sinh.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Năng lực tính toán của học sinh tiểu học<br />
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về<br />
NLTT, tuy nhiên các quan niệm đều xem NLTT là năng<br />
lực (NL) chung. Trong giáo dục phổ thông, các môn học<br />
đều góp phần phát triển NLTT, trong đó toán học có ưu<br />
thế hình thành và phát triển NL này cho HS. NLTT cần<br />
cho nhiều người, nhiều lĩnh vực nhưng trong toán học có<br />
đặc trưng riêng, chúng tôi tiếp cận NLTT theo hướng<br />
NLTT gắn với toán học của HS tiểu học, nghĩa là: NLTT<br />
là năng lực xử lí các thông tin, các quan hệ, các mối liên<br />
hệ về lượng trong giải quyết các THHT ở tiểu học. Các<br />
thành tố của NLTT gồm NL sử dụng các phép tính, công<br />
thức, quy tắc, quy trình; NL sử dụng công cụ toán; NL<br />
sử dụng các kĩ thuật tư duy; NL sử dụng ngôn ngữ toán<br />
và NL mô hình hoá toán học [2]. Các hành vi tính toán<br />
<br />
35<br />
<br />
của HS thể hiện liên tục trong suốt quá trình hoạt động<br />
và khó có thể lượng hoá được nên việc đánh giá NLTT<br />
cần được thực hiện bằng phương pháp quan sát khi HS<br />
đang hoạt động trong một THHT nào đó. Đây là dạng<br />
ĐG vì quá trình học, vì sự tiến bộ của người học.<br />
2.2. Quan niệm về tình huống học tập<br />
Theo Hoàng Phê (2011), tình huống là sự diễn biến<br />
của tình hình, về mặt cần phải đối phó [3; tr 1280]. Ở đây<br />
có thể hiểu tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra<br />
tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người<br />
ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, tìm cách giải quyết.<br />
Theo Nguyễn Bá Kim (2015), một tình huống được hiểu<br />
là một hệ thống phức tạp gồm chủ thể và khách thể, trong<br />
đó chủ thể có thể là người, còn khách thể lại là một hệ<br />
thống nào đó [4; tr 132]. Trong đó, khái niệm hệ thống<br />
có thể là những sự kiện, hiện tượng diễn ra dẫn tới một<br />
vấn đề cần giải quyết. Mặt khác, theo tâm lí học, học tập<br />
được hiểu là sự biến đổi hợp lí hoạt động và hành vi,<br />
nhưng không phải do các thuộc tính bẩm sinh của cơ thể<br />
[5; tr 118-119]. Kế thừa các quan niệm nêu trên, chúng<br />
tôi tiếp cận THHT theo nghĩa: THHT là sự trình bày hoặc<br />
mô phỏng các sự kiện nhằm đưa ra một vấn đề chưa<br />
được giải quyết và qua đó đòi hỏi HS phải trải nghiệm<br />
các hoạt động tính toán thì mới giải quyết được. Chúng<br />
tôi xem xét THHT theo hai dạng: Tình huống toán học<br />
thuần tuý và tình huống thực tiễn.<br />
- Tình huống toán học thuần tuý: Là tình huống chỉ<br />
giải quyết vấn đề đặt ra trong nội bộ toán học với các<br />
yêu cầu chỉ liên quan đến tri thức toán học. Chẳng hạn:<br />
Viết thêm 10 số trong dãy số sau: 1, 1, 2, 3, 5,...; có bao<br />
nhiêu đoạn thẳng trong hình?<br />
- Tình huống thực tiễn: Là một tình huống mà khách<br />
thể của nó chứa đựng các yếu tố mang nội dung thực<br />
tiễn, trong đó tồn tại ít nhất một câu hỏi, một yêu cầu hay<br />
một nhiệm vụ đòi hỏi HS phải trải nghiệm các hoạt động<br />
tính toán thì mới giải quyết được. Ví dụ: “Ở đô thị, mỗi<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 447 (Kì 1 - 2/2019), tr 35-40<br />
<br />
S5<br />
<br />
Hình 1.<br />
bên vỉa hè các con đường người ta thường trồng một<br />
hàng cây xanh, cây xanh vừa tạo bóng mát vừa hạn chế<br />
ô nhiễm môi trường vừa tạo vẻ mĩ quan đô thị. Người ta<br />
tiến hành trồng cây xanh dọc theo 2 bên vỉa hè của đường<br />
Lê Văn Tám dài 1500 mét vừa mới thi công xong, cứ 15<br />
mét trồng một cây. Hỏi trồng được bao nhiêu cây?”.<br />
2.3. Đặc trưng của tình huống học tập<br />
Chúng ta biết rằng không phải tất cả các nhiệm vụ<br />
tính toán có thể được mô phỏng một cách đầy đủ trong<br />
một tình huống. Tuy nhiên, để khuyến khích HS bộc lộ<br />
các biểu hiện của NLTT, chúng tôi cho rằng THHT cần<br />
đảm bảo một số đặc trưng sau:<br />
2.3.1. Tình huống học tập phải tạo cơ hội cho học sinh<br />
hoạt động trải nghiệm<br />
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể xác định<br />
“Hoạt động trải nghiệm sáng tạo được tổ chức trong và<br />
ngoài lớp học, trong và ngoài trường học; được thực hiện<br />
theo quy mô nhóm, lớp học, khối lớp hoặc quy mô<br />
trường” [6; tr 26]. Như vậy, ở tiểu học, các hoạt động<br />
giáo dục trong nhà trường được tổ chức phù hợp với bản<br />
chất hoạt động của con người đều được coi là hoạt động<br />
trải nghiệm sáng tạo. Do đó không nên hiểu một cách<br />
cứng nhắc là bắt buộc phải tổ chức hoạt động cho HS<br />
ngoài trời hay hoạt động tay chân mới là trải nghiệm. Khi<br />
HS tham gia trực tiếp vào hoạt động trên lớp hay những<br />
hoạt động trí tuệ nghĩa là HS đã được trải nghiệm. Bài<br />
viết này, chúng tôi tiếp cận loại hoạt động trải nghiệm<br />
trên lớp trên các THHT.<br />
Ví dụ: “Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài<br />
gấp ba chiều rộng. Nếu giảm chiều rộng 1m sau đó tăng<br />
chiều dài 1m thì diện tích thửa ruộng giảm 7m2. Tính<br />
diện tích thửa ruộng ban đầu?”.<br />
Để giải quyết vấn đề này, HS phải trải nghiệm các<br />
hoạt động trí tuệ để quy lạ về quen, có thể chuyển đổi<br />
hình thức đối tượng về mô hình như hình 1a. Vì