intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn Du nhìn từ cảm quan văn hóa người Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

36
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi thấy có một tinh thần Việt thấm đẫm trong những trang viết, đặc biệt là những câu viết về thiên nhiên. Ở đó, thiên nhiên được nhìn nhận trong cảm quan văn hóa Việt với những màu sắc dân tộc và đường nét uyển chuyển mềm mại, đặc biệt là cảm quan tính giao vũ trụ và tín ngưỡng thường nhật chi phối cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Nguyễn Du.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thiên nhiên trong truyện Kiều của Nguyễn Du nhìn từ cảm quan văn hóa người Việt

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 THIÊN NHIÊN TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU NHÌN TỪ CẢM QUAN VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT NGUYỄN QUỐC KHA Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Email: nguyenkha259@gmail.com Tóm tắt: Có nhiều con đường để giải mã tác phẩm văn học, trong đó có cách giải mã từ góc nhìn văn hóa. Tìm hiểu cảm thức thiên nhiên của một dân tộc cũng là một cách tìm hiểu văn hóa của dân tộc đó vì mỗi dân tộc có những cách ứng xử văn hóa khác nhau đối với thiên nhiên. Khảo sát Truyện Kiều, chúng tôi thấy có một tinh thần Việt thấm đẫm trong những trang viết, đặc biệt là những câu viết về thiên nhiên. Ở đó, thiên nhiên được nhìn nhận trong cảm quan văn hóa Việt với những màu sắc dân tộc và đường nét uyển chuyển mềm mại, đặc biệt là cảm quan tính giao vũ trụ và tín ngưỡng thường nhật chi phối cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Nguyễn Du. Có thể nói ẩn sâu dưới cảm thức thiên nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là những vỉa tầng văn hóa Việt. Tìm hiểu cảm thức thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một cách khám phá văn hóa Việt thú vị. Từ khóa: Thiên nhiên, Truyện Kiều, văn hóa. 1. MỞ ĐẦU Thiên nhiên tồn tại xung quanh con người. Tuy nhiên, mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, dân tộc sẽ tùy theo thời đại, vùng địa lý và cá tính mà cảm nhận về thiên nhiên khác nhau. Với đặc trưng văn hóa gốc nông nghiệp, người phương Đông (trong đó có cộng đồng người Việt) đã biết dựa vào tự nhiên để tồn tại. Các nền văn minh nhân loại như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa đều khởi phát từ các con sông lớn như sông Nil, sông Ấn, Sông Hằng, sông Hoàng Hà... Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp đã dạy con người cách sống hài hòa với thiên nhiên để có thể tồn tại và phát triển. Chính thế mà trong tâm thức mỗi con người phương Đông đều thấy mình là một phần không thể thiếu của thiên nhiên thanh sạch, thuần khiết. Điều này ánh xạ vào tôn giáo, triết học rồi đi vào văn chương. Đứng trong nguồn mạch chung đó, thiên nhiên trở thành mạch ngầm tươi mát xuyên suốt dòng văn học người Việt từ bao đời. Tìm hiểu cảm thức thiên nhiên của một dân tộc cũng là một cách tìm hiểu văn hóa. Có dân tộc coi thiên nhiên là một thế giới khách quan, một đối tượng để khai thác nguồn lợi và để chinh phục; có dân tộc lại coi thiên nhiên là “tạo vật của Thượng đế” trong một thế đối trọng với con người; Cũng có dân tộc coi thiên nhiên chính là bản thân “tạo hóa” (zoka), là sáng tạo và chuyển hóa liên tục; lại có dân tộc coi thiên nhiên và con người là đồng nhất thể.Từ đó, có thể nhận thức rằng ẩn sâu dưới cảm thức thiên nhiên của mỗi dân tộc là những vỉa tầng văn hóa. Tìm hiểu cảm thức về thiên nhiên là một cách giao cảm với người khác và giao cảm với chính thiên nhiên. Truyện Kiều từ lâu đã được coi là thiên tuyệt bút của văn học Việt Nam. Đắm mình trong văn hóa dân tộc, Nguyễn Du đã tiếp cận thiên nhiên từ cảm quan văn hóa người Việt, để từ một Kim Vân Kiều truyện của nước ngoài trở thành một Truyện Kiều mang hồn cốt dân tộc Việt. Có thể nói, có một tâm thức dân tộc Việt chảy trong những câu Kiều viết về thiên nhiên. 2. NỘI DUNG 2. 1. Thiên nhiên trong Truyện Kiều- Từ sắc màu phương Đông đến sắc màu dân tộc Quan niệm về màu sắc của người phương Đông là một vấn đề khá phức tạp, bởi nó có liên quan đến rất nhiều vấn đề như quan niệm Triết học, Đạo giáo và Thuật Phong thủy. Những 26
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019 quan niệm về màu sắc ở phương Đông ngoài thuyết ngũ hành, ngũ sắc còn nhiều quan niệm gắn liền với Đạo giáo, với phương pháp tu tâm dưỡng tính, với Thiền… Màu sắc phương Đông thường xoay quanh các hệ màu: Màu sắc ngũ hành, hệ sáu màu chính, hệ bảy sắc cầu vồng. Hệ ngũ hành ngũ sắc: Kim tương ứng với Trắng, Mộc tương ứng với Xanh, Thủy tương ứng với Đen, Hỏa tương ứng với Đỏ, Thổ tương ứng với Vàng. Hệ sáu màu: Trắng, đỏ, vàng, xanh lục, xanh và đen. Hệ sáu màu khởi đầu từ Trắng chỉ về Dương cho đến cuối cùng của hệ màu này là màu Đen chỉ về Âm. Nếu trộn lẫn sáu màu này thì tượng trưng cho vũ trụ vạn vật. Các nhà tu Đạo cho rằng màu Trắng tượng trưng cho bề mặt phiến đá, màu Đen chỉ cõi thâm u của vũ trụ. Đây là cặp màu tựng trưng cho sự mâu thuẫn, xung hợp; không có Đen thì không thấy Trắng và ngược lại. Nói một cách sâu xa hơn thì nó là hình tượng của cặp màu Đen - Trắng như màu của thái cực, lưỡng nghi, Trắng sinh Đen, Đen chuyển thành Trắng, Âm sinh Dương và ngược lại. Còn hệ bảy màu tượng trưng cho bảy sắc cầu vồng. Đây là quan điểm có tính chất khoa học, quam điểm này nói lên rằng màu sắc tạo ra năng lượng và ánh sáng. Việt Nam là một nước nhiệt đới, sản vật phong phú với bốn mùa trong năm tạo nên những tông màu lớn nhiều sắc độ tự nhiên. Bốn mùa luân chuyển nhau với những mảng màu rực rỡ từ tự nhiên đã tạo cho con người một cái nhìn tươi sáng về màu sắc. Màu sắc dân tộc được thể hiện đậm nét nhất trong tranh dân gian Đông Hồ với những chất liệu mộc mạc thuần Việt và cách chế màu dân dã. Màu sắc mô phỏng thiên nhiên tươi sáng rực rỡ, ưa nhìn không cầu kỳ thể hiện tâm hồn khoáng đạt, mạnh mẽ của dân tộc Việt. Quan niệm về màu sắc của từng dân tộc qua nhiều thời đại khác nhau, nó tạo nên nét đặc biệt trong văn hóa từng vùng miền dân tộc. Người Việt thời xưa thích những màu trầm như quần lĩnh, áo thâm, quần đen, áo nâu - nó thể hiện sự giản dị mà sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng màu sắc trong lễ hội lại thể hiện một cái nhìn khác trong cuộc sống đó là tinh thần lạc quan, tươi trẻ đầy sức sống với những gam màu mạnh như: xanh, đỏ, tím, vàng… được thể hiện qua trang phục mớ ba, mớ bảy, yếm thắm thắt dây lưng hồng đặc sắc trong ngày lễ hội. Khác với dân tộc Việt, các dân tộc thiểu số lại thích những màu trắng (màu tự nhiên của bông, lanh…) màu chàm, màu đỏ, màu vàng, màu đen , màu xanh… do nhuộm lá cây, nước quả củ rừng, đất sét, gạch non… với nhiều mô típ khác nhau không chỉ để trang trí mà còn thể hiện niềm tin tôn giáo. Chúng ta có thể tìm thấy “đặc điểm tâm lý dân tộc qua cách miêu tả” màu sắc, từ đó thấy rằng dân gian ta thường “thiên về miêu tả những gam màu tươi tắn, sáng sủa” [11, tr.214]. 27
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng miêu tả thiên nhiên dưới cái nhìn dân tộc với những sắc màu phong phú. Trước hết là gam màu nóng. Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều đã thống kê được tỷ lệ số lần nhắc đến các màu sắc: màu vàng kim chiếm 30,25%, Hồng (đào, thắm) đào chiếm 30,25%, Xanh chiếm 10,80%, Vàng chiếm 6,60%, Bạc chiếm 7,06%. Như vậy, có thể thấy gam màu tươi sáng chiếm một số lượng lớn trong tác phẩm với “mây bạc xa xa”; “áng mây vàng”; “thỏ bạc ác vàng”; “Cát vàng”; “bụi hồng”; “khói biếc”; “non phơi bóng vàng”; “Rừng thu từng biếc xen hồng”… Đây là những gam màu theo quan niệm dân gian là gam màu chỉ dành cho tầng lớp vương giả (vua quan mặc áo gấm nhiều màu, dân thường áo nâu sồng dân dã). Các công trình nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra “Triều đình thời Trần mấy lần quy định chế độ mũ áo cho các quan văn, quan võ, còn đối với nhân dân, chỉ được biết là trừ phụ nữ không bị cấm, còn không ai được mặc màu trắng... Các màu xanh, đỏ, vàng, tía, cũng không dùng” [5, tr.95-102]. Tương tự như vậy là các quy định về màu sắc thời chúa Trịnh, vua Lê... Tựu chung lại, màu vàng và màu đỏ là màu dành riêng cho vua chúa. Đến đời Nguyễn, quan nhất phẩm mới được mặc màu đỏ [5, tr.95-102]. Đặc biệt trong số các màu nóng thì màu hồng trở nên nổi bật. Nguyễn Du đã “đem lại cho Kiều một trường màu hồng… minh họa nàng Kiều mà thiếu màu hồng, hoặc màu hồng không chiếm vị trí chủ đạo thì không phải là nàng Kiều của Nguyễn Du” [9, tr.258]. Truyện Kiều viết về tầng lớp trên và chịu ảnh hưởng của hệ thồng thi pháp trung đại nên việc sử dụng nhiều gam màu nóng cũng là điều dễ hiểu. Những màu sắc này tạo cho Truyện Kiều nét sang trọng, vương giả, cao quý. Đồng thời, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sự tồn tại của cái đẹp, cái cao quý giữa cuộc sống tối tăm, xô bồ, lọc lừa. Trong văn hóa Việt Nam nói chung, khi sử dụng màu sắc thì hệ ngũ sắc thường được sử dụng phổ biến. Hệ ngũ sắc cơ bản bao gồm 5 màu đại diện cho 5 yếu tố thiên nhiên: Trắng (Kim) - Xanh (Mộc) - Đen (Thủy) - Đỏ (Hỏa) và Vàng (Thổ). Trong Truyện Kiều, hệ ngũ sắc cũng được Nguyễn Du sử dụng khi miêu tả thiên nhiên. Riêng với màu đỏ, Trần Đình Sử cho rằng “chưa thấy màu đỏ, nên lá đỏ thì chuyển thành lá thắm, hoặc lá hồng (“từng biếc xen hồng”). Trong nhóm màu đỏ, ngoài hồng còn có thắm, son, đào…” [9, tr.259]. Sử dụng hệ ngũ sắc trong miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du đã đưa người đọc chạm vào ký ức dân tộc. Màu sắc là tâm hồn của một dân tộc thuộc về mặt tâm lý và phong tục, màu sắc không thể tách rời khỏi môi trường nuôi sống con người, nó tạo nên nét đặc sắc cho từng dân tộc, thể hiện đời sống tinh thần của dân tộc đó. Qua cách sử dụng màu sắc, Nguyễn Du đã cho thấy sự tinh nhạy trong việc nắm bắt màu sắc của sự vật. Chính nhờ sự nắm bắt đó mà ông đã diễn tả được nhiều cung bậc tình cảm thể hiện trong cảnh vật, khiến cảnh vật trở nên có hồn. Đáng chú ý trong màu sắc của cụ Nguyễn là ở việc sử dụng “sắc màu cảm xúc”, nghĩa là sắc màu của tình cảm nhuốm lên không gian, cảnh vật, không khí… bao quanh con người. Cách nói này trong ca dao dân tộc cũng thường được sử dụng: “Cưới em chín quả cau vàng/Cưới em chín chục họ hàng ăn chơi… Bướm vàng, bướm trắng, bướm xanh/Bay qua lượn lại, quấn quanh vườn đào…”. Màu vàng, trắng, xanh ở đây không miêu tả trực tiếp sắc màu của tự nhiên mà là màu sắc của tâm lí, đó là sự hân hoan đầm ấm của đôi lứa nên duyên dù trong cảnh khó khăn thiếu thốn. Hay cái màu xanh, từ con mắt xanh của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập muôn thuở gợi lên sự ưu ái - đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông: “Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc/Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh” đến câu thơ: “Leo lẻo doành xanh con mắt mèo” với “Cách nhìn thật là mới, thật khám phá, nhưng cũng có thể có người lại cho là…. Tây” [12, tr.28] cho đến sau này trong văn học hiện đại: “Xòe hoa xanh thắm những hoa xòe” (Phan Duy Nhân); “Bao la là mộng xanh ngần, là thơ” (Xuân Hoàng)… Màu sắc tâm lý xuất hiện trong Truyện Kiều khá phổ biến. “Màu quan san” là sự xa xôi cách trở bao trùm lên Lâm Truy khi chàng Thúc vừa dứt áo ra đi với bao nhiêu dự cảm xa cách. 28
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019 “Màu khơi trêu” là màu của đám lau sậy hay cũng là màu kiếm tìm trong vô vọng của Kim Trọng. “Mây trắng một màu” gợi tích Địch Nhân Kiệt đời Đường nhìn đám mây trắng mà nhớ nhà, nay Kiều nơi đất khách quê người trông đau cũng chỉ thấy một màu trắng xóa nên nỗi nhớ càng triền miên day dứt. “Màu bao la” của sông Tiền Đường, của không gian bao la rộng lớn, trang trọng, nơi chứng giám cho tấm lòng của nàng Kiều sau cái chết của Từ Hải. “Màu quan tái” là nỗi khao khát nhớ nhung của Thúc Sinh những ngày ở quê nhà. Như vậy, những sắc màu này không nhằm tả thực cảnh vật mà dùng để biểu hiện tâm lý con người. Nét đặc sắc trong nghệ thuật màu sắc của Nguyến Du thu hút người đọc có lẽ cũng đến từ những sáng tạo về màu sắc tâm lý ấy. Nói như Trần Đình Sử là “một nét nghệ thuật hiếm có trong nghệ thuật truyện Nôm của Việt Nam” [9, tr.267]. 2.2. Thiên nhiên dân dã trong cảm quan đời sống thường nhật Sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt vùng nhiệt đới, việc duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu thiết yếu nhất của người Việt. Chính vì thế mà người ta chú ý nhiều đến những vấn đề trước mắt mang tính hiện sinh. Mọi tín ngưỡng của người Việt, chính vì thế, hầu như đều bắt nguồn từ đời sống thường nhật. Các vị Thần, Tổ, Mẫu, Thánh (các nhân thần) dù siêu phàm đến đâu, thần lực mạnh đến đâu cũng thường có nguồn gốc từ con người, từ con người mà đi lên, thăng hoa thành các Tổ, các Mẫu, các Thánh trong trí tưởng tượng hàm ơn của người Việt. Dù họ là thần linh thì vẫn rất gần gũi với người dân. Điều này khác hẳn với thần linh trong tâm thức phương Tây vốn có một khoảng cách giữa người và thần. Có thể nói, người Việt rất coi trọng những yếu tố của đời sống thường nhật. Thứ tín ngưỡng thiên về những yêu tố trong đời sống thường ngày hầu như chi phối cả cảm thức thiên nhiên của người Việt. Xét trong Truyện Kiều, ta thấy xuất hiện đấng ngự trị là ông trời. Trời trong Truyện Kiều còn được gọi bằng hóa công, con tạo, ông tơ... Thượng đế (tức trời) và do đó cõi trời “là định đề của toàn bộ nhãn quan của con người trung đại về thế giới” [1]. Thuộc về cõi trời còn có các tinh tú khác và chúng cũng chiếu ứng tới thân phận con người như trăng: “Trăng già độc địa làm sao/Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên”. Trăng ở đây là “nguyệt lão”, “nguyệt quái”. Trong cõi trời, thế lực chính là ông trời và hành tung của ông ấy là “mệnh trời” chi phối phần lớn chủ đề, giọng điệu, số phận nhân vật, cách thức Nguyễn Du giải thích về cuộc đời. Dưới mệnh của trời, con người trở nên cực kỳ bé nhỏ, mong manh: “Rằng tôi bèo bọt chút thân”, “Rằng tôi chút phận đàn bà”… Vì thế, con người trong Truyện Kiều không còn quyền tự quyết, mà bị định đoạt. Trời trong Truyện Kiều có tính cách, có quyền uy vô lượng, sắp đặt và điều khiển mọi điều ở trần gian. Trời có thể cho tác hợp hay phân ly: “Ông tơ ghét bỏ chi nhau/Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi”. Trời cũng có thể ban phát tư chất cho con người, định đoạt những phẩm chất và năng lực của con người: “Thông minh vốn sẵn tính trời”. Trời còn là đấng tối cao để con người kêu than nỗi oan khốc: “Oan này còn một kêu trời nhưng xa”. Trời cũng là thế lực ấn định vận rủi may: “Rủi may âu cũng sự trời”… Nhưng Trời trong Truyện Kiều cũng rất “người”, rất gần gũi và bình dị khi cũng có những sân si ganh ghét thường tình: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, hay sống phũ phàng, thậm chí vô tâm: ‘Phũ phàng chi bất hóa công”, lại có lúc tùy hứng, tùy ý không theo khuôn phép: ‘Khuôn thiêng dù phụ tấc thành/Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời”... Nguyễn Du khuyên người ta đừng “trách lẫn trời gần, trời xa” nhưng ông cũng không thôi tin vào khả năng của con người (Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều), bởi vì theo ông, con người có “thiện căn” (Thiện căn ở tại lòng ta). Thơ ca Việt Nam miêu tả thiên nhiên thường ít gợi lên cái thiêng liêng mà gợi lên cuộc sống thường ngày, công việc thường ngày: “Lên non đón gió lấy trầm/Xui ong làm mật, giục tằm nhả tơ”. Trong câu ca dao, kẻ lên non đón gió tìm trầm kia, một chàng trai người Việt nào 29
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 đấy, phải chăng là đang theo một tín ngưỡng gọi là “Đời sống thường nhật”? Anh ta không kiếm tìm những thứ xa vời mà đến với những thứ rất đỗi bình dị trong đời sống. Nghệ sĩ, nhà thơ, nhà văn Liban Kahlil Gibran đã viết ở bài Về tôn giáo trong tập Kẻ tiên tri: “Cuộc sống hàng ngày của các bạn là đền thờ và là tôn giáo của các bạn. Khi nào vào đền thờ ấy, hãy mang theo mọi thứ mình có” [6, tr.111]. Phải chăng mọi tín ngưỡng, mọi tôn giáo đều có chung một đích đến là cuộc sống thường nhật? Tiên, thần, phật, đạo cuối cùng cũng chỉ phục vụ cho một ước muốn có cuộc sống thường nhật tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc hơn? Chính tín ngưỡng đời sống thường nhật đã ăn sâu vào cội rễ dân tộc mà trong văn chương Việt, những thế lực tối cao đều mang một dáng vẻ hiền hòa gần gũi đến thân thuộc. Khi nhắc đến Phật và Tiên ở động Hương Tích, Hồ Xuân Hương nhìn rất dân dã, rất Việt Nam: “Người quen cõi Phật chen chân xọc/Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm” (Động Hương Tích). Dường như trong tâm thức người Việt thì Tiên, Phật không phải là đấng tối cao xa vời trên thượng giới như kiểu của phương Tây mà đã được “người hóa”, trở nên gần gũi với đời sống thường ngày. Chẳng thế mà ở ta Thần, Thánh, Phật đều xuất hiện khắp nơi trong nhà, trở thành ông bà hiển linh trong nhà, trở thành “Bà chúa’, thành “Ông”, mỗi khi làm gì, đi đâu đều thắp nhang khấn vái để “báo cáo”, để “xin” như một người con đối với đấng sinh thành, rồi khắp nơi xuất hiện nhiều đền thờ với danh là “Cô”, “Cậu” một cách chung chung và mọi người đều coi họ là một người thân, là “người nhà” luôn dõi theo và phù trợ cho họ… Trở lại với Truyện Kiều, có thể nhận ra cảm quan đời sống thường nhật đã chi phối cảm thức thiên nhiên của Nguyễn Du như một đặc điểm tâm lý dân tộc. Cụ Nguyễn không lý tưởng hóa tự nhiên, hay nói khác đi là “văn chương phương Đông không lý tưởng hóa tự nhiên”. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du rất ít thể hiện sự ngạc nhiên hay niềm ngưỡng mộ tự nhiên, bởi ông thấy con người là một phần trong ấy. Tự nhiên là cái gần gũi cận kề mà hàng ngày ta chạm phải. Đó là ngọn cỏ, là chân trời, là cành hoa lê trắng trong một ngày xuân tươi đẹp chị em Thúy Kiều tản bước chơi xuân. Đó là những búi cỏ dại, lau lách um tùm nơi vườn Thúy ngày chàng Kim trở về tìm người cũ. Đó là cánh én, là cỏ mọc lan mặt đất, là rêu phong, là gai góc, cây bụi bên hiên nhà vắng. Chính vì cảm nhận con người là một phần của tự nhiên mà sinh ra cảm thức về sự hài hòa giữa con người với thế giới. Trong tâm thế của Nguyễn Du, người ta thấy một tâm hồn đối với thiên nhiên rất sâu nặng. Trong khắp các trang viết, không chỉ thấy vẻ đẹp mà còn thấy một tấm lòng tha thiết với cảnh vật. Đó là tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên vô tận, với vẻ đẹp tráng mĩ, hùng vĩ của núi cao vực sâu, cũng có thể là vẻ giản dị, gần gũi của nhành hoa, ngọn cỏ, cánh nhạn, con kiến, con dế... Tâm hồn cụ Nguyễn đã có sự gặp gỡ và đồng cảm với sáng tác của nhiều tác giả phương Đông khác. Mạnh Hạo Nhiên trong bài Xuân hiểu nghe thấy tiếng gió mưa ngoài cửa mà xót xa cho thân phận mỏng manh của cánh hoa rơi rụng: “Dạ lai phong vũ thanh/Hoa lạc tri đa thiểu” (Xuân hiểu). Lý Bạch thì xem thiên nhiên như là người bạn tri âm tri kỉ: “Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân” (Nguyệt hạ độc chước). Nguyễn Trãi thì xem thiên nhiên như là gia đình thương mến: “Cò (rùa) nằm hạc lẩn nên bầu bạn/Ấp ủ cùng ta làm cái con” (Ngôn chí bài 20). Nhà thơ Kaga-no-Chiyo của Nhật Bản thì nâng niu vẻ đẹp giao hòa giản dị của thiên nhiên bình dị: “A! Hoa bìm bìm/Chiếc gàu vương hoa bên giếng/Đành xin nước nhà bên” (Nhật Chiêu dịch, Thơ Hai-ku Kaga-no-Chiyo). Ta bắt gặp một sự xúc động tinh tế của một trái tim nhân bản trước những sự việc rất tầm thường của vạn vật: “Lá chuối xanh trôi/Một con ếch nhỏ/Run run đang ngồi (Thơ Hai-ku Kikaku). Mặc dù Truyện Kiều mượn cốt truyện từ Trung Hoa và viết về tầng lớp trên của xã hội nhưng Nguyễn Du đã rất khéo léo đưa yếu tố dân tộc vào tác phẩm để Truyện Kiều trở nên gần gũi với nhân dân. Trong cách diễn tả thiên nhiên, chúng ta thấy có một cảm quan đời sống 30
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019 thường nhật chi phối cách viết của Nguyễn Du. Đó là một cách để tác phẩm đi vào lòng nhân dân, trở thành cuốn sách gối đầu giường của biết bao thế hệ con dân Việt. 2.3. Thiên nhiên biến đổi, hóa sinh trong cảm quan tính giao vũ trụ Trong quan niệm phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, thiên nhiên không tĩnh tại mà luôn luôn biến dị giống như vòng xoay của các mùa. Cỏ cây, cầm thú, con người liên tục sản sinh theo năng lực hầu như là “tính dục” của vũ trụ. Cái nhìn thiên nhiên biến di, thiên nhiên có năng lực tính dục đã được diễn tả trong Kinh Dịch, hệ từ hạ truyện: “thiên địa nhân ôn, vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh” [7, tr.161]. Ta bắt gặp cái nhìn ấy ngay từ trong cao dao. Khi miêu tả bức tranh thiên nhiên, người nghệ sĩ dân gian thường tạo ra cặp đôi non - nước, núi - sông đi liền với nhau tạo nên một phong cảnh gợi cảm xúc thẩm mỹ: “Núi Truồi ai đắp mà cao/Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu… Ai ơi đứng lại mà trông/Kìa núi Tam Đảo, kìa sông Tam Kì”. Dường như trong cảm thức dân gian, núi chỉ đẹp khi có sông và ngược lại sông cũng chỉ đẹp khi có núi. Sông với núi kết hợp thành một đôi sơn thủy như một nguồn cảm hứng của tình yêu hay của lòng tự hào về quê hương. Ý thức vạn vật có cặp có đôi, vạn vật sinh sôi nảy nở đã ăn sâu vào tâm thức người Việt cả trong văn hóa lẫn văn học. Chính cái nhìn vạn vật biến di, vạn vật có năng lực tính dục này mà ta thường gặp những yếu tố văn hóa đặc trưng: cối và chày, bình tỳ bà và bình củ tỏi… đó cũng chính là ý thức về sự hài hòa âm dương trong quan niệm phương Đông nói chung và người Việt nói riêng. Trong Truyện Kiều, thiên nhiên cũng được nhìn nhận trong cảm quan ấy. Người đọc thấy xuất hiện trở lại cặp đôi trăng - núi quen thuộc trong ca dao: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”. Trăng và núi từ lâu đã trở thành cặp đôi biểu tượng đi liền nhau. Ngay từ trong ca dao đã thấy: “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già/Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non… Trăng lên khuất núi trăng mờ/Biết em bao tuổi mà chờ đợi em”. Núi và trăng gần kề, gắn kết, tâm tình bên nhau như tri kỉ. Hình ảnh trăng mọc sau dãy núi đã trở nên rất đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt. Ở đây Nguyễn Du cũng nhìn nhận và miêu tả trăng-núi trong cảm quan của dân tộc. Trong vũ trụ bao la, núi và trăng “Ở chung” mà con người thì quạnh quẽ thui thủi một mình trong cảnh “khóa xuân”. Sự đối chọi này đã tạo ra khung cảnh tương phản giữa tự nhiên và con người nên càng làm tăng thêm sự cô quạnh và thân phận đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Hay ở một trường hợp khác: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Ở đây, ta bắt gặp cặp hình ảnh thiên nhiên quen thuộc: thuyền và biển. Thuyền - biển xuất hiện từ trong tục ngữ: “Biển rộng mặc biển, thuyền chèo có ngăn”; “Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo”. Thuyền - biển khăng khít bên nhau như không thể tách rời. Một bức tranh vẽ biển mà thiếu cánh buồm thì hẳn là chưa trọn vẹn. Cụ Nguyễn sử dụng cặp hình ảnh này nhưng không phải để tạo sự gắn bó khăng khít mà ngược lại để tô đậm thêm vẻ đơn độc của hình ảnh thuyền giữa trời nước mênh mông vô định. Đó cũng chính là nỗi lòng của nàng Kiều trước con thuyền số phận nhiều nổi nênh của mình. Chính cảm thức về sự biến đổi hóa sinh của vũ trụ mà trong nhiều câu Kiều, ngay trong sự viên mãn của cái đẹp cũng đã ngầm dự báo trước sự tàn phai: “Làn thu thủy nét xuân sơn/Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Bởi tất cả sự vật trên thế gian này đều nằm trong quy luật sinh, trụ, hoại, diệt nên vạn vật cũng phù du theo định mệnh. Sự tồn tại của cái đẹp chỉ là nhất thời vì trong phút chốc có thể ra đi nhưng vẻ đẹp của nó tồn tại vĩnh hằng trong sự tri nhận của con người. Trước khi sự tàn phai đến, cái đẹp luôn phải tỏa sáng hết mình dù ngày mai có biến mất khỏi thế gian. Con người dường như có thể dự cảm được sự tàn phai của vẻ đẹp trong bước đi của thời gian, trong sự viên mãn của sự vật. Cho nên, luôn luôn tồn tại một nỗi buồn trước quy luật của vẻ đẹp, sự ra đi của thời gian và biến đổi của không gian, tạo nên lớp lớp nỗi sầu chất chứa mênh mang: “Sen tàn cúc lại nở hoa/Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”. Nỗi 31
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 buồn chính là vẻ đẹp sâu kín nhất, cuốn hút nhất đối với chủ thể cảm xúc. Vẻ đẹp chóng tàn có sức lan tỏa và mãnh lực lớn và cũng là đặc điểm mỹ cảm đẹp mà buồn của Truyện Kiều. Sự tồn tại của vẻ đẹp cảnh vật thì ngắn ngủi còn hương thơm của nó lưu truyền đến ngàn đời sau: “Trước sau nào thấy bóng người/Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. 2.4. Thiên nhiên trong mối tương giao, tương cảm với con người Thiên nhiên là người bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao cảm với con người bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan hệ tương thông tương cảm với “đại vũ trụ” - thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành “Tam Tài”. Con người sống trong vòng “Thiên phú địa tái” (Trời che, đất chở). Cho nên, quan niệm “Thiên - Địa - Nhân” hay “Thiên Nhân tương cảm” cổ xưa ấy đã chi phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Với cuộc đời chịu nhiều gió bụi, Nguyễn Du đã sớm nhận ra đời người là những chuỗi ngày đầy thống khổ và bi ai. Thế giới người qua mắt nhìn của Nguyễn Du hẳn là một cõi giả tạm và nhiều sai lầm. Có lẽ vì vậy mà ông đã tựa vào tự nhiên để sống, để bày tỏ tác lòng và tìm thấy ở đó sự tương thông tương cảm. Con người ta sinh ra từ tự nhiên, tồn tại trong tự nhiên. Có thể nói, tự nhiên là mạch nguồn tuôn chảy trong mỗi cá thể người và trong con mắt chúng ta, thiên nhiên cũng thật đa dạng và nhiều chiều. Truyện Kiều ra đời trong sự dung chứa dáng vẻ muôn mặt ấy của tự nhiên. Trong Truyện Kiều, bên cạnh câu chuyện của con người thì thiên nhiên cũng là một đối tượng được phản ánh. Thiên nhiên có nắng sớm, mưa chiều, có cỏ non tháng Ba, có cành ngô trở vàng tháng Bảy, có ánh chiều hoàng hôn, có dáng cây ngọn cỏ, có giọt sương gieo nặng la đà… Tuy nhiên, thiên nhiên trong Truyện Kiều hiếm khi được miêu tả đơn thuần mà đều được dùng để phản ánh đời sống con người, “phản ánh tự nhiên nhưng cũng là phản ánh con người; con người an trú trong tự nhiên, bởi bản chất tự nhiên là an hòa…con người chiêu niệm tự nhiên để nối hồn mình với một hồn thiêng vũ trụ” [14]. Mối giao cảm giao hòa giữa con người với tự nhiên trong Kiều được thể hiện ở cách nhìn: mọi cái đều gắn với tự nhiên: “Trải qua một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Hai chữ “bể dâu” (thương hải biến vi tang điền - biển xanh hóa thành nương dâu) đã chuyển tải được sự ý thức của Nguyễn Du trước những biến cố trong đời người : Từ việc nắm bắt sự thay đổi của tạo hóa mà dẫn đến sự nắm bắt những đổi thay của xã hội. Ta gặp kiểu ý thức này trong nhiều sáng tác của dân tộc, từ trong ca dao: “Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở/Anh đến tìm đò thì đò đã sang sông/Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng…” (Ca dao), cho đến thơ ca trung đại “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ - Bà huyện Thanh Quan). Dường như những thay đổi của tự nhiên là cái được con người chú ý hơn và nắm bắt trước so với biến cố của xã hội, của đời người. Cũng bởi mối giao cảm tương thông giữa con người với sinh mệnh tự nhiên mà trong Truyện Kiều, con người luôn xuất hiện cùng thiên nhiên. Sự kết hợp lồng ghép này cả ở việc miêu tả cơ thể người, khắc họa tính cách, tâm lý hành động cho đến xây dựng tình huống. Có thể thấy một sự hòa trộn của cơ thể người và cơ thể của tự nhiên không thể tách rời với “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt”… tạo ra những liên tưởng kép rất thú vị. Đặc biệt là câu thơ: “Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên” đã tạo ra một sự tôn vinh kép cả tự nhiên lẫn con người. Bên cạnh miêu tả cơ thể người bằng hình ảnh thiên nhiên, Nguyễn Du khắc họa tính cách con người bằng những biểu tượng tự nhiên. Ông đã đi sát với công chúng Việt Nam khi sử dụng lại những biểu tượng văn hóa Trung Hoa nhưng đã đi vào văn hóa Việt và trở nên gần gũi với 32
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019 người Việt: “hoa cười, ngọc thốt”, “yến anh”, “cỏ hoa”, “xuân lan thu cúc”, “ong bướm”, “cây quỳnh cây giao”… Những biểu tượng này vừa cô đọng trong thủ pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc vừa có tác dụng khơi gợi ký ức trong lòng công chúng về một hệ thống biểu tượng long lanh của quá vãng. Truyện Kiều được đánh giá là “cuốn sách của một nghìn tâm trạng” và sự đa dạng đó có sự góp sức của thiên nhiên. Có một sáng xuân tươi mát nhẹ lòng với “cỏ non xanh tận chân trời” và cũng có một buổi chiều tà nao lòng với “tà tà bóng ngả về tây”, ngay khi “xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến oanh” đã “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Từ sự thay đổi chớp nhoáng của tự nhiên mà thấy được sự thay đổi của tâm trạng, của đời người. Để tạo sự giao cảm giữa thiên nhiên và con người, Nguyễn Du đã khéo léo đưa nhiều hình ảnh thiên nhiên vào các tình huống của tác phẩm. Người đọc sẽ không chỉ “nghe” sự kiện mà còn được “nhìn” sự kiện, và cái đập vào mắt ta trong các tình huống, các sự kiện ấy không gì khác chính là những hình ảnh của tự nhiên: “Kiếp hồng nhan có mong manh/Nửa chừng xuân thoát gãy cành thiên hương/Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh/Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây/; Tiếc thay một đóa trà mi/Con ong đã tỏ đường đi lối về”. Chính những hình ảnh thiên nhiên đã làm cho tình huống trở nên bất ngờ, đủ sức lay động tâm hồn người đọc. Trong những tình huống này, nếu không dùng hình ảnh thiên nhiên thì có lẽ cũng sẽ không có sự lựa chọn nào là phù hợp hơn cả. Xét mối tương giao giữa người và thế giới tự nhiên, không thể không nói đến việc thiên nhiên đã là chứng nhân cho những thăng trầm dâu bể trong cuộc đời Kiều. Kiều đi giữa tự nhiên, cuộc sống của Kiều diễn ra trước sự chứng kiến của tự nhiên: Kiều đi lễ hội thanh minh thì có trời, mây, hoa, cỏ, ánh nắng, dòng suối nhỏ liền kề. Dấu chân nàng Đạm Tiên lướt nhẹ trên rêu phong hòa quyện cùng sương khói mờ ảo của tự nhiên để kết nối tâm linh giữa hai miền sống-chết, thực-ảo để đón Kiều vào “kiếp đoạn trường’. Những dòng thơ Kiều “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần” là chứng tích cho sự tương giao giữa tự nhiên và con người, đồng thời cũng là biểu hiện cho sự chứng giám của tự nhiên trước tấm lòng nhi nữ. Khi trở lại nhà, trong giây phút bồi hồi luyến nhớ phút giây gặp gỡ thì thiên nhiên vẫn là đối tượng chứng giám với “mặt trời”, “núi”, “mảnh trăng”, “nước”, “cây”, “sương”, “gió”, “oanh vàng”. Trong tâm trạng nôn nao, tìm kiếm thì có “dấu bèo”, “đá vàng”, lá, hoa, sông, suối. Lúc thề nguyền lại cũng có thiên nhiên chứng giám: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Từ những kiến giải trên đây có thể thấy, trong nhiều trường hợp, tự nhiên có khả năng tương thông, chia sẻ, giúp con người chữa lành những vết thương, điều hòa những xáo trộn trong tâm hồn cũng như cuộc sống con người. “Tự nhiên… vừa là quan niệm nghệ thuật, vừa là cảm hứng, vừa là bút pháp. Tất cả quyện chặt với nhau, bất khả phân ly, làm thành một suối nguồn xanh biếc ào ạt chảy vào mảnh đất bị hằn nát bởi những dục vọng trần tục của con người” [14]. 2.2.5. Thiên nhiên mềm mại, uyển chuyển Dân tộc Việt Nam có đặc trưng ứng xử linh động, mềm dẻo. Điều đó được nhiều nhà nghiên cứu nhận định. Ðào Duy Anh nhận xét người Việt “bắt chước, thích ứng và dung hòa... rất tài” [4, tr.24]. Cao Xuân cho rằng, người Việt “có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước”, “Nước... dễ tính... không phải là vì nó không có cá tính. Trái lại, đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó... chính cái khả năng thích ứng... là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta” [2, tr.363-364]. Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Huệ Chi, Trần Ðình Hượu, Trần Ngọc Thêm,... khi nhận định về bản sắc văn hóa Việt Nam đều không quên nhấn mạnh đặc điểm linh hoạt. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất chung một điểm: Dân tộc ta tính mềm như nước. 33
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 Cái mềm mại độc đáo trong tính nết ấy của người Việt đã để lại vết tích rõ ràng trong các tác phẩm nghệ thuật của nhiều ngành nghệ thuật. Trong văn chương, Trần Ngọc Thêm cho rằng, nghệ thuật ngôn từ dân tộc “có đặc điểm ÐỘNG và LINH HOẠT... trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp” [10, tr.295]. Chính vì ngôn ngữ tiếng Việt mềm mại nên thơ ca cũng mềm mại dù được làm theo luật “cứng”. Đó là sự lý giải cho việc cùng là thơ Đường luật nhưng thơ Đường luật của người Việt không lẫn với thơ Đường luật Trung Hoa. Chính thứ ngôn ngữ linh động, mềm mại, uyển chuyển ấy đã sản sinh ra một hình thức thơ thuần Việt cũng mềm mại uyển chuyển và linh động không kém là thơ lục bát. Tiếng Việt mà đem làm thơ lục bát thì cả bài thơ trở thành một bản nhạc. Chính thế mà Xuân Diệu đã nhận định: “Truyện Kiều còn là một bản nhạc dài” [13, tr.147]. Không chỉ trong văn học mà trong các ngành nghệ thuật khác cũng dễ dàng thấy được đặc trưng mềm mại, uyển chuyển, linh động của người Việt. Nghiên cứu mỹ thuật đời Lý, Thái Bá Vân nhận ra “sự nổi dậy kín đáo của một ý chí nghệ thuật cương quyết nhưng mềm mại... một nét thuộc bản sắc dân tộc” [8, tr.22-295-297]. Ngắm nghía các tượng Phật đời Lý, Chu Quang Trứ cũng thấy chúng “biểu hiện sức sống... mãnh liệt” với những “đường nét hết sức mềm mại và uyển chuyển, bố cục cân xứng nhưng không đơn điệu... Nét dân tộc bật ra rất rõ, quán xuyến... toàn bộ... khác hẳn các hình tượng cùng đề tài của những dân tộc láng giềng” [3, tr.272]. Trong lối ăn mặc, người Việt cũng ưa sự mềm mại uyển chuyển. Trong âm nhạc, người Việt ta “nuôi”, “nắn” âm thanh. Theo dòng lịch sử, ta thấy người Việt tiếp thu văn hóa ngoại lai khá nhiều. Trong quá trình tiếp thu đó xuất hiện hiện tượng “Việt hóa” như là một nét đặc trưng. Và quá trình Việt hóa này có một điểm chung: làm mềm đi những cái cứng nhắc giáo điều. Ta tiếp thu ngôn ngữ Hán nhưng đã “Hán Việt”, ta tiếp thu Nho giáo nhưng nhiều điểm khắt khe của Nho gia đã được thay đổi để phù hợp với người Việt… Từ những nhận định và phân tích trên, có thể rút ra kết luận: người Việt ưa sự mềm mại, uyển chuyển, linh động. Tính "mềm" đó thể hiện trong mọi mặt của cả đời sống vật chất và tinh thần. Nguyễn Du được sinh ra trong suối nguồn văn hóa dân tộc, những yếu tố thuộc về bản chất của nền văn hóa Việt hẳn đã thấm nhuần trong con người ông. Đọc Truyện Kiều, dễ dàng nhận ra đặc trưng mềm mại, linh hoạt, uyển chuyển của một thế giới tự nhiên đa dạng phong phú. Chọn thể thơ lục bát để sáng tác truyện thơ Nôm, Nguyễn Du đã thổi hồn Việt vào cảnh vật nên dù lấy bối cảnh Trung Hoa song tác phẩm trở nên gần gũi với tâm thức Việt. Nhiều câu viết về thiên nhiên mềm mại, uyển chuyển như lướt trên trang giấy: “Dưới cầu nước chảy trong veo/Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” tạo cảm giác thật êm tai và xuôi vần, như thể đó là một bản nhạc hòa tấu của âm thanh, vần điệu. Câu lục bát trở nên du dương như “lời mẹ hát những ngày”. Thị hiếu thẩm mỹ của người Việt có một chỗ dành cho những đường cong đầy tính nghệ thuật khi những nghệ nhân uốn cong những mái đình hay điểm tô cho những con rồng uốn lượn theo mây nước trên các họa tiết chạm khắc mỹ thuật. Trong văn chương, đâu đó cũng thấp thoáng những đường cong mỹ miều của cảnh vật. Cái sự uốn lượn mềm mại đó đã khởi phát từ trong ca dao - nơi thể hiện rõ hồn cốt dân tộc Việt: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/Non xanh nước biếc như tranh họa đồ… Sông Tô một dải lượn vòng/Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh… Sông Hồng uốn khúc chảy quanh/Giai nhân tài tử lừng danh trong ngoài”. Truyện Kiều phô bày nhiều “đường cong” của cảnh vật. Ngay từ đầu tác phẩm, hình dáng thân thương của quê nhà đã hiện ra từ những đường cong: “Nao nao dòng nước uốn quanh/Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Hình ảnh “dòng nước uốn quanh” ấy như vẽ ra một không gian thân thuộc nơi miền 34
  10. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ | 11/2019 quê yên bình với làn nước trong xanh và chiếc cầu nho nhỏ nối những bờ vui. Đường cong của dòng sông, cùng với “nước”, với “cầu” sao thật đỗi thân quen. Trong một cảnh khác người đọc cũng bị hấp dẫn bởi những nét cong quyến rũ: “Hải đường lả ngọn đông lân/Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà”. Đó là đường cong mềm mại của cành hải đường. Sức nặng của sương đọng trên cành lá khiến chúng không đứng thẳng mà trĩu xuống tạo thành một vòng cung tạo nên vẻ mềm mại, mượt mà như cô thiếu nữ trong đêm. Cái lả lơi uốn lượn của cảnh vật hay cũng chính là cái lả lơi của lòng người? Tất cả thật yên bình, thật mềm mại và mang cái “buồn sang” (Chữ dùng của Lê Thị Hường) đặc trưng của thơ ca cổ điển. Để làm mềm hóa cảnh vật, Nguyễn Du cũng thường sử dụng những đối tượng thiên nhiên có sẵn tính mềm mại, uyển chuyển như liễu: “Lơ thơ tơ liễu buông mành/Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”. Hoặc mây: “Bốn phương mây trắng một màu/Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai”. Hoặc nước: “Dưới cầu nước chảy trong veo/Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu”. Những đối tượng này có đặc trưng ở tính mềm mại, uyển chuyển. Mây thì nhẹ tênh, nước thì uốn lượn, liễu thì thướt tha như cô thiếu nữ đương thì, tất cả tạo cho câu thơ một vẻ mềm mại thanh tao riêng biệt. Tính mềm dẻo linh hoạt của văn hóa Việt còn được biểu hiện ở cách Nguyễn Du Việt hóa các điển cố, điển tích có yếu tố thiên nhiên. Từ điển cố “cỏ xanh” Nguyễn Du đã sáng tạo tới 5 thứ cỏ xanh khác nhau một cách linh hoạt dựa vào thực tế miêu tả: Vào buổi sáng thanh minh chị em Thúy Kiều dạo chơi thì đó là màu “cỏ non xanh tận chân trời”, đến khi bên mộ Đạm Tiên thì cỏ thành “rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”, trong bóng chiều tà trở về thì cỏ trở thành “một vùng cỏ áy bóng tà”, lúc gặp gỡ Kim Trong, cũng trong hôm ấy mà cỏ đã biến hóa “cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”. Trong cùng một ngày mà cỏ đã biến hóa 4 màu xanh khác nhau. Chính cái linh hoạt, sáng tạo của Nguyễn Du đã làm nên giá trị cho cách miêu tả thiên nhiên trong Truyện Kiều. 3. KẾT LUẬN Truyện Kiều tràn đầy thiên nhiên bởi Nguyễn Du sinh ra từ cái nôi của văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt nói riêng, nơi có một chiều dài lịch sử gắn kết với tự nhiên, và ông là người con thụ nhận phần nhiều thiên hướng bản nhiên ấy. Thông qua khảo sát cảm thức thiên nhiên của Nguyễn Du trong Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa Việt có thể thấy những đặc trưng cơ bản: thiên nhiên không phải là một đối tượng khách quan hay một khách thể bất khả tri mà là một người bạn lớn tương giao tương cảm, thiên - nhân hợp nhất. Thiên nhiên mang dấu ấn của cảm quan tín ngưỡng đời sống thường nhật với những màu sắc mang đậm tính dân tộc. Tính mềm như nước của bản nguyên dân tộc đã in sâu trong những câu Kiều viết về thiên nhiên làm cho Truyện Kiều trở thành một “Khúc Nam âm tuyệt xướng”. Thiên nhiên trong Truyện Kiều không đứng yên mà biến đổi, hóa sinh. Cỏ cây, cầm thú, con người liên tục sản sinh theo năng lực hầu như là “tính dục” của vũ trụ. Từ xưa đến nay, thiên nhiên đối với người Việt không phải là một chuỗi dài chinh phục mà là sự gắn bó, hài hòa. Mỗi tâm hồn dân Việt đều có một tình yêu vĩnh cửu với sinh mệnh tự nhiên. Con người hiện đại đang tìm cách quay trở về với những giá trị vĩnh hằng của thiên nhiên, tìm lại chính quá khứ ngàn đời của mình trong tâm thức hòa hợp với tự nhiên. Bằng cách đó, chúng ta đang giữ gìn cho nhân loại khỏi trượt dài đến những sai lầm trong cách đối xử với tự nhiên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] J.A. Gurêvich (Hoàng Ngọc Hiến dịch) (1996). Những phạm trù văn hóa trung cổ, NXB Giáo dục. [2] Cao Xuân Huy (1995). Tư tưởng phương Ðông - gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học. 35
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ | HTKH 2019 [3] Chu Quang Trứ (2002). Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, NXB Mỹ thuật. [4] Ðào Duy Anh (1992). Việt Nam văn hóa sử cương, NXB TP Hồ Chí Minh. [5] Đoàn Thị Tình (2006). Trang phục Việt Nam (Dân tộc Việt), NXB Mỹ thuật. [6] Kahlih Gibran (Nguyễn Ước dịch) (2012), Ngôn sứ (kẻ tiên tri), NXB Văn học. [7] Lý Hùng (2008), Chu Dịch thông lãm, NXB Hà Nội. [8] Thái Bá Vân (1997). Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Việt Nam. [9] Trần Đình Sử (2002). Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục. [10] Trần Ngọc Thêm (2001). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (in lần ba), NXB TP Hồ Chí Minh. [11] Vũ Anh Tuấn (Chủ biên) (2014). Giáo trình Văn học dân gian, NXB Giáo dục. [12] Xuân Diệu (1984). Công việc làm thơ, NXB Văn học. [13] Xuân Diệu (1987). Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I, NXB Văn học. [14] Nguyễn Thị Thanh Xuân (2018). Cảm thức xanh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và một vài suy nghĩ về phê bình sinh thái, 28/03/2018, http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-va-phe-binh-van-hoc/6946- c%E1%BA%A3m-th%E1%BB%A9c-xanh-trong-truy%E1%BB%87n-ki%E1%BB%81u- c%E1%BB%A7a-nguy%E1%BB%85n-du-v%C3%A0-m%E1%BB%99t-v%C3%A0i-suy- ngh%C4%A9-v%E1%BB%81-ph%C3%AA-b%C3%ACnh-sinh-th%C3%A1i.html. Title: NATURE IN THE KIEU STORY LOOKING FROM THE FEELING OF CULTURAL VIETNAMESE Abstract: There are many ways to decode literary works, including ways of deciphering from the cultural perspective. Learning about the natural feelings of a people is also a way of understanding its culture because each people has different cultural behaviors towards nature. Surveying in Kieu story, we found the Vietnamese spirit imbued with the writings, especially the sentences about nature. There, nature is perceived in the Vietnamese cultural senses with its ethnic colors and soft lines, especially the sense of cosmic intersection and daily beliefs that govern the way the world views itself of Nguyen Du. It can be said that deep under the natural feelings of Nguyen Du in Kieu Story are the layers of Vietnamese culture. Understanding the feeling of nature in Kieu story is also an interesting way to discover Vietnamese culture. Keywords: Nature, Kieu story, Culture. 36
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1