intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thiết kế tối ưu gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP chống động đất cho nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng thành phần kích động đứng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu phương trình vi phân chuyển động kết cấu nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng của thành phần kích động đứng, đồng thời nhóm tác giả cũng xây dựng mô hình và chương trình tính bằng ngôn ngữ lập trình Matlab để thiết kế tối ưu kích thước gối SFP gồm: R bán kính mặt lõm và d khoảng cách dịch chuyển của con lắc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thiết kế tối ưu gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP chống động đất cho nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng thành phần kích động đứng

  1. Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ nhất về Động lực học và Điều khiển Đà Nẵng, ngày 19-20/7/2019, tr. 76-81, DOI 10.15625/vap.2019000259 Thiết kế tối ưu gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP chống động đất cho nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng thành phần kích động đứng Hoàng Phương Hoa1, Ngô Thanh Nhàn2 và Nguyễn Văn Nam3 1. Bộ môn Cầu - Hầm, Khoa Xây dựng Cầu đường, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng 2. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Trà Vinh 3. Khoa Kỹ thuật Xây dựng, Trường Đại học Công nghiệp, TP. Hồ Chí Minh E-mail: hphoa@dut.udn.vn; phuonghoabkdn@gmail.com Tóm tắt các tác giả thường bỏ qua ảnh hưởng của thành phần kích Từ các nghiên cứu của Zayas, V.A, năm 1987 [11]. Gối con động đứng, vì coi thành phần này không ảnh hưởng nhiều lắc một mặt trượt ma sát SFP (Single Friction Pendulum-SFP) đến nội lực kết cấu và việc tính toán khi có xét tới thành đã được áp dụng nhằm cách ly kết cấu với chuyển động của đất phần kích động đứng sẽ quá phức tạp. nền gây ra bởi các trận động đất. Tuy nhiên, trong những tính toán trước đây người ta thường bỏ qua ảnh hưởng của lực kích động đứng ngay cả đối với các trận động đất mạnh. Thực tế thí nghiệm của nhóm nghiên cứu do Dao N. D., và các đồng nghiệp [7] cho thấy thành phần kích động đứng ảnh hưởng đáng kể lên kết cấu công trình mà chúng ta không thể bỏ qua. Bài báo sẽ giới thiệu phương trình vi phân chuyển động kết cấu nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng của thành phần kích động đứng, đồng thời nhóm tác giả cũng xây dựng mô hình và chương trình tính bằng ngôn ngữ lập trình Matlab để thiết kế tối ưu kích thước gối SFP gồm: R bán kính mặt lõm và d khoảng cách dịch chuyển Hình 1. Công trình bị phá hủy tại Sulawesi, Indonesia sau trận của con lắc. động đất kép diễn ra ngày 28/9/2018. Từ khóa: gối ma sát SFP, cách chấn đáy, ảnh hưởng thành Thực tế nghiên cứu sự phá hủy của các công trình sau phần đứng của động đất, kết cấu chịu động đất, nhà cao động đất, người ta thấy một số công trình cùng loại, mức tầng. độ phá hủy có khác nhau tùy theo vị trí công trình. Và người ta liên tưởng đến một trong số các ảnh hưởng chưa được xét đến đó là ảnh hưởng của thành phần kích động 1. Mở đầu đứng. Nghiên cứu ảnh hưởng đến công trình xây dựng Động đất, đặc biệt là những trận động đất mạnh của thành phần kích động đứng có các tác giả Hoàng thường gây thảm họa cho con người và những công trình Phương Hoa và đồng nghiệp [3, 4, 5, 6]. Để chứng minh xây dựng nằm gần tâm chấn, xem Hình 1. Vào năm 1934 sự ảnh hưởng đáng kể của thành phần kích động đứng tại Chile và Nepal cùng xảy ra những trận động đất mạnh nhóm nghiên cứu của tác giả Dao N.D., [7] đã thực hiện số người thiệt mạng trong những trận động đất của hai thí nghiệm trên mô hình tỷ lệ 1:1. Nhóm nghiên cứu đã quốc gia này gần tương đương nhau. Tuy nhiên, đến năm thực hiện tại Nhật Bản mô hình ngôi nhà 5 tầng kích 2015 cũng xảy ra những trận động đất mạnh tại các quốc thước mặt bằng 10x12m với 9 gối con lắc trượt ma sát gia này, nhưng số người thiệt mạng tại Chile chỉ có 5 chống động đất. Hình 2. trong khi đó tại Nepal là trên 8000 người và 90% công trình xây dựng tại đất nước này bị phá hủy. Lý do là từ sau trận động đất năm 1934. Chính quyền Chile đã trú trọng đưa vào tiêu chuẩn thiết kế chống động đất cho các công trình tại quốc gia này. Trong khi đó Chính quyền của Nepal đã không quan tâm đúng mức đến vấn đề thiết kế công trình chống động đất cho quốc gia của mình. Thiết kế công trình chống động đất đã được đa số các quốc gia trên Thế giới quan tâm, đặc biệt các quốc gia nằm trong vùng có thể thường xuyên xảy động đất mạnh như: Nhật Bản, Mỹ, Iran, Chile, Malaysia, Indonesia...[1, 2, 4, 7, 8, 9]. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu của mình Hình 2. Mô hình thí nghiệm ảnh hưởng của lực kích động đứng đến công trình [7].
  2. Hoàng Phương Hoa, Ngô Thanh Nhàn và Nguyễn Văn Nam Gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP (Single lượng phần nền móng bên trên gối), độ cứng kb xác định Friction Pendulum – SFP) đã được Zayas, V.A, năm 1987 theo phương trình (1), hệ ma sát (e) sinh ra lực ma [11] nghiên cứu áp dụng. Cấu tạo gối SFP được giới thiệu sát Ff xác định theo phương trình (2) và lực va chạm Fr trong Hình 3. Gối bao gồm: một con lắc trượt trong một xác định theo phương trình số (5) (khi de = d). mặt cong bán kính R và có hệ số ma sát . Khả năng dịch W chuyển ngang của con lắc là d. Bán kính cong tạo ra lực kb  (1) R phục hồi đưa con lắc về trọng tâm của mặt cong, giữ ổn trong đó: W là tổng trọng lượng bên trên gối. định cho gối khi làm việc, hệ số ma sát làm tiêu tán một Ff  eWZ (2) phần năng lượng do động đất. Với cấu tạo như vậy, độ cứng dịch chuyển ngang của gối nhỏ hơn rất nhiều so với trong đó: Biến trễ Z mô tả hệ số ma sát thay đổi khi vận độ cứng của kết cấu. Kết cấu sẽ “mềm” đi khi được lắp tốc trượt chậm dần về 0 và đổi chiều trượt trong con lắc đặt thiết bị này. Nghĩa là chu kỳ cơ bản của kết cấu lúc được xác định từ phương trình (3) và hệ số ma sát e thay này sẽ tăng lên, tránh được vùng chu kỳ trội của các trận đổi theo vận tốc trượt như phương trình (4) [9, 10, 12].  1  động đất, từ đó sẽ làm giảm tác động của động đất vào YZ   u Z Z   u Z  Au  0 (3) kết cấu. Hay nói cách khác, kết cấu được cách ly dao e   max  (  max   min )e  a u b (4) động và hiệu quả giảm chấn cũng phụ thuộc nhiều vào các tham số kích thước gối như: bán kính mặt lõm R, Với: A=1; Y=0.25mm; =0.9; =0.1; =2, a=0.02s/mm, khoảng cách dịch chuyển ngang d và hệ số ma sát  . max và min là hệ số ma sát tại vận tốc lớn nhất và nhỏ nhất [9,10]. Fr  kr ( ub  d ) sign(u ) H ( ub  d ) (5) R,  d trong đó: kr là độ cứng lúc va chạm được gán giá trị rất lớn, H là giá trị hàm Heaviside.  2.2. Phương trình chuyển động Kết cấu gắn gối SFP chịu gia tốc nền ag được thiết Hình 3. Cấu tạo gối SFP lập như sau. Với nhà có n tầng thì mô hình tính toán sẽ gồm (n+1) bậc tự do tương ứng với (n+1) khối lượng, Trong các nghiên cứu trước đó của nhóm tác giả về xem gối là một khối lượng (mb). Viết phương trình cân gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP. Nội dung nghiên bằng lực cho từng khối lượng ta thu được hệ phương cứu chỉ tập trung vào hiệu quả giảm chấn khi kết cấu có trình vi phân chuyển động của hệ (gồm n+1 phương và không dùng kết cấu gối. Trong bài báo này, nhóm tác trình) như trong phương trình(6). giả sẽ đi sâu nghiên cứu chọn ra tham số kích thước tốt mb ub  kb ub  F f  Fr  k1 (ub  u1 )  c1 (ub  u1 )   mb ag nhất của: bán kính mặt lõm R và khả năng dịch chuyển d  của kết cấu gối SFP đáp ứng với trận động đất mạnh như m1u1  k1 (u1  ub )  c1 (u1  ub )  ...  (6) trận tại Tabas, Iran năm 1978 [14], khi có xét đến cả ảnh ...  k2 (u1  u2 )  c2 (u1  u2 )   m1ag hưởng của lực kích động đứng đến kết cấu công trình.  ... mn un  kn (un  un 1 )  cn (un  un 1 )   mn ag 2. Mô hình tính toán và phương trình chuyển  động gối SFP Hệ phương trình vi phân chuyển động (6) sẽ được giải bằng phương pháp số Runge-Kutta bậc 4 (sử dụng 2.1. Mô hình tính toán hàm ode15s trong Matlab) để xác định các đặc trưng Mô hình tính toán nhà cao tầng gắn gối SFP được thể chuyển động tại từng bước thời gian. Từ đó xác định hiện trong Hình 4. Với giả thiết bản sàn tuyệt đối cứng, được phản ứng của kết cấu dưới chuyển động của đất sàn chỉ chịu thành phần chuyển vị ngang. Ta xem mỗi nền. tầng của nhà là 1 bậc tự do có các đặc trưng động học: khối lượng mi, độ cứng ki và độ cản ci. 2.3. Ảnh hưởng của lực kích động đứng mn Trong quá trình chuyển động, nếu bỏ qua thành phần cn gia tốc theo phương đứng thì tổng trọng lượng W là kn không đổi. Khi xét thêm thành phần kích động đứng, tổng m2 trọng lượng bên trên gối W sẽ thay đổi (cộng thêm thành c2 kb ub u1 u2 un k2 k1 k2 kn phần lực quán tính do gia tốc nền theo phương đứng m1 e agz gây ra). Thông thường, kết cấu có độ cứng dao động SFP c1 m b c1 m1 c 2 m2 cn mn k1 mb de đứng lớn hơn rất nhiều so với dao động theo phương ag ngang. Khi xét kích động đứng ta xem toàn bộ kết cấu bên trên như 1 khối cứng có trọng lượng N(t) thay đổi và Hình 4. Mô hình tính toán gối SFP được xác định như sau [6]: agz N (t )  W (1  ) Gối SFP được mô hình như một phần tử lò xo [2] có g 4 đặc trưng động học: khối lượng mb (bao gồm khối (7)
  3. Thiết kế tối ưu gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP chống động đất cho nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng thành phần kích động đứng trong đó: agz là thành phần gia tốc nền theo phương Mô hình tính và phương trình vi phân chuyển động đứng (tạo ra kích động đứng), g là gia tốc trọng trường. được thiết lập theo cơ sở lý thuyết trên. Ảnh hưởng của Khi giải hệ phương trình vi phân chuyển động kết cấu thành phần kích động đứng được thể hiện ở kết quả tính chúng ta sẽ thay các thành phần W bằng N(t). Trong toán gia tốc tuyệt đối theo lịch sử thời gian ở tầng 9 và phương trình (7) nếu không xét đến ảnh hưởng của lực lực cắt ở tầng 1, thể hiện trong các Hình 6 và 7. kích động đứng, tức là agz = 0 khi đó N(t) = W, bài toán sẽ trở lại như bài toán bình thường. 3. Ví dụ số tính toán 3.1. Đánh giá ảnh hưởng của thành phần kích động đứng gối SFP Để đánh giá ảnh hưởng của thành phần kích động đứng, một mô phỏng ví dụ số cho ngôi nhà 9 tầng bằng thép sẽ được tính toán: trường hợp thứ nhất khi không xét ảnh hưởng của thành phần kích động đứng, phương X,Y và trường hợp thứ hai là có xét ảnh hưởng của thành phần kích động đứng xét cả phương Z, nghĩa là XYZ. Các đặc trưng động của kết cấu, thông số kỹ thuật của gối và dữ liệu gia tốc nền phân tích được cho như sau: Hình 6. Gia tốc tầng 9 theo các phương X và Y, khi không và có Kết cấu nhà 9 tầng bằng thép, với giả thiết bản sàn xét đến ảnh hưởng thành phần kích động đứng theo phương Z tuyệt đối cứng, khối lượng và độ cứng các tầng giả định giống nhau: khối lượng mi=102Ns2/mm, độ cứng ki=150kN/mm, tỷ số cản  Chu kỳ cơ bản T1=0,992s. Thông số kỹ thuật của gối SFP được lấy theo kinh nghiệm của một số thiết kế trước [13] như sau: R=2000mm, d=400mm, hệ số ma sát =0,04-0,08. Dữ liệu gia tốc nền phân tích là trận động đất tại Tabas, Iran, được lấy từ trung tân nghiên cứu động đất của Đại học Berkeley (Mỹ) [14] được tổng hợp ở Bảng 1, gia tốc đồ như Hình 5, bước thời gian phân tích là 0,01s. Bảng 1. Thông số gia tốc nền Trận động Vị trí Thành phần Gia tốc đỉnh đất Tabas, Iran LN (X) 0,84g 9101Tabas (16/9/1978) UP (Z) 0,613g Hình7. Lực cắt tầng 1 theo các phương X và Y, khi không và có xét đến ảnh hưởng thành phần kích động đứng theo phương Z Trong các Hình 8 và 9 sẽ giới thiệu rõ hơn về ảnh hường của thành phần kích động đứng của các trận động đất mạnh như trận Tabas, thông qua kết quả tính toán và vẽ đường ứng xử trễ của gối SFP theo các phương X, Y khi không và có xét đến ảnh hưởng của lực kích động theo phương Z này. Hình 8. Đường ứng xử trễ của gối theo phương X khi không và có xet ảnh hưởng theo phương đứng Hình 5. Gia tốc nền theo phương ngang (Ax) và đứng (Az)
  4. Hoàng Phương Hoa, Ngô Thanh Nhàn và Nguyễn Văn Nam Hình 9. Đường ứng xử trễ của gối theo phương Y khi không và có xet ảnh hưởng theo phương đứng 3.2. Nghiên cứu tối ưu hóa tham số cấu tạo gối Để đảm bảo yêu cầu về kiến trúc của các công trình xây dựng khi có sử dụng gối con lắc ma sát cách chấn đáy (thông thường gối đặt tại chân mỗi cột công trình). Đối với gối SFP có hai tham số kích thước quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả giảm chấn và kích thước gối đó là: bán kính mặt lõm R và khoảng cách di chuyển d. Các trận động đất mạnh nếu lại có khoảng thời gian rung động mạnh kéo dài sẽ đặc biệt gây nguy hiểm cho các công trình. Nếu gối SFP có các tham số cấu tạo R và d lớn sẽ cách chấn rất tốt. Tuy nhiên, điều này lại gây ảnh hưởng Hình 11. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=1000mm và đến mỹ quan công trình vì có những gối rất lớn đặt dưới d=400mm. chân cột công trình. Trong các Hình 10 và 11. Qua phân tích kết quả Trong tính toán để tìm kích thước gối của 2 tham số đường ứng xử trễ của gối SFP. Với gối có R=2000mm, đó là: bán kính mặt lõm R và khoảng cách di chuyển cực d=400mm. Hình 10 giới thiệu tổng dịch vào khoảng đại của con lắc d. Chúng ta so sánh ứng xử của 2 gối có: 740mm. Đối với Hình 11, gối có R=1000mm, d=400mm, gối thứ nhất có R=2000mm, gối thứ hai có R=1000mm tổng dịch vào khoảng 640mm. Điều này có thể được giải và tuần tự thay đổi khoảng cách dịch chuyển cực đại d. thích rằng: do có R nhỏ hơn dẫn đến dịch chuyển ngang Trường hợp thứ nhất lấy d=400mm. Các Hình 10 và của gối sẽ khó khăn hơn và dẫn đến giá trị lực cắt tầng 1 11 sẽ giới thiệu kết quả tính toán cho từng trường hợp. tăng hơn. Xem các hình số 3 của các Hình 10 và 11. Trường hợp thứ hai: lấy d=350mm. Kết quả được giới thiệu trong các Hình 12 và 13. Hình 10. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=2000mm và Hình 12. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=2000mm và d=400mm. d=350mm.
  5. Thiết kế tối ưu gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP chống động đất cho nhà cao tầng khi có xét ảnh hưởng thành phần kích động đứng Hình 13. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=1000mm và Hình 14. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=2000mm và d=350mm. d=300mm Đường ứng xử trễ trong Hình 12 cho thấy với R=2000 dịch chuyển lớn nhất của con lắc đã tính giới thiệu trong Hình 10 vào khoảng 740mm. Nếu d=350mm gối chỉ cho phép địch chuyển lớn nhất bằng 700mm và như vậy hiện tượng va chạm giữa con lắc và gờ chắn của mặt cầu lõm xảy ra. Khi đó trong hệ phương trình vi phân tổng quát (6) có thêm thành phần lực va chạm fr của phương trình (5). Trong khi đó, cũng với giá trị d=350mm và bán kính mặt lõm R=1000mm. Hiện tượng va chạm không xảy ra. Độc giả có thể xem phần đường ứng xử trễ trong Hình 13. Lực va chạm giữa con lắc gối và gờ chắn của mặt lõm sẽ làm gia tăng giá trị gia tốc tầng 9 (gia tốc đỉnh) và lực cắt tầng 1 (lực cắt đáy) như giới thiệu trong Hình 12 và được đánh dấu bằng những vòng tròn trong đường ứng xử trễ và lực cắt tầng 1. Tuy nhiên, chúng ta không thấy xuất hiện dấu hiệu va chạm trong Đường ứng xử trễ và Lực cắt tầng 1 của Hình 13 cũng không có đột biến như trong Hình 12. Trường hợp thứ ba: lấy d=300mm. Kết quả được giới thiệu trong các Hình 14 và 15. Khi chúng ta rút d xuống cho gối có kích thước nhỏ gọn. Điều này có nghĩa tính mỹ quan của công trình đẹp hơn. Tuy nhiên, chúng ta cần khảo sát kết quả tính toán và vẽ: Đường ứng xử trễ, gia tốc tầng 9 và lực cắt tầng 1 trong kết quả được biểu diên tại các Hình 14 và 15. Chúng ta thấy hiện tượng va chạm Hình 15. Ứng xử trễ gối và kết cấu khi có R=1000mm và xảy ra ở cả 2 gối có R=2000mm và R=1000mm nhưng có d=300mm chung d=300mm. Điều này là đương nhiên vì với Sau khi khảo sát 3 trường hợp cấu tạo gối từ gối có d=300mm thì cả 2 loại gối đều chỉ cho con lắc dịch bán kính mặt lõm R=2000mm và R=1000mm chúng ta chuyển trong 1 chu kỳ lớn nhất là 600mm (bằng 2d). thay đổi khoảng cách dịch chuyển gối d từ d=400mm, Nhưng kết quả tính toán đã được giới thiệu trong Hình 10 d=350mm đến d=300mm. Chúng ta đi đến kết luận chọn (trường hợp R=2000mm) là 740mm và trong Hình 11 kích thược gối hợp lý nhất được giới thiệu trong Hình 13. (trường hợp R=1000mm) là 640mm. So với dịch chuyển Đó là kết cấu gối SFP có: bán kính mặt lõm R=1000mm cực đại trong trường hợp này là 2d=600mm. và khoảng cách dịch chuyển d=350mm.
  6. Hoàng Phương Hoa, Ngô Thanh Nhàn và Nguyễn Văn Nam chống động đất. Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. 4. Kết luận 2017. [6] Nguyễn Văn Nam. Mô hình kết cấu gối cô lập trượt Một số kết luận có thể rút ra từ các kết quả nghiên ma sát cho công trình chịu tải trọng động đất. Luận cứu trên như sau: án Tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học Đà Nẵng. 2017. - Thông thường, các gia tốc đồ của các trên động đất [7] Dao, N. D., Ryan, K. L., Sato, E., & Sasaki, T. có vùng gia tốc theo phương đứng lớn lệch so với phương Predicting the displacement of triple pendulum™ ngang lớn (không cùng thời điểm xảy ra) và giá trị đỉnh bearings in a full-scale shaking experiment using a của thành phần đứng nhỏ thì có thể bỏ qua thành phần three-dimensional element, Earthquake Engineering này. Tuy nhiên, nếu điều kiện trên không xảy ra, như là & Structural Dynamics, 42(11), pp. 1677-1695. 2013 trận động đất trong nghiên cứu này thì ảnh hưởng của [8] Almazan, J. L., De la llera, J. C., Inaudi, J. A. thành phần đứng là rất lớn, không thể bỏ qua. Modeling aspects of structures isolated with the frictional pendulum system. Earthquake Engineering - Mô hình tính toán và phương trình vi phân chuyển and Structural Dynamics; Vol. 27, pp. 845-867.1998. động của kết cấu nhà cao tầng gắn gối SFP được thiết lập. [9] Constantinou, M.; Mokha, A.; Reinhorn, A. Teflon Đây là cơ sở để khảo sát phản ứng kết cấu và đánh giá bearings in base isolation II: Modeling. J.Struct. hiệu quả giảm chấn của gối khi có xét ảnh hưởng của Eng, 116, 455–474.1990. thành phần kích động đứng. [10] Mokha, A.; Constantinou, M.; Reinhorn, A . Teflon - Xây dựng mô hình và viết chương trình tính toán bearings in base isolation I: Testing. J.Struct.Eng, dao động công trình xây dựng chịu ảnh hưởng của tải 116, 438–454. 1990. trọng động đất. [11] Zayas, V.A., Low SS, Mahin SA. The FPS - Sử dụng chương trình tính đã xây dựng được để earthquake resisting systemexperimental report. khảo sát thiết kế cấu tạo gối SFP đảm bảo khả năng điều EERC technical report, UBC/EERC-87/01. 1987. khiển kết cấu chống động đất (khả năng cách ly với dao động của đất nền) nhưng có kích thước nhỏ gọn thỏa mãn [12] Wen, Y. K. Method for random vibration of yếu tố mỹ quan công trình. hysteretic systems, J. of Eng. Mech., ASCE, 102, 249-263. 1976. [13] Earthquake Protection Systems, Inc. Friction Tài liệu tham khảo pendulum seismic isolation. 2008. [14] http://ngawest2.berkeley.edu/site. [1] Đỗ Kiến Quốc, Nguyễn Văn Nam. Hiệu quả giảm chấn của thiết bị gối cô lập móng trượt ma sát FPS. Tuyển tập công trình Hội nghị Cơ học toàn quốc kỷ niệm 30 năm viện Cơ học và 30 năm Tạp chí Cơ học, trang 365–372. 2009. [2] Nguyễn Văn Nam, Hoàng Phương Hoa, Phạm Duy Hòa. Mô hình các dạng gối trượt ma sát trong kết cấu chịu động đất: Gối SFP. Tuyển tập công trình Hội nghị Cơ học kỹ thuật toàn quốc, Đà Nẵng, 3-5/8/2015. ISBN 978-604-84-1273-9, trang 479-486. 2016. [3] Nguyễn Văn Nam, Hoàng Phương Hoa, Phạm Duy Hòa (2015). Hiệu quả của gối cách chấn SFP cho nhà cao tầng chịu động đất có xét đến thành phần kích động đứng, Tạp chí Xây dựng. ISSN 0866-0762. Số 3-2016, trang 34-36. 2016. [4] Hoàng Phương Hoa, Hồ Quang Nam. Hiệu quả giảm chấn khi áp dụng gối con lắc một mặt trượt ma sát SFP cho nhà nhiều tầng chống động đất. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng. Số 5(126) 2018. Quyển 2. ISSN 1859-1531, trang 18-22. 2018. [5] Hoàng Phương Hoa, Nguyễn Văn Nam, Đặng Công Thuật. Động đất và Kỹ thuật điều khiển kết cấu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2