JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 4, pp. 24-32<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0054<br />
<br />
THIẾT KẾ VÀ TRIỂN KHAI CHỦ ĐỀ DẠY HỌC TÍCH HỢP<br />
VĂN HỌC DÂN GIAN Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br />
Trịnh Thị Lan<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông năm 2017 là chuyển mạnh quá<br />
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm<br />
chất người học; theo đó dạy học tích hợp được xác định là một quan điểm xây dựng chương<br />
trình, nội dung và phương pháp dạy học. Trong các cách triển khai dạy học tích hợp, xây<br />
dựng chủ đề tích hợp là công việc cần thiết đầu tiên, cũng là công việc thể hiện rõ tính<br />
khả thi và hiệu quả. Chúng tôi đã thiết kế một chủ đề dạy học tích hợp Văn học dân gian<br />
ở Trung học phổ thông và triển khai bằng phương pháp dạy học theo dự án. Hiệu quả khả<br />
quan của chủ đề dạy học tích hợp này khẳng định tính đúng đắn của quan điểm tích hợp<br />
trong xây dựng và triển khai chương trình Ngữ văn cấp Trung học<br />
Từ khóa: Dạy học tích hợp, chương trình Ngữ văn, văn học dân gian.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Từ cuối thế kỉ XX, nhà nghiên cứu Xaviers Roegiers đã chỉ ra rằng: nếu nhà trường chỉ quan<br />
tâm dạy cho học sinh (HS) các khái niệm một cách rời rạc, thì nguy cơ sẽ hình thành ở HS các “suy<br />
luận theo kiểu khép kín”, sẽ hình thành những con người “mù chức năng”, nghĩa là những người<br />
lĩnh hội được kiến thức nhưng không có khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày. Từ đó ông<br />
nhấn mạnh sự cần thiết phải dạy học tích hợp trong nhà trường [6]. Chương trình giáo dục phổ<br />
thông (CTGDPT) môn Ngữ văn năm 2006 đã “lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo nội<br />
dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [2]. Theo<br />
đó, môn học Ngữ văn được xác lập trên cơ sở hợp nhất ba phân môn Văn học, Tiếng Việt, Tập làm<br />
văn trước đây. Dù việc biên soạn sách giáo khoa, các tài liệu phục vụ dạy học đã cố gắng thể hiện<br />
“tam vị” phải hướng tới hòa vào “nhất thể”, cũng như những người tham gia dạy học đã nỗ lực tìm<br />
tòi và sáng tạo, đối với môn học Ngữ văn ở trường phổ thông, “quan điểm tích hợp vẫn chưa thể<br />
được áp dụng một cách triệt để”. Dự thảo CTGDPT năm 2017 được định hướng theo tư tưởng chủ<br />
đạo của quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ<br />
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, theo đó dạy học<br />
tích hợp được xác định là một định hướng xây dựng chương trình, nội dung và phương pháp dạy<br />
học. Trong các cách triển khai dạy học tích hợp, xây dựng chủ đề tích hợp là công việc cần thiết<br />
đầu tiên, cũng là công việc thể hiện rõ tính khả thi và hiệu quả. Trong môn Ngữ văn, từ năm 2013<br />
trở lại đây, cách thức này được áp dụng khá rộng rãi trong thực tiễn dạy học và đem lại những kết<br />
quả đáng ghi nhận. Theo tinh thần đó, trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu một chủ đề dạy học<br />
Ngày nhận bài: 17/1/2017. Ngày nhận đăng: 20/4/2017.<br />
Liên hệ: Trịnh Thị Lan, e-mail: lantrinh@hnue.edu.vn<br />
<br />
24<br />
<br />
Thiết kế và triển khai chủ đề dạy học tích hợp Văn học dân gian ở Trung học phổ thông<br />
<br />
tích hợp cụ thể cho chương trình Ngữ văn lớp 10 như một minh chứng cho khả năng thiết kế và<br />
triển khai thành công các chủ đề dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn ở trường phổ thông.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn<br />
<br />
Tích hợp là một quan điểm dạy học hiện đại được vận dụng nhằm giải quyết mâu thuẫn<br />
giữa khối lượng kiến thức ngày càng lớn với thời gian học tập có hạn. Tích hợp tạo ra một chỉnh<br />
thể hướng đích từ các thành phần hữu cơ thuộc một hay nhiều chỉnh thể khác nhau, gần nhau. Tích<br />
hợp còn là sự thống nhất, gắn kết các phần giống nhau, gần nhau trong những chỉnh thể khác nhau<br />
trên cơ sở một vấn đề thực tiễn đang tồn tại. Kết quả của quá trình là sự ra đời một hệ thống mới<br />
mà trong đó các thành tố liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong dạy học, tích hợp là một hướng nhằm<br />
phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ, các môn học, các phân môn khác nhau<br />
theo những hình thức, những mô hình, những cấp độ khác nhau hướng tới những mục tiêu, những<br />
yêu cầu khác nhau. Dạy học tích hợp làm cho việc học có nhiều ý nghĩa hơn khi xét theo mọi góc<br />
độ: sự liên kết giữa HS và HS, HS và GV, sự liên kết các môn học, độ phức hợp và khả năng giải<br />
quyết vấn đề. Xét riêng bình diện HS, HS cảm thấy hứng thú hơn vì được thể hiện năng lực của<br />
chính mình trong quá trình học tập [7, 9]. Như vậy, dạy học tích hợp xuất phát từ yêu cầu của mục<br />
tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, yêu cầu HS phải tăng cường vận dụng kiến thức vào giải<br />
quyết những vấn đề thực tiễn.<br />
Dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp là làm cho quá trình h0ọc tập các kiến thức, kĩ<br />
năng ngôn ngữ và văn học có giá trị hơn bằng cách đặt các quá trình học tập vào hoàn cảnh có<br />
ý nghĩa đối với HS, làm cho nhà trường và cuộc sống ngoài nhà trường không còn là hai thế giới<br />
riêng biệt. Muốn vậy, quá trình dạy học phải giúp HS nắm được những kiến thức ngôn ngữ, văn<br />
học cần yếu và các cách thức vận dụng chúng vào các tình huống của cuộc sống để HS trở thành<br />
những người lao động có khả năng thích ứng cao và có năng lực sáng tạo. Điều này có nghĩa là<br />
trong quá trình dạy học, kiến thức không phải chỉ là lí thuyết chung mà còn là gì thật cụ thể phục<br />
vụ cho cuộc đời của mỗi con người để hòa nhập, hội nhập, tự khẳng định mình. Việc đánh giá kết<br />
quả học tập của HS chính là đánh giá HS có khả năng sử dụng kiến thức như thế nào trong thực<br />
tiễn.<br />
Hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây dựng nội dung chương trình, biên<br />
soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn không còn đặt ra nữa.<br />
Bài toán đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên<br />
cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông như thế nào cho hiệu<br />
quả, để “phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ<br />
trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững<br />
chắc” [2] nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực<br />
hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Thiết kế và triển khai chủ đề dạy học tích hợp cho phần Văn học dân gian<br />
ở THPT<br />
<br />
Trong dạy học Ngữ văn, ở giai đoạn triển khai CTGDPT năm 2006, nguyên tắc tích hợp đòi<br />
hỏi phải lấy khâu đọc văn và làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan<br />
hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực tiếng Việt cho HS.<br />
Biểu hiện cụ thể là: trên cơ sở trình độ và khả năng vận dụng tiếng Việt vào hoạt động đọc hiểu<br />
và tạo lập các loại văn bản của HS, GV hướng dẫn các em tổng hợp, khái quát hoá thành các tri<br />
thức về khái niệm, quy tắc lí thuyết, tạo tiền đề và phương hướng cho HS tiếp tục tự học. CTGDPT<br />
25<br />
<br />
Trịnh Thị Lan<br />
<br />
năm 2017 tiến thêm một bước khi xác định cấu trúc chương trình phổ thông môn Ngữ văn được<br />
xây dựng dựa trên các trụ cột chính tương ứng với các năng lực giao tiếp: đọc, viết, nói và nghe.<br />
Các năng lực này sẽ được phân giải thành những yêu cầu cần đạt theo độ khó tăng dần và liên tục<br />
từ các lớp cấp dưới đến cấp học cao hơn. Mục tiêu phát triển năng lực sẽ bám sát đối tượng trung<br />
tâm của bài học là văn bản, định hướng phát triển khả năng đọc, viết, nói và nghe của HS về nhiều<br />
kiểu loại văn bản đa dạng, cần thiết cho cuộc sống như: văn bản văn học (literary texts), văn bản<br />
nghị luận (persuasive texts), văn bản thông tin (informational texts). Những văn bản này chính là<br />
ngữ liệu của bài học Ngữ văn và yêu cầu đầu tiên đối với ngữ liệu phải là thuộc về những đề tài,<br />
chủ điểm phù hợp với trải nghiệm thực tiễn và hứng thú của HS. Như vậy, sức hấp dẫn và hiệu quả<br />
của các bài học Ngữ văn sẽ phụ thuộc không ít vào việc xây dựng các chủ đề dạy học.<br />
Chương trình Ngữ văn THPT chưa bao giờ và không thể thiếu nội dung dạy học kiến thức<br />
về văn học dân gian (VHDG) Việt Nam. Ở chương trình Ngữ văn hiện hành, các văn bản VHDG<br />
được chọn là văn bản dạy học đọc hiểu cho HS THPT ngay từ những bài học Ngữ văn đầu tiên vừa<br />
phù hợp với thông lệ từ trước, vừa đảm bảo tính chất đồng tâm với chương trình Ngữ văn THCS.<br />
Ở những bài học này, HS vừa cần phải hiểu được các vấn đề nội dung, nghệ thuật của văn bản<br />
VHDG, vừa phải nắm được các vấn đề thuộc về kiểu loại văn bản có trong VHDG Việt Nam như<br />
tự sự, trữ tình, kịch; trên cơ sở đó mà hình thành kĩ năng đọc hiểu tất cả các văn bản văn học dân<br />
gian khác và chuẩn bị tri thức một cách chu đáo cho việc làm văn - tạo lập văn bản tự sự trong<br />
chương trình. Như vậy, việc dạy học đọc hiểu văn bản VHDG ở THPT có ý nghĩa rất quan trọng.<br />
Đối với HS, các văn bản VHDG không chỉ là những văn bản văn học cần đọc hiểu đầu tiên ở THPT<br />
mà còn là đối tượng tiếp xúc kéo dài trong suốt cả một học kì.<br />
Trong chương trình Ngữ văn hiện hành, ở lớp 10 có các bài học về VHDG sau:<br />
- Khái quát về VHDG Việt Nam<br />
- Ôn tập VHDG Việt Nam<br />
- Các bài học về văn bản VHDG Việt Nam bao gồm: sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích,<br />
ca dao, chèo. . . [5].<br />
Việc học liên tục các bài học VHDG trong hình thức của các giờ học đọc hiểu văn bản độc<br />
lập về nội dung rất khó cuốn hút HS. Dạy và học như thế nào để việc đọc hiểu văn bản đảm bảo sự<br />
chính xác, đúng đắn mà vẫn đem lại sự hấp dẫn cho mỗi giờ học? Làm thế nào để gắn kết những<br />
giá trị của VHDG Việt Nam với thực tiễn đời sống? Trả lời những câu hỏi này thật không dễ dàng.<br />
Chúng tôi cũng đã từng nghĩ cách tích hợp kiến thức Ngữ - Văn (Tiếng Việt - Văn học) trong các<br />
bài học học về VHDG. Nhưng nếu thiết kế được chủ đề dạy học tích hợp cho chủ điểm Văn học<br />
dân gian Việt Nam, hiệu quả sẽ lớn hơn nhiều.<br />
Chúng tôi đề xuất kết hợp các bài học Tiếng Việt, Làm văn khác để có một chủ đề dạy<br />
học tích hợp VHDG Việt Nam như sau. Chủ đề dạy học này đã được triển khai dạy học ở 2 lớp<br />
10 (lớp 10D1 và lớp 10D4) - Trường THCS&THPT Nguyễn Tất Thành (Hà Nội) trong năm học<br />
2016-2017.<br />
Tên chủ đề: Vẻ đẹp và sức sống của VHDG Việt Nam (Chương trình Ngữ văn 10)<br />
* Mục tiêu của chủ đề: Giúp HS<br />
- Hiểu rõ các đặc trưng cơ bản của VHDG Việt Nam, hệ thống thể loại và các giá trị về mặt<br />
nội dung và nghệ thuật của văn học dân gian; sưu tầm và phân loại các văn bản VHDG Việt Nam;<br />
đọc hiểu văn bản VHDG theo đặc trưng thể loại<br />
- Chỉ ra được mối quan hệ giữa VHDG và văn hóa dân gian, vai trò của VHDG trong đời<br />
sống của dân tộc từ xưa đến nay; nhận diện, phân tích, vận dụng giá trị của VHDG vào đời sống<br />
thực tiễn.<br />
- Diễn xướng, viết tiếp, viết lại, sáng tác,... các tác phẩm VHDG; sáng tạo các tác phẩm có<br />
26<br />
<br />
Thiết kế và triển khai chủ đề dạy học tích hợp Văn học dân gian ở Trung học phổ thông<br />
<br />
sử dụng chất liệu VHDG.<br />
- Vận dụng kết hợp kiến thức liên môn Ngữ văn - Lịch sử - Giáo dục công dân - Nghệ thuật<br />
để giải thích các vấn đề cơ bản của VHDG Việt Nam qua từng thời kì lịch sử; hiểu sâu sắc hơn<br />
về vai trò của VHDG trong việc gìn giữ những giá trị truyền thống của dân tộc. Từ đó, khơi dậy ở<br />
HS niềm yêu thích, trân trọng những sáng tác dân gian của nhân dân lao động xưa; tự hào đối với<br />
những giá trị văn hóa, VHDG ông cha để lại cho đời sau; hình thành thái độ và hành vi phù hợp<br />
để góp phần tuyên truyền, giữ gìn và phát huy vẻ đẹp, sức sống của VHDG Việt Nam.<br />
- Qua quá trình học tập chủ đề này, HS phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếp xã hội:<br />
làm việc nhóm, tìm hiểu, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn, báo cáo, thuyết trình; năng lực cảm thụ và<br />
sáng tạo văn học (năng lực thẩm mĩ); năng lực sử dụng công nghệ thông tin vào nhiệm vụ cụ thể...<br />
Tóm lại, triển khai chủ đề dạy học “Vẻ đẹp và sức sống của VHDG Việt Nam” theo hướng<br />
tích hợp liên môn, bằng phương pháp dạy học dự án sẽ mang đến cho học sinh một cái nhìn toàn<br />
diện và sâu sắc hơn về một vấn đề không chỉ thuộc về văn học mà còn về những vấn đề chung của<br />
đời sống xã hội.<br />
* Các bài học liên quan<br />
Triển khai thành công chủ đề dạy học tích hợp này có thể sẽ đồng thời đạt được mục tiêu<br />
của các bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 sau: Khái quát VHDG Việt Nam, Ôn tập VHDG<br />
Việt Nam, Các bài học về văn bản VHDG, Các bài học Làm văn về văn bản tự sự, Luyện tập về<br />
các biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phép điệp, phép đối... [5].<br />
* Cách thức triển khai: Chúng tôi thiết kế chủ đề dạy học này bằng ý tưởng dạy học theo<br />
dự án (Project- Based Learning) [1]:<br />
(1) Tình huống thực tiễn của dự án (vai thực tiễn của HS): Học sinh là thành viên của một<br />
Ban Văn hóa - Truyền thông, có nhiệm vụ vận động, chuẩn bị làm hồ sơ giới thiệu về VHDG Việt<br />
Nam đề nghị tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Mỗi Ban<br />
này có 6-8 người.<br />
(2) Nhiệm vụ cụ thể của các thành viên dự án là: Tìm hiểu về những “trầm tích” VHDG<br />
trong dòng thời gian lịch sử của dân tộc; Khai phá, làm phát lộ vẻ đẹp của những lớp trầm tích ấy,<br />
để thêm ngưỡng mộ, trân trọng; Mài giũa, “chế tác”, đem VHDG đến với cuộc sống hiện tại; Tự<br />
hào giới thiệu với mọi người, để VHDG có chỗ đứng trong lòng mỗi người Việt và bạn bè quốc tế.<br />
(3) Thời gian thực hiện dự án: 5 tuần làm việc (tương ứng với thời gian tiến hành trên lớp<br />
các hoạt động đọc hiểu các văn bản thuộc các thể loại VHDG Việt Nam khác nhau trong sách giáo<br />
khoa.<br />
(4) Sản phẩm dự án (tính với mỗi nhóm gồm 6-8 thành viên) bao gồm:<br />
- Bài thuyết trình trước lớp về “Những vẻ đẹp của VHDG Việt Nam”. Tự chọn công cụ hoặc<br />
hình thức thể hiện: poster, power point, mind map, Prezi. . .<br />
- Tập san tổng hợp, bao gồm: các tác phẩm VHDG Việt Nam đặc sắc, có giá trị trường tồn;<br />
những phân tích, đánh giá, cảm thụ tác phẩm VHDG; các sáng tác thơ, nhạc, họa lấy chất liệu từ<br />
VHDG, mô phỏng VHDG; các tác phẩm tự sự được phỏng tác hoặc viết tiếp truyện dân gian. Tự<br />
chọn hình thức: viết tay hoặc xuất bản. . .<br />
- Tiết mục diễn xướng VHDG (dân ca, hát múa, chèo, tuồng,. . . ) được biểu diễn trực tiếp<br />
hoặc quay clip.<br />
- Nhật kí dự án (dưới dạng phim tư liệu, nhật kí ảnh, nhật kí viết tay, các báo cáo tiến độ. . . ).<br />
- Bảng chấm công, đánh giá của nhóm (đối với mỗi thành viên).<br />
(5) Quá trình triển khai dự án<br />
27<br />
<br />
Trịnh Thị Lan<br />
<br />
- Hoạt động khởi động dự án (Tuần 1 - Tiết thứ nhất của chủ đề)<br />
- GV nêu vấn đề, giới thiệu dự án và tổ chức cho HS thảo luận để xác định các hoạt động<br />
chính của dự án. HS nhận nhiệm vụ.<br />
- Sắp xếp nhóm theo năng lực, sở thích và điều chỉnh nhóm theo năng lực Ngữ văn và khả<br />
năng ứng dụng CNTT của HS.<br />
- GV hướng dẫn HS lập kế hoạch nhóm, gợi ý cho HS một số nguồn tài liệu có thể tham<br />
khảo giúp các em hoàn thành nhiệm vụ.<br />
<br />
liệu. . .<br />
<br />
thu<br />
<br />
- Các hoạt động triển khai dự án (Từ tiết thứ 2 trở đi)<br />
- HS tìm hiểu thông tin, trải nghiệm thực tế, nhập vai nhân vật, phỏng vấn, thu thập tư<br />
<br />
- GV giám sát HS hoàn thành các sản phẩm, chuẩn bị sản phẩm cho buổi báo cáo nghiệm<br />
<br />
- Trên lớp, GV hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản VHDG theo thể loại. Các văn bản đọc hiểu<br />
có thể thuộc sách giáo khoa, có thể ngoài sách giáo khoa. Việc đọc hiểu văn bản VHDG theo thể<br />
loại giúp hoàn thành các sản phẩm của dự án đạt chất lượng tốt nhất.<br />
28<br />
<br />