intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng: Phần 2

Chia sẻ: Vân Tình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:234

7
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 của cuốn sách "Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng (Chọn lọc)" tiếp tục giới thiệu các bài viết liên quan đến quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ, các mẫu thi thoại, các sự kiện văn học của cụ Huỳnh như: Chuyện thú trong làng thi, Việt ngâm thi thoại, Thi tù tùng thoại, Huỳnh Thúc Kháng tự truyện;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng: Phần 2

  1. THƠ VĂN HUỲNH THÚC KHÁNG CHỌN LỌC て PHẦN B CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN ĐẾN : QUAN NIỆM VĂN HỌC QUAN NIỆM THẨM MỸ CÁC MẪU THI TROẠI - CÁC SỰ KIỆN VĂN HỌC. 161
  2. MỘT VÀI MỸ CẢM TRONG ĐỜI TÔI Tổi, một anh học trò gốc sinh trưởng nhà nông ngheo trong tu 1 (quê, đã là cái hoàn cảnh phác dã, thô vụng, khô kha!!, quê kệch, gia dĩ đặc tính thời phủ ham mê về sự học, nửa đời người tôi, ngoài văn tảng sách vở ra , gần như không có cái gì gọi là « mỹ cản » . Bởi vậy, trong bạn lúa anh ein đồng thời với tôi như cụ Tây Hồ, i ập Xuyên vv... thường có lời nhạo tôi là « lão phác ) vì không biết bốn cải hứng thú mà làng văn thích ngoạn thưởng : 1. Không biết uống rượu. 2. Không biết chơi hoa. 3. Không biết ngắm sắc. 4. Không biết thương sơn thủy. : Chinh cụ Tây Hồ tặng tôi một bài thơ có câu : ( Khách lại vô thoại củi đam ::::r ( ! ). Ma phần đông cho bảy chữ ấy không khác gì một bức tranh hoạt họa cái « người tôi đirg trg nét. Thực ra, tôi tự xác nhận là tôi , cà phê bình ( tốix trên, nói đúng, chỉ đứng ngoài cái vỏ thôi. Người không phải cay đi , ai lại vô tình , huống những cải minh tự nhiu luận cho là đẹp, hi lại không có mối cảm hứng và xúc động ? Song tôi sở dĩ có cái ( Đỏ ) VÔ tinh nói trên là vì có hai cả. 1. Từ nhỏ ham chuộng Hán học, theo khuôn kiểu hiền triết khắc khô phương đông, cải cô:: g phu « khắc ký » có dày, át cả tình cảm , họp lại nhà có góc mà không hề phát lộ ra, tập lâu thành tinh. (1) Khách đến không nói chỉ mê sách. 163
  3. 2. Đọc nhiều sách , như lịch sử máy ngàn năm vẫn thỏa nuoc Thu, lại tiền học một it sich Tây (sch dịch và một ít sách chữ Pháp), bao nhiêu cái đẹp xưa nay xứ người đã chép tiền sách, hùng vĩ, tráng lệ, tinh xảo , kiều diễn và người đời cho là có th ? lời, rất mục » thường qua lại trong não. Ngày thường tưởng tượng luôn. Rồi tiếp xúc với những cái ở x , linh mà phần đông cho là đẹp so với cái đẹp trình đã đọc trong sách người, hai bên cách nhau quá xa . Nghĩa là cải đẹp ở hoàn cảnh mình còn sót kẻ đến trăm phần nên ít khi dẫn khởi mối cảm xúc, có cảm xúc cũng tạm thờ rồi cũng đi qua, cái mỹ cảm đó quá ngắn ngủi, không cỏ cải hứng vị làu dài như cái nỹ cảm mà mình đã đọc trong các sách . Cái lê dễ hiểu – có lẽ anh ein cũng công nhận như tôi–theo trình độ cảm giác thông thường của người đời đả thảy biển thì bao nhiêu hồ và sông chỉ là nước thừa, đã xem lâu đài năm, mười tầng thì nhà gạch ủm thủm trong thôn quê không đáng gọi là kiến trúc hoàn mỹ. Đời tôi ít có cái mỹ cản vẫn là cải thông lệ,đó. Tuy vậy, như trên đã nói, người không phải cây lá ( 1 ), ai lại vô tình, huống là đối với cái đẹp. Tôi vẫn là một người sống cả đời chìm nổi trong biển tình cảm ấy. Xin lược nột vài cải, về mỹ cản có cái nẵnh lực rung động tình cảm trong một lúc, hiện nay chtra quêu mà có lẽ trọn đời vẫn ghi nhớ . 1. Ve thi vån . Cái đẹp thi văn là cái đẹp mà tối đa hơn hết, nhất là thi văn Tàu, vì tôi xem hơi nhiều, cả cái cảm đẹp ( Câu đã tức là gỗ và đá. 161
  4. song thấy quen ra thường, không đơn cử một vài cải ra được, có chăng là văn Tả truyện, Sử ký Tư Mã Thiên , cái đẹp cổ kính giản quát và hùng hồn , nhà văn xưa lay it 8ảnh kịp . Thi thì thi Đường, chỉ một câu trả cảnh như câu « Sơn vũ dục lai phong mãn là 2 ( 1), chỉ bảy chữ mà tỏ ra một bức họa , khi nào đọc đến như thấy cảnh ấy trước mắt (không thể kề nhiều). Còn thị văn ta mà tôi cảm xúc nhất : a) Văn thì bài « Thiên hạ đại lễ luận » của ông Nguyễn Lộ Trạch cùng bản ( điều trần 2 của cụ Phan Châu Trinh. Hai bản này có cái đẹp xuất sắc là văn đã lão luyện, rõ ràng, có vẻ trầm hùng bi tráng, mà cái sức mạnh cảm xúc người ta tả thực hoàn cảnh và trạng thái bên cạnh mình nên kích động một cách rất sâu xa, không như văn Tàu, văn Tây, gãi không nhằm chỗ ngửa của mình . b) Thi ta thì nhiều quá, như cá mai một lúa . Tôi nhận là đẹp thì thi cổ của cụ Phan Thanh Giản, như lúc cụ đi sử Tàu, bài « Lưu biệt liên hữu» mở đầu có câu « Vạn lộ diệc vi khách » ( 2 ) chỉ nặn chữ là bao quát tình cảnh, lại ngu cái triết lý vũ trụ quan và nhân sinh quan , cái đẹp bao hàm rất rộng. - Thứ nữa thì thi Cao Bá Quát như bài cổ phong « Đưa người bạn làn Tri huyện » ở huyện nộ ( 3 ), trong cả một câu mà tôi cho là « không tiền khoáng hậu trong làng thi xưa nay là « Bạch đầu, trụ cầm ( 1) Mua ngàn sắp đến gió đầu tàu. (2) Muôn dặm vẫn là khách. ( 3) Tức là bài thơ Tiễn Nguyễn Trúc Khê ra nhận chức tại phụ Thường Tín • (Tông Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín... 105
  5. Ở cố hương 9 (1 ). Bảy chữ ấy, ý tưởng mới , nhân :: an mới, đến luyện chữ luyện cầu cũng mới, cái đẹp ở vẻ hùng tráng siêu thoát không những người đời không dám nói , không dám trởng đến, gọi là « Kinh phản ngữ », cậu ấy có cái đẹp khiến cho người đọc phải là lưỡi rùng mình . II. Cái đẹp thiên nhiên. Tôi ở miền rừng núi, 15 tuổi mà chưa biết cái biển là thế nào . Năm 16 tuổi , đi thi hương, cùng anh em , lúc mtrng sáng đi nga!! g qua Thanh Khê, dọc theo T.. viên ; khi mới ly biển, thấy bóng sao lờ mờ lúc gần sáng. trong ra mù mịt, chỉ thấy những làn sóng cứ cuồn cuộn lăn vào bãi cát như khúc gỗ dài kế tiếp nhau, tôi vừa kinh dị , vừa khoải thích, như ai cho tôi nột cái gì qui lạ mà trọn đời không quên. Củng lần đi ấy, đường Hải Vân còn nhiều dốc ngược , scr1 118i ở dưới chân ải, phải chân leo mãi đến trưa 1:1ởi lên đến chót đỉnh, tức là đồn Nhất, có tấm bảng & khắc ( Đệ nhất hàng quan 2, đứng trên đỉnh trông ra ba mặt, trời biển logo la, ngó nam ngỏ Lắc, trông thấy đồng tiền xóm nhà lúp xúp như bức tranh vẽ, tự xe01 mạch như ở trên mây, tưởng trên đời không có cái gi dęp bång. Từ nữa, thì năm tôi 2 : tuồi đi xem núi Ngũ Hành lần đầu, cảnh trị đã đẹp vì thanh cao, cach xa trần tục, lại được đọc mấy bài thi của cụ Mai Sơn , cùng bài thi ông Bùi Dị , nguồn thi tôi phát khởi từ đó. ( Phải biết mấy điều tôi kể trên, chỉ cảm xúc nạnh lần thứ nhất thôi , sau thấy quen ra thường. Trên đời { (4) Đến lúc tuổi gia thi mặc áo gẩm ban ngày về bôi nhọ quê hirong. 166
  6. trởng đẹp gì cũng một lúc đầu, phải chăng là cái Auật chung ?) III. Såc đęp . Xưa nay ; trên đời gọi là chân sắc , có lẽ mấy đời Bởi có một người như Tây Thi, Chiêu Quân ... chở không phải là thứ thường có ; phần đông cho là sắc đẹp, có lẽ là son phấn, quần áo, đồ trang sức đề ngoài, chở chưa hẳn là chân sắc: Đời tôi có chăng chỉ thấy có một người, người con gái nhà thông thường, quần vải áo thâm, không mượn chút son phần nào mà cái đẹp thiên nhiên, nỏi danh cái sóng nê người, ai trông thấy cũng say ; quan khách nối Inai đầy cửa, mà cô không nghe ai , sau cố kết duyên với một người thợ đúc, vì có nhận người thợ quê thiệt ấy có tin yêu chân chính. Ấy là cô con gái ông thợ 1, ở gần phủ Điện Bản ( Quảng Nam) mà tôi tình cờ được thấy hai lần. Một lần giữa đám hát bội ở trước sân phủ . Rạp lát ta xra không có sắp đặt thứ lớp như ngày nay, trong thì liệt mấy bộ vin, ngoài thì khán giả đứng xem chung quanh, có phải tăng khảm đàn ông, đàn bà . Đêm ấy, bọn hát đường diễn tuồng, đèn giáng sing choang cả rạp, quan khách đều chả 1 coi hát, bỗng bên chán đàn bà thấy có cái tia sáng ánh ra như một luồ ::g điện đi qua, khiến cho đám đông đương náo nhiệt ấy Bỗng có vẻ yên lặng khác thường. Cái gì vậy ? Thì ra trong đánh đàn bà ấy có một người con gái vừa chen người lín vào xem , mà cái sóng Sơng mặt của c ) làm cho cả khủm đàn bà kia như không có người, trăm ngàn con mắt đều chân vào cô 167
  7. non chứ không có gì lạ. Lúc ấy có vị quan tỉnh ngồi xem có đọc câu thi : « Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng (1). Tôi cùng một vài anh em đi xem hát được thấy cái đẹp đó mà nay còn nhớ. Người đẹp như thế mà khoảng ấy quan thân tấp nập, nhiều người mai mối, có thầy đề rọ quyết dùng thể lực buộc cha mẹ ép cỏ , đến gay chuyện rắc rối , mà có nhất định từ chối, kết duyên với người thợ đúc quê mùa, rõ là một sự lạ . Cuộc hôn nhân này, chính thầy Tủ già (thầy học tối) làm mối. Cách năm sau thầy Tủ mất, hai vợ chồng có bang hai tộ bánh đến cùng, giữa đám tang, bạn và học trò, cả tiến sĩ, phó bảng, cử nhàn, tủ tài cùng khách rất đông, mà khi cô bưng tộ binh bước vào đặt trên bàn, đám đông nghe như có luồng điện làm cho Trung động. Đó là khi cô đã có chồng tuột năm rồi, và cái đẹp thiên nhiên còn có vẻ xiều đình đổ quái. Sau đưa đám về, ai cũng hỏi thăm lại lịch cò . Hiện nay cô đã qua đời, có hai trai hai gái. Người chồng hiện đượ , cỏ , đã lui ở tui. IV. Kịch giới. Tôi lúc đi học có xem hát bội ta , cũng có ham mẻ về cái âm điệu nàn, khách, ngâm, lý, v.v ... có ban diễn coi được, nhưng phần dở thì nhiều, không có vai nào xuất sắc, chỉ có anh Bếp bạn hit ( Bàn Thành • đóng vai đảo, sắc không đẹp, giọng hát cũng khô khan khong hay ho gì, mà có cặp mắt quá sắc sảo , inê ng ! ời chỉ tại cái nét thu ba đó . Năm 1897 có ra hát khánh tiết 4 ) Đèn nay trắng sáng người đều ngăn. 168
  8. Huế tập diễn trong Bộ, Bếp đóng vai đảo ( đáp Đưởnt hái hot) , các cụ thường bảo nhau : « Các ngài xem, nó đẹp hơn các cô nhà mình quá ! " 1 Thuở nay tôi xen hát nhiều mà chưa thấy có cặp Imắt đẹp như thế. V. Hou . Thì tôi cũng như ông Châu Liên Khe, cho hoả sen là dep hou diét. > (Tiếng Dân ngày 10-8-19391 GIỌNG THỊ NHÀ GIÀU. Một ông phù hộ, thì giàu nhiều ruộng, nhưng có tinh than , phà :21 ai liớn ruộng, hoặc vay liền gì cũng phải có đua vật gì đến làm lễ ông ta mới cho, không thì đuỗi ra. Ông ta có lọc làm thi, có một điều thủ là phàm đề trục gì có hơi đồ " g nghĩa là hợp với ©ải khiếu tỏi & khum » đặc biệt của ô : g, thì ông mở niệng thành cầu, không cần suy nghĩ gì cả . Một ngày nọ có anh Tượng Tam tới hỏi muôn ruộng . Anh ta vốn biết trái than của ông ta nên có mang con gà theo làm lễ , soi's hot trong cái lồng để ng bài cửa , có 1 niuh thì đi tay khọng vào trước. Ông ta thấy anh ta tới mình sung ( ichống thang lễ vật gì theo) trong ý hồ ng ta, hỏi 11 : ột cách cảnh hoảnh rằng : –ở Trung Tin anh đến có việc gì ? Bầu ông, tôi tới 311 31g, xin tá ít sào ruộng. 169
  9. – Này, anh nghe câu thi này : « Tiả điền bát dị Truong Tan chủng » ( Ruộng này chả để Trương Tam cấy). Anh ta dạ vâng bưởc ra, hai tay xách lồng gà vào, de tieớc mặt ông và thưa rằng : -Tôi có lòng nuôi con gà này, nay đem dâu 8 Ông xơi cháo và ... Nói chưa dứt lời, ông ta vừa thy con gà anh kia thì thi tứ xoay lại một cách lanh lẹ, đọc tiếp nột câu Lĩa : « Bắt nữ Trương Tan cán dữ thùy ? » ( Không cho Trus làm thì cho ai) ? Thế là anh Trương Tam Thở có lẽ con gà mà được mướn ruộng . Ông phủ hộ này có tính than, nhưng biết làm thi mà văn từ cũng vẫn tiếp, có nộ; thứ hoa vẽ để trong cái túi khong tay của mình, so với máy nhà giàu kia không biết chữ nhất là nuột, cao lớn đến mấy bạc . Ở trong đời biết bao nhiều nhà văn sĩ thấy tiền 11: xoay bit như chong chói 3 : đời xa có liản là làm trái bia a dua ( Du li ? mỏ), Nguy hiểu làn bộ tủ chép việc để tiện ( Uẻ sỉ ); hiện đời nay lại có nhà báo ăn của lºt. Vậy thì câu chuyện của ông nhà giu zhuật trên , cũng chura dů trách vor . Tiếng Dân 2-4-1930 GIỌNG THỊ NHÀ NGHÈO Trong một bài trước đã nói giọng thi nhà giàu, nay xin huat giọng tủi nhà nghèo. 170
  10. Một bác Đồ nghèo khó, gia tuy chỉ có một vạt vườn trong vườn ấy có một cây liễu. Bên cạnh cây liễu cả cái lều tranh của bác để đi về chui đụt khi mưa nắng. Bình sinh bác chỉ có một nghề « gõ đầu trẻ » đăng kiếm cơn ngày. Rủi đầu bị đau một độ, may khỏi chết, nhưng không ai bảo dạy trẻ nữa, khô:: g lẽ ngôi nhà nhịn đói được . Bác nghị quan nghĩ quần , trong trước ngõ sau, sở hữu chỉ còn một vạt vườn, định đem bán cho một ông nhà giàu bên xóm. Lạ gì cái thôi mấy anh « mọi giữ của y, nghe cô hơi giỏ bay qua cái đãy than kia thì lên mặt bắt tròn bắt mèo, làm nghiệt những kẻ có điều gì đến cầu mình. Khi bác Đồ tôi tra chuyên bán vườn, ông ta trong lòng để lg tím, vì thuỷ nay đã đòn thấy miếng vườn ấy gần với virởn mình . Nhưng bề ngoài làm cách khỏ dễ, và cố làm quẫn lác Đồ kia để trả cái úc lâu nay ( h:mờng nghe những tiếng « 1 ghèo trong giàu đục vv... ». Ông ta nghĩ thế trói bảo rằng : Vườn thì tôi lắng lòng mua giúp cho thầy lúc quẫu lúc này, có tội khỏ:: g thiếu gì vườn. Vày tôi mua đo11 và ngày khác không được chuộc, và buộc thầy cột điều : Thầy thuở tay có tiếng thi hay, nay bán vuả: không được làm theo lối sáo như văn khế người ta thường làm, phải làm một bài thơ thi đề thay cái lề. Cái lề nục của ông giàu kia ra cũng mới mẻ mà cũng cay nghiệt t ? it ? Bài thi mà thay cái khế thì làm thế nào ? Bác Đồ biết lão giàu này làm nghiệt cho xấu mình, nhưng không theo điều buộc của lão khi lão không chịu nghe, không mua cho, thì lấy gì mà cứu cái khôn lửa cháy lòng này lày giờ ? Ngần nghĩ một lát, bèn thở dài 1: ột tiếng mà lạói : 171
  11. - Vâng ! Tưởng Ông thách điều gì kia, chở thi thì cái khi vô tận của tòi giống gì cũng chứa săn cả. Nào bit giấy đem đây ! Ong nhà giàu bảo đem bút giây và ngồi xe : 1. bác Đồ viết . Bác đồ cần viết, viết ngay : « Tự ( 13án niên lai khắc cốt bần . Ngô Diên kim di thuốc đóng lân » . Dịch : « Cái nghèo mấy độ đục sau lưng, • Virgin Iỗ này về chủ khác trung » Ông nhà giàu nói : -- Khoa:1 đã, thầy phải tả trong bài thi có cái ý « tuyệt mãi bắt đắc lại thục » (lái đoạn không được: chuộc lại ), mới được. Bác Đồ liền tiếp hai câu : « 1 cần bi ngữ tiến rung liễu, Tia lật tương phùng thị lộ riản 2. Dich : « Vắn võ dặn cùng cây liễu rọ, . Ngay sau gặp lỗ, áy người dưng » ! Ông nhà giàu nghe xong bốn câu thi, tấm tắc ngợi khen thưởng cho bác Đồ một món tiền to, mà không ly vườn. big nhà giàu này không làm thi như ông chủ ruộng bữa tia, soing còn có log ( thất hiện liên ti » , và cũng vì bài thi bác Đồ hay, nhà cảm động được ông. Tog bài thi bối câu đó , nhu nói thế cho văn chế thì chỉ một cầu thủ hai ( gò viên kiu dĩ lọc đông 172
  12. làn 2 là đủ rõ rồi. Đến như nói « bần » là cái nguyên nhân bản vườn, nói đến cây liễu nhà dặn dò ngày sau... , là chỉ cải tình cảnh sau khi bán vườn rồi ; tình tứ triền miên, lời ngắn mà ở dài, hàm bao nhiêu nổi cảnh khái. Nay ta đọc qua cũ g phải mủi lòng, không lạ gì ông giàu kia cũng phải mở cái đấy tiền bịt miệng của ông ra . ( Tiếng Dân 17-4-1930 CỤ PHAN BỘI CHÂU VỚI ÔNG NGUYỄN THƯỢNG HIỀN C Phan học giỏi có tiếng từ thuở nhỏ , đã đỗ đầu xử mấy lần mà đi thi cũ hỏng. Khoa thi Hương trường Nghệ nản Đinh dậu (Thành thái thứ 9 – 1897) cụ vào trường chì, bị cái án « loài hiệp văn tự » ( 1). Nguyên lúc xưa, vào trường thi , học trò phải mang lều vào đó!13 tại nhà ngồi làm văn. Tán cụ bất kỳ, không nghĩ đến đồ lều trại ấy . Bữa vào trường, anh em đưa cho Cu Imột cái lều, Cu 11g vào cửa , linh xét , rủi đầu kiểu lều có tờ và (2) hay giấy nhám gì đó. Thế là cụ bị ái hoài laiệp văn tự . Ai cũng biết anh học trò giỏi chỉ mang cái bụng là đủ rồi, còn a : h học trò đốt, dầu có nang cả so sicii ko li xưa vo, rặn cũng không ra chữ nào. Nên cái á1 « laoài hiệp » gay xua tuy nghiền, mà quan trường có 2 cái « ca » ( 3) ấy cũng ( 1 ) + cng theo sách vở tài liệu vào frường thi. 12 Tờ giấy viết chữ , câu theo vần . ( 3 ) Có, phiên âm chữ Pháp { cas } là trường hợp. Từ & có 5 này đá Việt hóa ficig cách: cùng . 173
  13. hay tha thứ. ( Khi vào của trường có Tuấn chấn trờng gồi trên ghế treo, xét gọi tên ''ọc trò vào trường). khi linh xét lều cụ thấy có giấy chữ, Cu nói : Các chủ không biết đầu xứ San ( 1 ), chữ ngoài bìa sách cũng nhớ, cần gì mà « loài hiệp » ! Vì câu nói ngạo ấy nên quan trường sinh ghét mà không cho thi. Theo lò :3g cha mẹ ligy xtra, cho con đi học ai cũng nuốn thi đỗ, nay cụ bị cái ái « ??oi hiệp » đã không được thi khoa ấy, mà còn mang cái in « chung thân bất đắc ứng thí » ( trọn đời không được đi thi)... Ông Cụ thân sinh cũng có ý buồn . Sau đó , anh em mới khuyên Cu và giúp Cụ vào Kinh học trường Gián, lấy vốn tại huynh động khanh tưởng, đề thủ tiêu cái án Kia , đi 1g khôn sau có thả thi . Vì thế mà Cụ mới mang cái án « hoài hiệp » vào Kinh, thành ra có cái dày đang định với ông Nguyễn Thượng Hiền. Biết nhau bởi bài phủ « Bai thạch vi huuni » . Học giỏi mà thi không đỗ lại năng cái án « khô " g được ti », những bạn khoa giáp trong xử còn ai đến xỉa đến Trác cô g kia nữa Và trong con mắt Cụ cũng nh ng xen lọn kia ra gi . Tro!! g bạn khoa hoại Ngọ Tỉnh ở Kinh lúc by giờ có cụ lặng Thi Sơn (2) là tì?1 giao với C , đãi Cụ Hill ain't em ruột, nên Cụ 150i y học ở An Hòa ( nhà thân sinh ông Cử Võ Bả Ilạp) thường qua lại chơi với Cụ Đặng Thai Son. (1) Tên cũ của Phan Bội Châu là Phan Văn San. ( 2 ) Túc Đặng Nguyễn Côn Li- 67 - 3921 đỗ Phó bảng, bạn thân và là người của quê của c! i'lali. 174
  14. Lắc ấy, ông Nguyễn Th! ợng Hiền (đỗ Hoà " g giúp lúc tuổi trẻ) theo cụ liệp ( 1 ) cua cùng ở linh, nhận circ fun nhỏ ở sứ quán, cung cụ Đặng thường hay ra văn và chấm bài học trò cio vui . Đành tiếng ông Hoàng giáp chân văn lùng lẫy củối kinh đô . Một bữa, cụ Phan tới cụ Đặng tỏ ý muốn ra mắt quan Hoàng giá ). Cụ ĐẶg vẫn tan phục văn tài cụ Plai , sẵn lòng giới thiệu nhưng không muốn và cỏ (2) mà đi lại , xe: 1 crời và nói : Ái chà ! « Ông đồ hoài. hiệp » mà muốn tới Ông loài 3 giap nghe đường đột qui. Nảy ! Ông Hoàng giáp mới ra cái đề phú « Bái tin c ci hugin » , ông vì là: nội bài đen đây, tôi đưa sang cho ông loáng chất, có văn tự làn môi giới , sau sẽ ra mắt thì hay hơn. Cụ Phan về làm xong bài phủ, đưa sang cụ Đặng, 4 cụ tặng đau xem , vừa lúc quan Hoàng đến cùng xem. Ông Hoàng giúp Nguyễn Thượng Hiền có tiếng thần đồng lọc giỏi để sớm, có tinh tra văn, xen na một nháy mắt, « nhất !! c tin hàng » (3). Đọc qua bài phủ. rồi xây lại, miệng đọc tay khuyên, vỗ bàn đạp ghế, tủ ý kinh phục cụ Đáng : – Rõ là ngọc châu mà ở dưới bùn, bác đồ này không phải là người tàn thường, sức học của bác ta. không kém họ :1 tu11h, là bác ta cũng không phục gì bọn khoa giúp mình đâu. Ngài xem những câu : ( Tướng tăng năng chi ngạo cốt, chỉ trong trưởng ngữ thập niên { 1} Tức là cụ Nguyễn Thượng Phiên. Hiệp hiện đại học si trái triều Thành Thái, thân sinh của Nguyễn Thượng Hiền . 42 ) Vô cố : không có cớ,. lự do. (8) Một cái nhìn có thể đọc xong mười hàng chi . 175
  15. Áp thác lạc chi ku tư, liệu phục nhượng quân bán dich » ; Ciirg : ( Tan sinh điền hải chị tư, vị porn tượng bị ; Nhất phiên bỏ thi Ôn chi lực, hiu thi phòng quận ). Dich : « Tăng tăng thay cốt ngạo, đã dành hơn tớ mười năm ; Lỗi lạc ấy cách kỳ, hãy tạm thrợ:1g ng rơi nửa chiếu ... « Quyết lòng lấp biển ba sinh, không quên nhờ bác ; Gáng súc vá trời một mảnh, may lại gặp người ) . Cái khi lỗi lạc ấy bày rõ ra ở câu văn. Bác này Chúng mình cũng nên tốn bác kia làm Anh. Tôi muốn gặp bác ta, Ngài giới thiệu cho nhé ! Thế là cụ Phan muốn gặp ông Hoàng mà nhận bài phú trên, Ông Hoàng lại muốn gặp cụ Phan, cái duyên văn tự khởi nồi từ đó . Cụ Đặng : - Ngài phê bình vài phi này đi ! Bữa sau ông đồ lại đây, tôi sẽ cùng đi sang chơi. Ông Hoàng buộc cụ Đặng viết một bức thir cho cụ Phan nói là đủ đua bài cho ông chăm. Chấm xong ồng đề bài thơ như sa !ì : ( Trong Dương lão nhân cổ thi khách, Sinh lai hảo kỳ nghi hữu tịch. Bất tương song thủ áp hầu vương , Cliết yêu phản hướng sơn trung thạch, Tùy dữ tác phú thanh nia không. Nãi dữ tử ông hung khầu đồng, 176
  16. Biz s ; nh đo lại di sơn chi, Bút đoạn dũng xuất sinh trưởng hồng, Thiên loang địa lão hoài linh các, Thi công Tin lành nga tung nhạc ; Tảng lặng khí fiét thượng chan phản, Du hữu ngoan si bất năng học, Hành bán súc tụ nhuận bát hoang. Bảo phác rồi thì tùy năng lượng, Quân bắt kió 2 lô thư tam quyền khai Hán thất. Cốc Thành quy chít thiên mang mang ), " Dich : Ông già Trơng Dương tay thi ba ( 1) Binh sinh có tinh tra thích lạ ; Hai tay không với cửa sầu vương Cò mình vào núi lạy hòn đá, Bài phú ai, tiếng dậy lừng không ? Khâu hoài, lỗi lạc cũng như ông : Dời non dốc biên chi bình nhật, Ngòi bút tuôn ra như cầu vồng. 1 Trời nghiêng đặt ngã dạ không đổi, Ai cùng ông anh nằm trong núi ? Khi tiết cao thượng có thể vin, Duy cái ngoan si học không nổi, Ngậm mày chứa mù nhuận tảm châu. 06 Ngọc ở trong đá ai biết đâu. { { ! Mỗ Phái người Tương Dương hay thơ, có tính kỳ kho, thay hòn để lạ, cúi mình lạy. tôn là anh. 1777
  17. Ngươi không thấy ba quyền Tổ !!r mở triều Hàn, Cóc Thành đi về trời mù m ( 1 ). Tiếng Dân ngày 26-9-1934 CHUYỆN THÚ TRONG LÀNG THI (Thi họa vầu và hạn vn) (uch ) Lối thi xướng họa bên phương Động ta rất xưa. Về đi Brờng Ng! ( trước IPa Tổ kỷ nguyên trên 2000 năn ) đã thấy vua Thuấn cùng tôi là Cao Dao Canh họa với nhau . Sau đến đời Chu (cũng trước kỷ nguyên ), trong Kinh Thi có những bài thủ đáp nhau. Xe71 câu : « ta xưởng máy họa » (xương dư họa ni) thì rẽ lối thi xưởng họa đời ấy đã thịnh, nhưng chưa có luật phép bỏ buộc rgliền git, ý thế nào thì nói ra thế ấy. Đến đời Đường sau kỷ nguyên ) đã có luật thi, phép tắc củg nghiêm , đến thi Xướng họa cũng buộc theo khuon kieu, lít là bài họa phải theo vận của bài Xtrang. Xem những tập thi Lục qui nông, Bí thật hưu, thì rõ lối thi luộc họa vẫn có từ đầu đời Đường. « Chân mình đút vào giày kẻ khác », lối thi họa vần ” thức giả đã cho là gì , cn tinh linh, là vô thủ hứng, vô ý nghĩa, cái đó vẫn có , ký giả củng cống nhận như tlế . ( ) Trương Lương đời Hán trở, Hoàng Thạch công cho ba quyền sách, giớp Cao hồ đựng nghiệp Fián, sau thành công , theo Hoàng Thach tu tiên, ông Nguyễn Thượng tiền tự sánh mình với Trương LƯong. 178
  18. Tuy vậy đứng riêng về mặt nghệ thuật, nói cho rõ là thợ thi, thi thi họa vần có cái trường h.. đề tỏ tài tử sức, nhất là trừ cải tệ sao tập phiếu thiết (ăn cắp thi kẻ khác làm thi mình). Vì họa vần dùng theo vần nguyên xướng, gặp những vận hiền, nếu không phải người có tài hoa, lâm thời vận dụng, thì làm không nỗi bài họa đỏ . Ngày xa, người Nam ta sang sứ Tàu cốt chọn người hay thi là vì cô ấy, mà trong làng thi đã thành thói quen, nên hiện nay thỉnh thoảng cũng có người làm theo . Họa vần cũng như hạn vận ( 1). Dưới đây ký giả thuật vài chuyện thu về hạn vận thi quốc văn : A. Tương truyền đời Lê , vua ra cài đề chuông mà hạn vận 7 uông ). Cái vận rõ chốt cứng mà có nhà gieo : « Thảng ngọng trò tre đánh cái « uống ». Lại có nhà gieo : « TÂu Đua xin chịu nhiệt cần ( uống 2. B. Cũng cải tử « thằng ngọng » mà câu này xuất sắc hơn . Đề cái đèn mà bạn vẫn & oai ». Công nghiệt như đề trước, cả nhà gieo : « Thầy đồ trọ trẹ nằm không ngủ, Thằng ngọng trầm trồ « ở dề oai ). Mấy vần thi trên ai đọc cũng bực crời, mà thi khiến cho người đọc phải crời túc là có hứng thủ. 3 (1 ) Học vần là y theo thi xướng mà họa, hạn vận e máy bàn chân. 179
  19. C. May ông lão truyền nhau bài thi « Từ Thứ qui tao ). có kiểu đa: dim sinh có cù : voi, Níuối zál linge by mia mji. Ở lớn đi nên lời cột có, Về Tạo cho các cô cậu còi... 2 rồi loạn vật ... roi... tai... là một bài thi thuở này không ai họa tiec à thật thế, ký giả nghe đc một vài văn học mà : 3 : kiòng được. Tuy có một câu vận & moi 2 này nghe cim : « Mẹ già nhà vắng thế choi voi 2, Trên là chuyện xưa, y nhân tiện thuật lầng thi « quốc sư phạờn » ở Côn ! ên cũng có bài « họa vận cỏ thủ : Cụ Huyện Nguyễn Du Hàm người Đông Ngạc, Bắc Hà, nắn 1303 C cùng con là ông T. cai chung với mấy ông thân sĩ Thanh Hóa (vì việc « Flạc Thành thi xã và đày ra Côn Lĩ. Cụ sinh thi , một bữa cụ làm một bài văn « Thời sự cần tác », thi tốc âm mà vận rành thi chữ fián, nguyên thi ký giả không nhớ, chi nhớ mấy vần thuyền, duyên, tỉuyến, miên, quên. Bạn họa có trên 30 bài nà khi ng bài nào nghe được, trừ ra đòi cau, duy có bài của ông Cự Quản (Quảng Ngãi) là xuất sắc, ký giả nhớ từ câu 3, 4 trở xuống : Cảnh tù ra thế nhàn như chết, Bệnh nước khi nào chữa đặng thuyên 180
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2