intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thời Kỳ Lý - Trần 1010 -1400 Nhà Lý (1010-1225)

Chia sẻ: Abcdef_36 Abcdef_36 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

193
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lý Thái Tổ 0110-1028 Lý Thái Tông 1028-1054 Lý Thánh Tông 1054-1072 Lý Nhân Tông 1072-1127 Lý Thần Tông 1127-1138 Lý Anh Tông 1138-1175 Lý Cao Tông 1176-1210 Lý Huệ Tông 1211-1225 Lý Chiêu Hoàng 1225I. Lý Bát Đế Năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh chết, Triều đình tôn Lý Công Uẩn, một người có uy tín và thế lực trong triều lên làm vua. Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Hà Bắc) không có cha, mẹ họ Phạm. Thời niên thiếu của Lý Công Uẩn trải qua trong môi trường Phật giáo. Năm lên ba,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thời Kỳ Lý - Trần 1010 -1400 Nhà Lý (1010-1225)

  1. Thời Kỳ Lý - Trần 1010 -1400 N hà Lý (1010 -1225) L ý Thái T ổ 0110 -1028  L ý Thái Tông 1028 -1054  L ý Thánh Tông 1054 -1072  L ý Nhân Tông 1072 -1127  L ý Thần Tông 1127 -1138  L ý Anh Tông 1138 -1175  L ý Cao Tông 1176 -1210  L ý Hu ệ Tông 1211 -1225  L ý Chiêu Hoàng 1225  I. Lý Bát Đ ế N ăm 1009, sau khi Lê Long Đ ĩnh chết, Triều đ ình tôn Lý Công Uẩn, một ngư ời có uy tín và th ế lực trong tri ều lên làm vua. L ý Công Uẩn ngư ời làng C ổ Pháp (Tiên Sơn, Hà Bắc) không có cha, mẹ họ Phạm. Thời ni ên thi ếu của Lý Công Uẩn trải qua tro ng môi trư ờng Phật giáo. Năm l ên ba, Lý Công Uẩn làm con nuôi cho n hà sư L ý Khánh Vân (vì th ế ông mang họ Lý). Sau đó ông lại là đ ệ tử của S ư Vạn Hạnh và ở hẳn trong chùa L ục Tổ (còn g ọi là chùa C ổ Pháp) L ớn l ên, Lý Công Uẩn đ ư ợc giữ một chức nhỏ trong đội cấm quân của vua L ê Đ ại H ành. Ông n ổi t iếng là ngư ời li êm khi ết và đư ợc giới Phật giáo ủng hộ. Năm 1005, sau khi L ê Đ ại H ành mất, các h oàng t ử tranh ngôi, Thái tử Long Việt lên ngôi ch ỉ mới ba ngày thì b ị L ê Long Đ ĩnh giết. Lý Công Uẩn không ngại ngần, ôm x ác ngư ời vua mới mà khóc. Lê Long Đ ĩnh, Lý Công Uẩn làm T ả thân vệ Đ i ện tiền chỉ huy sứ, thống lĩnh toàn th ể quân túc vệ. L ê Long Đ ĩnh chết vào năm 1009 sau m ột thời gian trị v ì tàn bạo. Lúc bấy giờ giới Phật giáo với các vị cao tăng danh tiếng như sư Vạ n H ạnh đang có uy tín trong x ã h ội và trong triều đ ình. H ọ cùng quan đại thần là Đào Cam M ộc đ ưa L ý Công Uẩn lên làm vua. L ý Công Uẩn l ên ngôi, lấy hiệu là Lý Thái T ổ, lập n ên nhà Lý. Nhà Lý truy ền đ ư ợc tám đời n ên s ử sách thư ờng gọi là Lý Bát Đ ế (không kể đ ời Lý Chi êu Hoàng) L ý Thái T ổ là một vị vua hiền từ, rất lo cho dân. Vua ở ngôi đ ư ợc 19 năm, mất vào năm 1028. Vi ệc tang l ễ chưa kịp hoàn tất thì các hoàng t ử tranh nhau ngôi vua dù Lý Phật M ã đ ã đ ư ợc lập làm Thái tử từ lâu. Nhờ sự giúp sức đầy dũng mãnh của L ê Ph ụng Hiểu mà Lý Phật M ã đ ư ợc lên ngôi, lấy hi ệu là Lý Thái Tông. Các hoàng t ử đã t ừng tranh ngôi với Lý Phật M ã xin v ề chịu tội, với tinh thần từ bi hỉ xả của đạo Phật, nhà vua tha t ội và phục chức cho họ lại như cũ. L ý Thái Tông cũng là một vị vu a nhân t ừ. Nhà vua thư ờng tha thuế cho dân chúng mỗi khi trong nư ớc gặp nạn mất m ùa hoặc vừa có chiến tranh. Ngay đối với kẻ l àm n ội loạn, nhà vua cũng dùng chữ nhân để đối xử. Như trư ờng hợp N ùng Trí Cao, sau khi n ổi l ên cát cứ, bị bắt, vua Thái Tông k hôn g những tha tội làm loạn mà còn phong t ư ớc cho nữa. Vua Lý Thái Tông làm vua đư ợc 27 năm t hì mất.
  2. L ý Thánh Tông lên ngôi vào năm 1054 và cũng trong năm ấy nhà vua đ ặt quốc hiệu là Đ ại Việt. Lý T hánh Tông n ổi tiếng nhân từ, y êu dân như yêu con. Nhà vua c òn t hương đ ến cả những ngư ời bị t ù t ội, cấp cho họ chăn chiếu để đắp, cho c ơm ăn ngày hai b ữa. Vì th ế, dư ới triều này, trong nư ớc ít có n ội loạn, cuộc sống t ương đ ối thanh b ình. Nguyên phi c ủa vua là bà ỷ L an, nổi tiếng giỏi việc trị nư ớc thay vua khi vua bận đ i đánh Champa. Bấy giờ, cương vực của Đại Việt có th êm phần đất Q u ảng B ình, Qu ảng Trị ngày nay. V ua Thánh Tông mất vào năm 1072, Thái T ử C àn Đ ức, là con của vua Lý Thánh Tông c ùng bà ỷ L an, mới 7 tuổi, l ên làm vua, lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Quan Thái s ư là Lý Đ ạo Thành làm phụ chính. Đ ặc biệt dư ới triều Lý Nhân Tông có cuộc phá Tống của Lý Th ư ờng Kiệt. L ý Nhân Tông mất năm 1127, làm vua đư ợc 56 năm. Vì vua Nhân Tông không con nên đ ã lập con của ngư ời em l ên làm thái t ử. Đó là Lý Thần Tông, lúc ấy mới có 1 3 tu ổi. Tuy vua nhỏ tuổi nhưng các quan đại thần hết lòng giúp đ ỡ, n ên trong nư ớc cũng đ ư ợc y ên ổ n, ít có loạn lạc. Lý Thần Tông ch ỉ làm vua đư ợc mư ời năm thì mất. Con là Lý Anh Tông mới ba tuổi đ ã làm vua, đ ư ợc Tô Hiến T hành phụ tá đắc lực n ên vi ệc triều c hính vẫn ổn định. L ý Cao Tông lên n ối ngôi cha cũng chỉ có ba tuổi. Nhà Lý bắt đầu suy vong từ đây. Vào đ ầu triều Lý Cao Tông, Tô Hi ến Thành còn làm phụ tá vài năm th ì mất, triều thần vẫn c òn giữ đ ư ợc nền nếp của các tri ều tr ư ớc n ên cũng tạm ổn. Nhưng khi lớn l ên, Lý Cao Tông ham chơi b ời, săn bắn, b ê tr ễ việc nư ớc lại th êm tiêu hoang phung phí, cho xây cung đi ện bắt dân chúng phải phục dịch. Quan lại th ì n hũng nhiễu n ên trong nư ớc loạn lạc nổi lên như ong. N hững cuộc nổi loạn lớn nhất và có ả nh hư ởng đến n gai vàng của họ Lý là loạn Phạm Du và loạn Q uách B ốc. N ăm 1208, Phạm Du nổi l ên làm loạn ở Nghệ An, vua sai quan phụng ngự là Phạm Bỉnh Gi đi đánh d ẹp. Bỉnh Gi đánh đuổi đ ư ợc Phạm Du, tịch bi ên của cải và đ ốt phá cửa của Phạm Du. Phạm Du cho n gư ời về kinh đ ô, đem vàng bạc đút lót cho các quan lại để vu cho Bỉnh Gi tội giết ng ư ời vô tội. Lý Cao Tông nghe lời, cho bắt Bỉnh Gi. Thuộc t ư ớng của Bỉnh Gi là Quách B ốc nổi l ên, tiến đánh đến tận kinh thành. Lý Cao Tông cho gi ết Bỉnh Gi rồi c ùng gia quy ến chạy trốn. Thái T ử Sam chạy đến nương náu tại nhà Tr ần Lý, tr ư ởng họ một gia đ ình đ ánh cá giàu có và có th ế lực ở làng T ức Mặc, t ỉnh Nam Định. Tại đây, thái tử Sam thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp n ên cư ới làm v ợ. Gia đ ình h ọ Trần đem của cải ra m ộ quân dẹp loạn và h ộ tống đ ư ợc nhà vua v ề Thăng Long. V ề kinh đ ư ợc một năm thì vua mất, thái tử Sam l ên n ối ngôi, đó là Lý Hu ệ Tông, Trần Thị Dung làm h oàng hậu. T ừ đấy họ Trần uy thế nhất triều, hai ng ư ời anh của hoàng hậu là Tr ần Thừa và Tr ần Tự Khánh cùng n gư ời em họ là Trần Thủ Độ giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Trần Thừa l àm N ội thị phán thủ, T rần Tự Khánh làm Phụ chính, Trần Thủ Độ làm Đi ện tiền chỉ huy sứ. Quyền hành ở trong triều nằm cả trong tay của Trần Tự Khánh, khi Trần Tự Khánh chết rồi t hì Tr ần Thủ Độ nắm quyền. L ý Hu ệ Tông không có con trai, chỉ có hai ng ư ời con gái cùng Trần Thị Dung. Công chúa Thuận T hiên, gả cho Trần Liễu, con tr ư ởng của Trần Thừa. Ngư ời con gái thứ hai là Chiêu Thánh, rất đ ư ợc L ý Hu ệ Tông y êu mến và lập làm Thái t ử. N ăm 1224, Lý Hu ệ Tông nh ư ờng ngôi cho Chi êu Thánh và vào ở trong chùa Chân Giáo.
  3. D ư ới sự sắp đặt của Trần Thủ độ, Lý Chi êu Hoàng l ấy con trai thứ của Trần Thừa là Tr ần Cảnh làm ch ồng và sau đó như ờng ngôi cho Trần Cảnh, triều Lý chấm dứt, triều Trần thay t h ế. Một cuộc đảo chánh không đ ổ máu đ ã thành công. II. Chính quy ền Nhà Lý Sau khi lên làm vua, Lý Thái T ổ thấy đất Hoa L ư ch ật hẹp n ên cho d ời đô về Đại La (1010) và đ ổi t ên Đ ại La thành Thăng Long (Hà N ội). Thăng Long bấy giờ nằm vào vị trí trung tâm của đất nư ớc, là nơi h ội tụ của đ ư ờng bộ, đ ư ờng sông. Theo quan niệm của ngư ời x ưa, Thăng Long có "đư ợc cái t h ế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn ph ương Đông Tây Nam Bắc; tiện hình th ế núi rừng sau trư ớc... Xem khắp nư ớc Việt ta chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là ch ỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô t hành bậc nhất của đế vương muôn đ ời" (Chiếu dời đô). T hời nhà Lý, các hoàng t ử đều đ ư ợc nhà vua phong tư ớc vương và đ ều có bổn phận đi đánh dẹp các cu ộc nội loạn, n ên ai cũng giỏi việc quân sự. Các công chúa th ì đ ư ợc phân công trông coi việc tr ưng t hu các thứ thuế. Số hậu phi và cung nữ đ ư ợc định r õ ràng dư ới triều vua Lý Thánh Tông: hoàng hậu và phi 13 ngư ời, ngự nữ 18 ngư ời, nhạc kỹ 100 ngư ời. C ơ cấu hành chính trong nư ớc đ ư ợc vua Lý Thái Tổ cải tổ. Toàn qu ốc đ ư ợc chia ra làm 24 lộ, phủ d o quan lại cai trị. D ư ới lộ, phủ là huy ện và hương. Làng xã t ự bầu ngư ời quản lý và có b ổn phận đ óng thu ế cho Nhà nư ớc. B ộ luật đầu ti ên của nư ớc ta đ ư ợc viết ra dư ới triều Lý Thái Tông (1042). Đó là b ộ H ình thư, nhưng hi ện nay văn bản của bộ luật này đã thất truyền. Các sách sử chỉ ghi lại rằng nh à vua đ ịnh các bậc hình phạt, các cách tra hỏi và cho phép nh ững ngư ời già hoặc vị thành niên đư ợc lấy tiền mà chu ộc t ội khi phạm phải tội nặng. Có điều lệ cấm không cho mua bán ho àng nam (t ức là đàn ông t ừ 18 tuổi tr ở l ên) làm nô tì và cấm mổ trâu b ò ă n thịt T hu ế đ ư ợc định ra sáu loại: T hu ế ruộng, đầm, ao  T hu ế đất trồng dâu và bãi phù sa  T hu ế sản vật ở núi  T hu ế mắm muối đi qua ải quan  T hu ế sản vật quý như s ừng t ê, ngà voi hương tr ầm  T hu ế tre, gỗ, hoa, quả.  Q uân đ ội nhà Lý đ ư ợc tổ chức có quy mô. D ư ới đời Lý Thánh Tông, tổ chức quân đội đ ư ợc chia làm b ốn lộ là tả, hữu, tiền, hậu. Tất cả gồm có 100 đội, mỗi đội có lính kỵ v à lính bắn đá. Binh pháp nhà L ý r ất nổi tiếng, nhà T ống b ên Tru ng Hoa đ ã t ừng bắt chư ớc, áp dụng binh pháp này cho quân đ ội của mình. Đ ến thời Lý Thần Tông có một ít thay đổi trong c ơ ch ế quân đội. Quân lính đ ư ợc sáu t háng một lần đổi phi ên nhau v ề làm ru ộng. Nhờ thế, nhân lực cho nền nông nghiệp vẫn đ ư ợc bảo đảm. III. Phát tri ển kinh tế 1. Nông nghi ệp Đ ại bộ phận ruộng đất trong nư ớc là ru ộng đất của công x ã. Công xã có đ ư ợc uy quyền tự trị rộng rãi. Ru ộng đất của công x ã nào là do công xã ấ y quản lý. Tuy thế, nhà vua vẫn có quyền sở hữu tối
  4. cao tên ru ộng đất, n ên nôn g dân cày ru ộng công x ã v ẫn phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính cho nhà vua. M ức thuế đ ư ợc định là 100 thăng mỗi mẫu. N goài ra còn có ru ộng cấp cho quý tộc quan lại có công v à đư ợc gọi là thác đao đi ền (ruộng ném đao, t ừ sự tích L ê Phụng Hiểu). Từ đó hìn h thành thái ấ p của một số quý tộc và quan lại cao cấp. N ông dân trong thái ấ p không có nghĩa vụ đóng thuế cho nh à nư ớc mà ch ỉ đóng cho chủ thái ấp. Chủ t hái ấ p đóng thuế cho nhà nư ớc t ương đương v ới mức thuế của ruộng đất công x ã. N hà nư ớc có ruộng ri êng của nhà nư ớc gọi là ru ộng quốc khố, ngư ời cày ru ộng là tù binh hay phạm n hân. Tô thu ế ruộng quốc khố nặng hơn so với các loại ruộng tr ên. N hà Lý coi tr ọng nghề nông và đ ề ra nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp. Sức lao động v à s ức kéo đ ư ợc bảo vệ. Qu ân lính thay phiên nhau làm ru ộng, những ngư ời đi phi êu bạt đ ư ợc trở về quê hương nhận ruộng cày cấy. Trâu b ò đ ư ợc bảo vệ. Không những việc trộm trâu bị trừng phạt nặng mà ngay cả việc giết trâu sở hữu của m ình cũng bị ngăn cấm. Nhà nư ớc quy định cứ ba nhà hợp thành một "bảo" để kiểm soát lẫn nhau và cùng liên đ ới chịu trách nhiệm về tội giết trâu b ò. Vấn đề thủy lợi đ ư ợc tiến hành v ới qui mô lớn. Đ ê Cơ Xá đư ợc đắp vào tri ều Lý Nhân Tông đã giúp ch ống đ ư ợc lụt của sông Hồng. Nông nghiệp dư ới thời nhà Lý nhờ vậy đã đ ư ợc phát triển và nuôi đ ư ợc dân chúng. 2. Thủ công nghiệp N gh ề dệt đã phát triển đáng kể, sản xuất đủ loại từ gấm đoạn, lụa cho đến vải sợi. Năm 1040, Lý T hái Tông quy ết định dùng gấm vóc trong n ư ớc để may lễ phục cho vua quan mà không phải mua gấ m vóc của nư ớc ngoài nữa. N gh ề gốm tiến một b ư ớc khá dài và đạt đ ư ợc tr ình đ ộ cao về sản xuất cũng như v ề nghệ thuật. Ngói gạch đ ư ợc sản xuất đầy đủ để phục vụ cho việc xây dựng nh à cửa cùng lâu đài, cung đi ện. Có loại n gói tráng men, ngói bằng sứ trắng, gạch cỡ lớn có trang trí hoa văn và có khắc ni ên hi ệu nhà Lý. Các đ ồ dùng b ằng s ành s ứ đ ư ợc chế tạo tinh xảo với các lớp men nâu, men ngọc, men trắng ng à cùng những hoa văn trang nhã hoặc khắc ch ìm, n ổi rất công phu. N gh ề khắc bản in đã xu ất hiện, chủ yếu dùng đ ể in các kinh Phật. G iao thông và buôn bán c ũng đ ư ợc phát triển. Các con đ ư ờng giao thông thủy bộ đ ư ợc mở mang. Từ T hăng Long có những con đ ư ờng thủy đi đến tận bi ên giới phía Bắc và phía Nam. D ọc các đ ư ờng bộ quan tr ọng có nhà tr ạm và các ụ đất cắm b i ển gỗ ở tr ên đ ể chỉ phương hư ớng. V i ệc buôn bán với nư ớc ngoài r ất phát triển. Cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) l à nơi tàu thuy ền nư ớc n goài t ấp nập đến trao đổi. I V. Phát triển văn hóa - xã h ội N ho giáo: Nhà Lý bắt đầu chăm lo việc mở mang học tập v à thi cử để t uy ển lựa nhân tài ra làm quan. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn miếu (thờ Khổng Tử, Chu Tử và 72 vị tiền hiền) và mở Quốc Tử Giám. Nền đại học Việt Nam bắt đầu từ đấy. Năm 1075 triều đ ình mở khoa thi đầu ti ên đ ể chọn nhân tài. Đây là khoa thi tam trư ờng g ồm có đủ Phật, L ão, Nho. V ị Trạng nguy ên đ ầu ti ên của nư ớc ta là Lê Văn Thịnh đậu ở khoa thi này.
  5. T ầng lớp nho sĩ thấm nhuần ý thức Nho giáo bắt đầu xuất hiện. Tr ư ớc đây tầng lớp có học trong xã h ội hầu hết là các nhà sư. T ừ đời Lý, Nho giáo bắt đầu có đ ịa vị trong xã h ội. Tuy thế, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo cũng chỉ mới bắt đầu. Số nho sĩ đ ư ợc tạo ra hãy còn quá ít, P hật giáo vẫn chiếm ư u th ế và các nhà sư vẫn giữ vai tr ò quan tr ọng trong x ã h ội. P hật giáo: Phật giáo đ ư ợc truyền bá r ộng rãi trong quần chúng và có dấu ấn l ên mọi sinh hoạt văn h óa. Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn s ùng đạo Phật. Tất cả tám đời vua nhà Lý, vua nào c ũng s ùng tín đạo phật. Lý Thái Tổ bản thân là con nuôi c ủa s ư L ý Khánh Vân và t ừng đ ư ợc nuôi dạy trong chùa t ừ nhỏ. Đó là vị vua Phật tử đầu tiên của Việt Nam. C òn vua Lý Thái Tông là T ổ thứ bảy của phái thiền Vô Ngôn Thông, Lý Thánh Tông là T ổ thứ hai của phái thiền Thảo Đ ư ờng. P hái thi ền Thảo Đ ư ờng là phái thi ền thứ ba đ ư ợc thành lập tại Việt Nam vào năm 1068. Vi ệc hiện di ện của vị thiền s ư này tại đất Đại Cổ Việt là một sự t ình cờ. Thảo Đ ư ờng vốn ngư ời Trung Hoa đang hành đạo tại Champa, thì vào năm 1069 b ị quân Đại Việt bắt trong chuyến vua Lý Thánh Tông đ i chinh phạt. Ông bị đ ưa v ề Thăng Long. Tại đâ y, ông giúp vi ệc cho một vị tăng lục và b ộc lộ ra ki ến thức thiền học của m ình. Vua bi ết đến, vời ông làm qu ốc s ư và cho ông tr ụ tr ì t ại ch ùa Khai Q u ốc ở Thăng Long. Phái thiền này truy ền sáu thế hệ. Kể cả thiền s ư Thảo Điền, có tất cả 19 thiền s ư. L ý Thán h Tông là vị Tổ thứ hai, Lý Anh Tông thuộc thế hệ thứ t ư, L ý Cao Tông thu ộc thế hệ thứ sáu. H ệ thống tăng già (sangha) đư ợc duy tr ì, qu ốc s ư có vai tr ò như ngư ời cố vấn tối cao. Nhà vua cho các nhà sư đư ợc bận lễ phục ri êng của họ. Quý tộc, quan lại thi nhau cúng ti ền bạc cho nhà chùa. Các nhà sư đư ợc cấp phát bằng, đ ư ợc miễn thuế và lao d ịch cùng đi lính. Chùa chi ền mọc l ên khắp nơi, không năm nào mà không có xây chùa mới, triều đ ình lại miễn thuế cho dân chúng. Năm 1018, L ý Thái T ổ cho ngư ời đi thỉnh kinh T am T ạng (Tripitaka) về sao lại và cất vào kho Đ ại H ưng. V ua Lý Thái Tông cho xây ngôi chùa M ột Cột. Đây là một ngôi chùa n ổi tiếng không phải vì tính chất kỹ thuật mà vì tính ngh ệ thuật của nó. K i ến trúc phát triển mạnh dư ới thời nhà Lý và ch ịu ảnh hư ởng của Phật giáo rất sâu đậm. Cung điện, lâu đài, thành quách và chùa tháp đư ợc xây dựng với qui mô lớn. Thành Thăng Long là m ột công trình xây d ựng lớn trong các triều đại phong kiến. Th ành g ồm hai v òng dài khoảng 25 km. Trong h oàng thành có những cung điện cao đ ến bốn tầng. Việc xây dựng các chùa tháp r ất đ ư ợc coi trọng. N ăm 1031 Lý Thái Tông cho xây 950 ngôi chùa. Năm 1056, L ý Thánh Tông lập chùa Sùng Khánh ở p hư ờng Báo Thi ên, phải d ùng 11 ngàn cân đ ồng để đúc chuông ch ùa, năm sau lại dựng T ư Thiên Bảo thá p trư ớc chùa Báo Thiên, cao vài chục tr ư ợng (khoảng 50 -60m) và có 30 tầng. Ngoài ra còn có nhi ều chùa tháp khác c ũng đồ sộ và huy hoàng không kém. Đ iêu khắc đời Lý độc đáo, chủ yếu tr ên g ốm và trên đá. Đ ề tài thư ờng là thiên nhiên như mây, nư ớc, h oa sen, h oa cúc và đ ặc biệt là hình t ư ợng con rồng với nhiều nếp cong mềm mại t ư ợng tr ưng cho n gu ồn nư ớc, niềm mơ ư ớc của cư dân tr ồng lúa. H ình t ư ợng con rồng của triều đại này không lẫn đ ư ợc với các triều đại khác. Những hình đ iêu khắc ở c hùa Phật Tích cho ta thấ y r ằng nghệ thuật đi êu kh ắc thời Lý không những tiếp thu nghệ thuật T rung Hoa mà còn c ủa Champa nữa: Nhạc công và v ũ nữ, h ình t ư ợng thần điều Garuda. Ca hát nhảy múa là nh ững sinh hoạt phổ cập trong dân chúng. Hát ả đ ào đ ã xuất hiện. Cảnh vũ nữ múa dân hoa hay vũ công vừa múa vừa sử dụng nhạc cụ đ ư ợc khắc tr ên các phù điêu. Đua thuy ền, múa r ối nư ớc là sinh hoạt lễ hội không thể thiếu đ ư ợc trong cuộc sống văn hóa của ngư ời dân đời L ý.
  6. T a có th ể nói đời Lý là một giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa dâ n t ộc. V. Nhân vật ti êu bi ểu N goài những ông vua lỗi lạc của nhà Lý như L ý Thái T ổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân T ông, nư ớc Việt thời Lý c òn có những nhân vật nổi tiếng như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Lê Văn Thịnh... đặc biệt có Lý Thư ờng Kiệt, một nhà quân s ự tài ba và ỷ L an Nguy ên phi, một ngư ời p hụ nữ đ ã phát huy đ ư ợc khả năng trong việc cai trị đất nư ớc. ỷ L an nguy ên phi ỷ L an qu ê ở làng Th ổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062 vua Lý Thánh Tông đ ã 40 tu ổi mà k hông có con nên thư ờng đi các n ơi đ ể cầu tự. Một hôm vua qua làng Th ổ Lỗi, trong khi mọi ngư ời đ ổ ra đ ư ờng xem xa giá thì bà đang hái dâu, chỉ đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho g ọi đến để hỏi. Thấy bà xinh đ ẹp, đối đáp dịu dàng l ại thông minh sắc sảo, vua đ ưa v ề cung và p ho ng làm ỷ Lan phu nhân. Năm 1066 bà sinh Thái t ử C àn Đ ức và đư ợc phong là Nguyên phi. L úc bấy giờ giữa Đại Việt và Champa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý Thánh Tông phải t hân chinh đi đánh (1069). Vua giao cho bà quy ền giám quốc. Sau nhiều trận kh ông thành công, Lý T hánh Tông rút quân v ề nư ớc. Tr ên đư ờng về kinh đô, nghe báo là bà ỷ L an thay vua trị n ư ớc đ ư ợc y ên vui, Thánh Tông nghĩ: "Ngư ời đàn bà tr ị nư ớc c òn đ ư ợc như th ế, ta đi đánh Chi êm Thành không t hành công, th ế ra đàn ông hèn lắm à ! Vua đem quân tr ở lại và lần này chi ến thắng. N ăm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đ ức mới bảy tuổi l ên n ối ngôi. Bà đư ợc phong làm T hái phi. Có tài li ệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ D ương buông rèm lo vi ệc triều chính. ỷ Lan l ên làm Hoàng Thái H ậu (tức Li nh Nhân Thái H ậu) giúp vua trị nư ớc. Tr ư ớc họa nhà T ống lăm le xâm lăng Đ ại Việt, b à đã nghe theo lời Lý Th ư ờng Kiệt gọi Lý Đạo Thành tr ở lại giữ chức Thái phó Bình Chương quân qu ốc trọng sự để lo việc triều chính. Đây l à lúc tri ều đ ình nhà Lý t ổ chức thắn g lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. Lý Th ư ờng Kiệt đã đ em quân đánh sang tận Ung Châu, L iêm Châu, năm sau chận đứng quân xâm lăng ở sông Như Nguy ệt buộc chúng phải rút về nư ớc. T rong vi ệc trị nư ớc, Thái hậu coi trọng việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu bò dùng làm s ức k éo. Thương những phụ nữ ngh èo kh ổ phải đem thân thế nợ, không thể lập gia đ ình, bà cho xuất tiền chu ộc họ và tìm ngư ời gả chồng cho. Thái hậu cũng chú ý mở mang đạo Phật. T ương truy ền b à đã cho xây dựng đến 100 ngôi chùa đ ể mong chuộc lại lỗi đ ã b ức tử D ương Thái H ậu cùng các cung nữ trư ớc kia. L ý Thư ờng Kiệt L ý Thư ờng Kiệt vốn t ên là Ngô Tu ấn, tự là Thư ờng Kiệt, qu ê ở làng An Xá, huy ện Quảng Đức (C ơ X á, Gia Lâm, Hà N ội). Từ nhỏ ông đ ã ham chu ộng cả văn lẫn v õ, thích đ ọc sách và tập luy ện v õ n gh ệ. Năm 20 tuổi, ông đ ư ợc bổ làm một chức quan nhỏ trong đội kỵ binh. Sau theo lời khuy ên của vua Lý Thái Tông, ông t ự hoạn để vào làm quan trong cung. Ông đư ợc thăng dần l ên đ ến chức Đô tri n ội thị sảnh, trông coi mọi việc trong cung vua. Đến nă m 1069, ông đư ợc cử làm Đ ại t ư ớng theo vua L ý Thánh Tông ti ến công Champa. Lý Thư ờng Kiệt bắt đ ư ợc Chế Củ trong dịp này khi ti ến quân đ ến tận bi ên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan Thi ết ngày nay). Chi ến thắng trở về, ông đ ư ợc p hong làm Phụ quốc Thái phó, tư ớc Khai quốc công và đư ợc vua Lý nhận làm con nuôi, vì th ế ông đ ổi sang họ Lý và có tên là Lý Thư ờng Kiệt. N ăm 1072, Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đ ức (7 tuổi, con của ỷ Lan Nguy ên phi) lên n ối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thư ợng D ương cùng Thá i sư L ý Đ ạo Thành là ph ụ chính nhưng L ý
  7. T hư ờng Kiệt giúp ỷ Lan (đ ã tr ở thành Linh Nhân Thái hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu T hư ợng D ương, giáng L ý Đ ạo Thành xu ống làm T ả gián nghị Đại phu và đ ổi đi trấn nhậm ở Nghệ A n. ỷ L an lên làm Phụ chính c òn L ý Thư ờng Kiệt làm T ể t ư ớng. L úc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà T ống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể t ư ởng của nhà T ống là V ương An Thạch đ ưa ra Tân pháp đ ể giải quyết những bế tắc của Trung Quốc. Một trong những b i ện pháp của Tân pháp Vương An Thạch là phải tạ o nên uy danh cho nhà T ống bằng cách b ành trư ớng xuống phía Nam, xâm lăng Đại Việt. Do vậy nh à T ống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung Châu (Qu ảng Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Qu ảng Đông) để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Trư ớc t ình th ế đó L ý Thư ờng Kiệt chủ tr ương như sau: "Ng ồi y ên đ ợi giặc không bằng đ em quân ra đánh trư ớc để chặn mũi nhọn của giặc". Tr ư ớc hết để củng cố nội bộ, ông đề nghị c ùng ỷ L an mời Lý Đạo Thành v ề lại triều đ ình gi ữ chức Thái phó trông coi việc triều chính. Tr ư ớc h ọa nư ớc, Lý Đạo Thành hợp lực cùng Lý Thư ờng Kiệt tích cực chuẩn bị việc đối phó. C u ối năm 1075, Lý Thư ờng Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đánh v ào Khâm Châu, Liêm C hâu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm quân Vi ệt chiếm đ ư ợc thành Ung Châu. Sau khi p há hủy p hần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống, tháng 4.1076, Lý Th ư ờng Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấ y, nhà T ống cử t ư ớng Quách Quỳ đem 30 vạn quân theo hai đ ư ờng thủy bộ sang xâm lư ợc Đại V i ệt. Lý Thư ờng Kiệt cho lập ph òng tuy ến ki ên c ố dọc theo sông Như N guy ệt để chặn địch. Đồng t hời ông cũng cho quân đón đánh thủy binh địch v à đã ngăn đư ợc hai cánh quân thủy bộ của địch p h ối hợp với nhau. Tr ên phòng tuy ến Nh ư Nguy ệt, chiến trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ quân sĩ, ông làm nên bài thơ và cho ngư ời đ êm khuya vào đ ền thờ Tr ương Hát ở b ờ Nam sông Như Nguy ệt giả t hần nhân đọc vang l ên: N am qu ốc s ơn hà Nam đ ế cư T iệt nhi ên đ ịnh phận tại thi ên thư N hư hà ngh ịch lỗ lai xâm phạm N hữ đẳng hành khan thủ bại hư. (Sông núi nư ớc Nam vua Nam ở Rành rành đ ịnh phận ở sách tr ời C ớ sao lũ giặc sang xâm phạm C húng bay s ẽ bị đánh t ơi b ời) N hờ thế tinh thần quân sĩ th êm hăng hái. Sau hơn ba tháng đánh không th ắng lực lư ợng bộ binh, k hông th ể sang sông v ì thi ếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị chết mất quá nửa lại th êm b ệnh tật đe d ọa, Quách Quỳ lâm vào th ế quẫn bách. Lý Thư ờng Kiệt chủ động đề nghị h òa đ ể mở lối thoát cho quân đ ịch nhằm sớm chấm dứt chiến tranh. Đến tháng ba năm 1077 Quách Quỳ rút quân về n ư ớc. T ừ đấy quân Tống từ bỏ ý định xâm lư ợc Đại Việt. V I. Di sản văn hóa tiêu bi ểu N hà Lý đ ể lại nhiều công tr ình ki ến trúc có tính chất Phật giáo nh ư tháp Báo Thiên (Hà N ội) cao vài mươi trư ợng (tr ên 60m), tháp Sùng Thi ện Di ên Linh (chùa Đ ọi) cao 13 tầng... Đặc biệt có ch ùa M ột C ột, tuy không cao lớn, đồ sộ nhưng lại thanh thoát n h ẹ nhàng, bi ểu tr ưng chi ều sâu văn hóa. Để tư ởng nhớ triều Lý, ngư ời đời sau có xây Đền Đô (c òn g ọi là đ ền Lý Bát Đế) tại đất phát tích của n hà Lý. Đ ền Đô, tuy không đ ư ợc xây dựng vào thời nhà Lý, nhưng vẫn mang những đ ư ờng nét của t hời ấy với hình t ư ợng n hững con rồng, hoa sen, lá sen... Ngoài ra, nhà Lý còn truy ền lại nhiều loại hình ngh ệ thuật độc đáo như múa khiên, đánh c ầu và đặc biệt là múa r ối nư ớc. 1. Chùa M ột Cột
  8. C hùa đư ợc xây dựng vào năm 1049. Chùa có tên là Diên H ựu, nghĩa là phúc lành dài lâu. T ục truyền rằng một đ êm vua Lý Thái Tông nằm một thấy Phật B à Quan Âm dẫn đi thăm một t òa sen. Vua đ em giấc mộng kể lại cho bá quan văn v õ nghe. Tri ều thần cho là đi ềm gỡ, khuy ên vua nên xây m ột ngôi chùa đ ể cầu phúc. C hùa có hình dáng như một hoa sen mọc trên nư ớc. T òan b ộ ngôi chùa đư ợc đặt tr ên một cột đá cao chừng 20m. Các cột gỗ đỡ mái đ ư ợc bố trí uốn lư ợn chồng chéo tạo n ên đư ờng nét của cánh sen. B ên dư ới là ao vuông tư ợng tr ưng cho đất. Chung quanh là cây cối xum xu ê. T ổng thể khu kiến trúc tạo n ên đ ư ợc không khí thanh tịnh của chữ Thiền. C hùa M ột Cột ngày nay có quy mô nh ỏ hơn chùa nguyên thủy v ì b ị t àn phá và trùng tu lại nhiều lần, n hưng vẫn còn mang dán dấp độc đáo của ngôi chùa Diên H ựu x ưa. 2. Đ ền Lý Bát Đế L àng C ổ Pháp x ưa, nay thu ộc làng Đ ìn h Bảng (huyện Ti ên Sơn, t ỉnh H à Bắc), qu ê hương của Lý T hái T ổ, là nơi h ội tụ nhiều kiến trúc cổ. Trong đó có đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua của triều Lý. Đ ền c òn g ọi là đ ền Đô v ì do Đ ô nguyên soái Vũ Kỳ Sỹ xây n ên vào năm 1600 - 1602. T ừ khi đ ư ợc xây vào th ế k ỷ XVII, đền trải qua nhiều thời kỳ bị h ư hao nặng. Và đ ến năm 1952 đền lại bị quân Pháp phá hoại để truy kích du kích Đ ình Bảng. Vào năm 1989, đ ể kỷ niệm 980 năm l ên n gôi của Lý Thái Tổ, đền đ ư ợc tr ùng tu lại y như cũ. Vì th ế, do qua nhiều lần tr ùng tu, n gôi đ ền hiện nay không tư ợng tr ưng đư ợc hoàn toàn cho ngh ệ thuật kiến trúc thời Lý, tuy nhi ên, đây là nơi c ổ kính mang dáng dấp triều Lý, một triều đại đã đặt nền móng vững chắc cho văn hóa dân tộc. T rư ớc khi b ư ớc vào đ ền là h ồ bán nguyệt và thủy đ ình, n ơi đây hàng năm, vào dịp hội đền Đô tháng ba âm lịch vẫn thư ờng đ ư ợc tổ chức biểu diễn múa rối nư ớc. Cổng tam quan có năm cửa rộng. Sân r ộng có lát đá để đi đến nhà ti ền tế và đi ện thờ trung tâm. Có hai con voi lớn bằng vôi vữa phủ phục chầu tại đây. Có nhà văn chỉ, v õ chỉ, nhà hi ệu, nhà đ ể kiệu, nhà chủ tế. H ình t ư ợng con rồng uốn lư ợn, ẩn trong mây, trong lá sen đ ư ợc trang trí tr ên g ỗ hay tr ên đá gợi nhớ đến thời Đại La trở thành T hăng Long. H àng năm h ội đền đ ư ợc tổ chức trọng thể từ ngày 14 đ ến ngày 16 thá ng ba âm lịch. Các nghi thức của hội này g ồm có lễ dâng hương, l ễ tế "hiến sinh" và l ễ r ư ớc. Lễ hiến sinh đ ư ợc cử hành trong cả ba ngày l ễ. Vật tế là một con trâu thui. Lệ tế trâu thui xuất phát từ việc vua Lý Thần Tông đền ơ n cho s ự Minh Không. Nguy ên vua L ý Thần Tông bị bệnh mọc lông đầy ng ư ời, trông giống hổ. Nhà s ư Minh Không tr ị đ ư ợc cho vua. Vì th ế, khi ông mất, vua phá lệ cấm giết trâu, cho phép giết một con trâu đ ể tế cho ông. Lễ r ư ớc th ì đ ư ợc tiến hành t ừ đền Lý Bát Đế đến chùa C ổ Pháp. Số kiệu đ ư ợc rư ớc là tám chi ếc, t ư ợng tr ưng cho tám ông vua c ủa triều Lý. Sau đó là các trò ch ơi như đ ấu vật, đu dây, ch ọi gà, cờ ngư ời. Những tr ò chơi này tư ợng tr ưng cho s ự đấu trí, thi tài chi ến lư ợc của các chinh nhân thời Lý. T rong s ố con cháu nhà Lý còn sót lại, đặc biệt có hậu duệ của Hoàng t ử Lý Long T ư ờng, hiện đang s inh s ống tại H àn Qu ốc. Nguy ên vào năm 1226, sau khi nhà Tr ần lật đổ nhà Lý, Hoàng t ử Lý Long T ư ờng, con thứ hai của vua Lý Anh Tông, em của vua Lý Cao Tông, c ùng thu ộc hạ vư ợt biển chạy tr ốn, bị bão đ ánh dạt vào lãnh th ổ Cao Ly (H àn Qu ốc ngày nay). T ại đây Hoàng t ử đã có công giúp nư ớc Cao Ly chiến thắng quân xâm lư ợc Nguy ên Mông vào năm 1253 và đư ợc vua Cao Ly ư u đãi, p hong tư ớc là Hoa Sơn Tư ớng Quân, ngoài ra còn cấp cho thái ấp 30 lý, nhân khẩu 2 0 h ộ. Con cháu của ông cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các v ương tri ều Cao Ly, Triều Tiên. Hi ện nay
  9. hậu duệ của Hoàng t ử gồm có chừng 200 gia đ ình, đ ang sinh s ống tại Thủ đô Seoul và Youdo- dong và đ ã truy ền đến đời thứ 31. Họ vẫn giữ đ ư ợc gia ph ả của mình và luôn luôn hư ớng về đất qu ê T ổ. L ý X ương Căn, ngư ời cháu thứ 26 của Hoàng t ử đã trở về qu ê hương và đã đ ến đền Đô thắp hương tư ởng nhớ đến Tổ ti ên oanh li ệt của mình (1994). M ột hội thảo khoa học với đề tài: "L ễ hội kỷ niệm H oàng t ử Long T ư ờng" đ ư ợc "Hiệp hội Hợp tác phát triển Văn hóa Kinh tế H àn- Vi ệt" tổ chức từ 17 đ ến 22 tháng 10 năm 1994 tại hai địa điểm Seoul v à trấn Hoa S ơn (t ỉnh Hoàng H ải) có sự tham gia của nhiều nhà s ử học Việt Nam và Hàn Qu ốc. Ngoài ra, một cuộc hành trình của các đại biểu d òng h ọ về viếng đất Tổ đ ư ợc tổ chức vào dịp kỷ niệm ng ày Lý Thái T ổ lên ngôi vào tháng ba (âm lịch) năm 1995. Ngày 13.4.1995 cu ộc hành hương bắt đầu bằng một buổi lễ diễu hành d ọc đ ư ờng Lý Thái T ổ ở H à N ội. Ngày hôm sau, cả đoàn đ ến đền Đô dự lễ h ội. Cuộc trở về của di duệ họ Lý ở H àn Q u ốc càng thắt chặt mối quan hệ giao lưu giữa hai n ư ớc Việt Nam- Hàn Qu ốc. 3. Múa r ối nư ớc Vào thời Lý, các loại h ình văn ngh ệ đ ã tr ở n ên đa dạng. Lý Thái Tổ có đặt chức "quan giáp" để trông coi ngư ời ca múa. Lý Nhân T ông cho xây nhà múa (vũ định). Các tr ò tiêu khi ển như múa khiên, đánh cầu rất phổ biến trong giới quý tộc cũng nh ư trong dân gian. Múa r ối nư ớc, một nghệ thuật dân gian đ ộc đáo của Việt Nam, đã đ ư ợc phôi thai từ tr ư ớc thời nhà Lý t ại đồng bằng sông Hồng. D ư ới t hời nhà Lý, th ể loại nghệ thuật này tr ở n ên tinh xảo và t ừ đó truyền đến bây giờ. Có t ài li ệu xác định năm 1121 là mốc mà múa r ối nư ớc trở thành một nghệ thuật phổ biến. Đó là bia đá Sùng Thi ện Di ên L inh (chùa Ch ọi, Duy Tiên, Nam Hà), ghi lại việc di ễn rối nư ớc như một nghi lễ mang tính nghệ t hu ật để mừng thọ nhà vua. Hi ện nay, ở tr ư ớc cửa ch ùa Thầy (Sài Sơn, Qu ốc Oai, H à Tây), trên h ồ L ong Trì, còn lại một di tích gần như nguyên v ẹn của một sân khấu rối nư ớc đ ư ợc xây cất từ thời L ê. M úa r ối nư ớc là một nghệ thuật biểu diễn bằng con rối tr ên mặt nư ớc, kết hợp một cách kỳ ảo hai y ếu tố rối và nư ớc. Sân khấu của rối nư ớc là ao, h ồ của làng mạc thôn qu ê. Khán đài là b ãi c ỏ quanh đấy. Rất thuận tiện cho dân chúng đến th ư ởng lãm. T rên nư ớc là một t òa thủy đ ình hai t ầng, tầng tr ên dùng đ ể thờ Tổ, tầng dư ới là hậu tr ư ờng có mành che. Khác v ới các loại hình bi ểu diễn khác, nghệ nhân của tr ò múa r ối nư ớc không xuất hiện tr ên sân k hấu. Họ đứng trong nư ớc, núp sau bức mành tre, điều khiển các con rối bằng một hệ t h ống que, dây p hức tạp, đ òi h ỏi tr ình đ ộ kỹ thuật, nghệ thuật tinh xảo. Các con r ối đ ư ợc làm b ằng gỗ, thư ờng là g ỗ sung, vì gỗ sung nhẹ, nổi tr ên nư ớc đ ư ợc. Rối cao k hông quá 50cm và đư ợc đi êu khắc một cách tinh xảo. Chúng đ ư ợc s ơn ph ết lộng lẫy bằng s ơn ta đ ể k hông b ị đổi màu khi xu ống nư ớc và không thấm nư ớc. Mỗi con rối là một tác phẩm đi êu khắc của các ngh ệ nhân. Họ phải nghi ên cứu kịch bản, phác ra tr ên giấy một hình t ư ợng rối với đủ tính chất, t hần sắc cùng vóc dáng, trang phục ph ù hợp với nhân vật, sau đó mới đến giai đoạn đục khắc tr ên g ỗ. G ỗ sung phải có số tuổi từ 4 đến 5 năm mới thích hợp, v ì n ếu gỗ non quá th ì d ễ bị mục. Do nư ớc hủy h oại, các con rối chỉ đ ư ợc sử dụng nhiều lắm là 100 bu ổi diễn. H ình t ư ợng các con rối thư ờng là n hững con ngư ời, con vật quen thuộc của cuộc sống Việt Nam nh ư nông dân, ông câu, con cá, ếch, n hái, rùa... T rư ớc đây, múa rối nư ớc biểu diễn không lời, chỉ dùng đ ộng tác để diễn tả. Về sau, múa rối trở n ên p hong phú hơn, không những có lời mà còn đ ư ợc tăng cư ờng th êm nhạc và cả pháo bông nữa. Mở đầu buổi diễn thư ờng có tr ò bật cờ. Sau hồi chi êng tr ống inh ỏi pháo nổ d òn tan, t ừng chiếc cờ sặc sỡ đ ột nhi ên t ừ dư ới nư ớc phóng l ên, t ạo n ên một bầu không khí háo hức. Sau đó là các màn di ễn. Nội dung của các vỡ diễn là những câu c huy ện thần tiên hay chuy ện đời thư ờng ý nhị. Các con rối xuất hi ện bất ngờ thoắt ẩn, thoắn tr ên làn nư ớc lung linh, rất thần diệu. Đó là cảnh đôi rồng vàng u ống
  10. lư ợn, nhảy vờn, miệng phu nư ớc, bỗng nhi ên lặn xuống, biến mất, rồi bất chợt phóng l ên, phun đ ầy lửa khói. Hoặc có khi là cảnh nông dân, trâu c ày lội ch ìm trong nư ớc. Trẻ con b ơi lội, nô đ ùa, ếch n hái nhảy tung tăng. Một chú chồn bắt đ ư ợc vịt con, phóng tuốt l ên cao. Có chàng nơm cá. C ả đàn cá con n ối đuôi theo cá mẹ, thế mà chàng chài không nơm đ ư ợc, lại chộp trúng vào một cô thôn nữ đang b ì bõm l ội. Hoặc đấy là cảnh hai đô vật đang tranh tài. H ọ xông vào nhau, ôm ghì lấy nhau, lừa mi ếng, đẩy, chống, thiện nghệ chẳng khác g ì đ ô vật thật. Đặc biệt, rối nư ớc có nhân vật chú Tễu, một chàng trai có thân hình lực lư ỡng, nét mặt vui t ươi, chuyên đóng vai h ề như trong hát chèo. Ngoài ra còn có các v ỡ diễn có nội dung là nh ững truyện cổ Việt Nam như "T ấm Cám", "Thạch Sanh". M úa r ối nư ớc thư ờng đ ư ợc biểu diễn tại các lễ hội, như h ội Gióng Phù Đ ổng, hội chùa T hầy, hội chùa Trăm Gian... Đ ặc biệt làng Nguy ễn ở xã Nguyên Xá, huy ện Đông H ưng, t ỉnh Thái Bình là có truy ền thống, còn sáng tác thêm các vở hiện đại như "Bình dân h ọc vụ", "Chiến thắng sông Lô". M úa r ối nư ớc là sản phẩm tinh thần độc đáo của c ư dân lúa nư ớc vùng đ ồng bằng sông Hồng. Hiện nay múa r ối nư ớc đã phát tri ển khắp nư ớc và càng khẳng định giá trị nghệ thuật của m ình. Múa r ối nư ớc không những chỉ chinh phục lòng ng ư ỡng mộ của ng ư ời Việt Nam mà còn của thế giới nữa. Các cu ộc lưu di ễn nư ớc ngoài đã g iới thiệu thành công th ể loại văn hóa tuyệt diệu này, làm thành một nhịp cầu giao lưu giữa Việt Nam và các nư ớc bạn. 4. Hình t ư ợng con rồng Việt Nam C on r ồng là một hình t ư ợng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ng ư ỡng của dân tộc Việt Nam và đ ã từng là b i ểu t ư ợng linh thi êng liên quan đ ến truyền thuyết con rồng cháu ti ên của ng ư ời Việt. Rồng là hình ả nh mà các vua Vi ệt Nam phải xăm l ên đùi mình đ ể giữ truyền thống của c ư dân ven bi ển. Đ ến đời vua Trần Anh Tông (1293 -1314) mới chấm dứt tục xăm rồng tr ên đ ùi của các vua. Rồng là tư ợng tr ưng cho quy ền uy tuyệt đối của các đấng thi ên t ử (bệ rồng, mình r ồng). Rồng là hình t ư ợng của mưa thu ận gió h òa, là vật linh đứng vào hàng b ậc nhất trong tứ linh "long, lân, quy, phụng". V ì t h ế, hình t ư ợng con rồng Việt Nam t ương phản với h ình t ư ợng con rồng độc ác, t ư ợng tr ưng cho cái xấu của các nư ớc phương Tây. H ình t ư ợng rồng đ ã đ ư ợc hình dung lên t ừ thời đại H ùng Vương qua con vật thân dài có vẩy như cá sấu đ ư ợc chạm tr ên các đ ồ đồng thời ấy. Q ua thời kỳ Bắc thuộc dài đ ằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện r õ nét dư ới thời Lý. H ình ả nh "r ồng bay l ên" Thăng Long tư ợng tr ưng cho khí th ế vươn lên của dân tộc, đ ư ợc đem đặt cho đất đế đ ô. R ồng thời Lý t ư ợng tr ưng cho mơ ư ớc của cư dân tr ồng lúa nư ớc n ên luôn luôn đư ợc tạo tro ng k hung cảnh của nư ớc, của mây cuộn. Rồng thời Lý l à con vật mình dài nh ư rắn, thân tr ơn n ếu là con n h ỏ, c òn con lớn thì thân có vẩy và lưng có vây. Thân r ồng uống cong nhiều v òng uy ển chuyển theo hình "Omega", mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi. Rồng có b ốn chân, mỗi chân có ba móng cong nh ọn. Đầu rồng ngẩng cao, há miệng rộng với hai h àm răng nh ỏ đang vờn đớp vi ên ng ọc quý. T ừ mũi thoát ra mào r ồng có dạng ngọn lửa, v ì th ế đ ư ợc gọi là mào lửa. Tr ên trán r ồng có một hoa văn gi ống h ình chữ "S", cổ tự củ a chữ "lôi", t ư ợng tr ưng cho s ấm sét, mây mưa. H ình t ư ợng con rồng thời Trần có nhiều biến đổi so với thời Lý. Rồng thời Trần không c òn mang nặng ý nghĩa mơ ư ớc nguồn nư ớc nữa. Dạng tự chữ "S" dần dần mất đi hoặc biến dạng th ành hình con, đ ồng thời xuất hi ện th êm hai chi ti ết là cặp sừng và đôi tay. Đ ầu rồng uy nghi và đư ờng bệ với chi ếc mào lửa ngắn hơn. Thân r ồng tr òn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, l ưng v õng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi th ì đ uôi thẳng và nh ọn, khi thì xoắ n ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vẩy như những nửa h ình hoa tròn nhi ều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nh ẹ nhàng.
  11. R ồng thời L ê (th ế kỷ XV) thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết l à một con vật mình dài rắn uốn lư ợn đ ều đặn nữa mà ở trong nhiều t ư th ế k hác nhau. Đ ầu rồng to, bờm lớn ngư ợc ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lư ợn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn qu ắp lại dữ tợn. Rồng thời L ê tư ợng tr ưng cho quy ền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xu ất hiện quan niệm tứ linh (bốn con vật thi êng) tư ợng tr ưng cho uy quy ền của vương triều R ồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thi êng kia là lân (tư ợng tr ưng cho s ự thái b ình và minh chúa), qui (con rùa - t ư ợng tr ưng s ự bền vững của xã t ắc) v à ph ụng (t ư ợng tr ưng cho s ự thịnh vư ợng của triều đại). R ồng thời Trịnh Nguyễn vẫn c òn đ ứng đầu trong bộ tứ linh nh ưng đã đ ư ợc nhân cách hóa, đ ư ợc đ ưa vào đ ời thư ờng như hình r ồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đ ôi. C on r ồng thời Nguyễn tr ở lại vẻ uy nghi t ư ợng tr ưng cho s ức mạnh thi êng liêng. R ồng đ ư ợc thể hiện ở n hiều t ư th ế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ... Phần lớn m ình r ồng không dài ngoằn mà u ốn lư ợn vài lần với độ con g lớn. Đầu rồng t o, s ừng giống sừng hươu chĩa ngư ợc ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi s ư t ử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng r ồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dư ới mắt ch ìa ra cân x ứng hai b ên. Hình t ư ợng rồng dùng cho vua có năm m óng, còn lại là b ốn móng. H i ện nay hình t ư ợng con rồng tuy không c òn tính ch ất thi êng liêng, t ối th ư ợng nhưng vẫn đ ư ợc đ ưa vào trang trí cho các công trình ki ến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật... Trong mọi thời điểm n ào, con r ồng vẫn là một phần trong cu ộc sống văn hóa của ng ư ời Việt. x xx N hà Trần (1225 -1400) Các vua triều Trần T rần Thái Tông: 1225 -1258  T rần Thánh Tông: 1258 -1278  T rần Nhân Tông: 1279 -1293  T rần Anh Tông: 1293 -1314  T rần Minh Tông: 1314 -1329  T rần Hiển Tông: 1329 -1341  T rần Dụ Tông: 1 341 -1369  T rần Nghệ Tông: 1370 -1372  T rần Duệ Tông: 1372 -1377  T rần Phế Đế: 1377 -1388  T rần Thuận Tông: 1388 -1398  T rần Thiếu Đế: 1398 -1400  I. Giai đoạn hưng th ịnh của nhà Tr ần T rần Cảnh (1218 -1277) lên làm vua lấy hiệu là Tr ần Thái Tông, cha là Trần Thừ a làm Thư ợng h oàng, chú là Tr ần Thủ Độ làm Qu ốc Thư ợng phủ. Từ đó, vì Trần Thái Tông còn nh ỏ, Trần Thủ Độ đã chi ph ối rất nhiều đến công việc chính trị nh ư vi ệc bức tử Thư ợng hoàng Lý Hu ệ Tông (1226), vi ệc xây dựng lại thành Thăng Long (1230), vi ệc thảm sá t t ập thể tôn thất nhà Lý (1232).
  12. K hi lớn l ên, Tr ần Thái Tông tỏ r õ ra có bản lĩnh, đ ưa đư ợc xã h ội đã b ị rối loạn cuối triều Lý trở lại ổ n định. Để sửa lại kỷ c ương đ ã quá l ỏng lẻo cuối triều Lý, nhà vua đ ịnh ra pháp luật khá nghi êm k hắc. Những ngư ời phạm t ội trộm cắp đều phải chặt chân, chặt tay, thậm chí bị voi gi ày. K hác với các vua nhà Lý, các vua Tr ần có lệ như ờng ngôi sớm cho con để lên làm Thái Thư ợng h oàng. Thái Thư ợng hoàng cùng vua trông nom vi ệc nư ớc. Thực chất đây là giai đoạn thực tập thuật tr ị nư ớc cho vị vua mới. H ệ thống quan lại cũng đ ư ợc định chế lại dư ới triều vua Trần Thái Tông. Cao hơn h ết là Tam Công, T am Thi ếu, Thái úy, T ư M ã, T ư Đ ồ, T ư Không. ở d ư ới là các quan văn v õ chia làm hai ch ức: nội chức (quan tại triều ở các bộ) và ngoại chứ c (quan đ ịa ph ương). C ứ 10 năm thì các quan đ ư ợc thăng t hêm một hàm và 15 năm thì lên một chức. Ai có quan t ư ớc thì con đ ư ợc thừa ấm làm quan, còn n hững ng ư ời khác bất kể giàu nghèo đ ều phải đi lính. Tuy thế, những ngư ời có học vẫn có thể tham chính qua co n đư ờng thi cử. Các vua Trần rất chú ý đến việc chi êu hi ền đ ãi s ĩ. Từ năm 1232 vua Trần Thái Tông đ ã mở khoa thi T hái h ọc sinh, đến năm 1247 lại đặt ra Tam khôi: Trạng nguy ên, Bảng nhãn, Thám hoa. Chính trong k ỳ thi này đ ã xuất hiện nhiều kỳ tài như Tr ạng n guyên 13 tu ổi Nguyễn Hiền, Bảng nhãn và v ề sau là s ử gia L ê Văn Hưu. T riều Trần phân ra hai loại ruộng công: ruộng quốc khố v à ru ộng thác điền. Ruộng thác điền là ru ộng thư ởng công cho các quan, đóng thuế rất ít. Thuế thân th ì căn cứ vào s ố ruộng có đ ư ợc mà đ óng b ằng tiền còn thu ế ruộng thì đ óng bằng thóc. T rong nư ớc có một s ố thay đổi về hành chính. Năm 1242, Tr ần Thái Tông chia nư ớc ra làm 12 lộ, mỗi lộ có An Phủ sứ chánh và phó cai tr ị và có s ổ dân tịch ri êng. Dư ới lộ là phủ, châu huyện do các Đ ại T ư xã hay Ti ểu T ư xã trông coi, Đ ơn vị sau cùng là làng xã. Xã quan do dân b ầu, đ ư ợc gọi là chánh s ử giám. N gư ời trong nư ớc đ ư ợc phân ra từng hạng: con trai v ào 18 tu ổi thì g ọi là ti ểu hoàng nam, t ừ 20 tuổi là đại hoàng nam, 60 tu ổi trở l ên là lão hạng. D ư ới triều vua Trần Thái Tông, vào năm 1258, quân Mông C ổ sang xâm lư ợc Đại Vi ệt. Nhà vua lãnh đạo toàn dân, đẩy lui đ ư ợc cuộc xâm lăng này. Sau chi ến thắng, vua như ờng ngôi cho Thái tử H oảng và lên làm Thái Thư ợng hoàng. Ngài v ề qu ê T ức Mặc, lập cung Tr ùng Quang đ ể ở, dành thì gi ờ đi ngao du s ơn thủy và nghiên cứu Thiền học. Ngài trư ớc tác một số tác phẩm quan trọng nh ư "Ki ến trung thư ờng lệ" (năm quyển), "Quốc triều thông chế", một số thi văn v à quan tr ọng nhất là cu ốn cảo luận triết học 'Khóa hư lục". Ngài làm Thái Thư ợng hoàng 19 năm th ì mất (1277). T rần Thánh Tông là một ông vu a nhân t ừ. D ư ới triều của nhà vua, trong nư ớc b ình yên không có n ội loạn hoặc ngoại xâm. Nhà vua chú tr ọng đến nông nghiệp, bắt các vương hầu công chúa chi êu tập n hững ng ư ời ngh èo đói lưu lạc để khai khẩn đất hoang. Điền trang của v ương hầu bắt đầu có từ đấy. N ăm 1278 vua Trần Thánh Tông như ờng ngôi cho con là Thái t ử Trần Khâm và lên làm Thư ợng H oàng. T hái T ử Trần Khâm l ên làm vua, lấy hiệu là Tr ần Nhân Tông. D ư ới thời Trần Nhân Tông, chữ Nôm bắt đầu đ ư ợc trọng dụng. Nguyễn Thuy ên, quan Hình b ộ T hư ợng thư đã làm thơ phú b ằng chữ Nôm, về sau nhiều ngư ời làm theo và g ọi đó là Hàn lu ật.
  13. M ột điểm son khác của thời này là công cu ộc đánh đuổi quân Nguy ên. Đ ế quốc Nguy ên Mông bành trư ớng thế lực, diệt đ ư ợc nhà T ống, phát động hai lần xâm lư ợc Đại Việt từ 1284 đến 1 288. Nhưng vua Trần Nhân Tông cùng các ki ệt t ư ớng Trần H ưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần K hánh Dư, Trần Bình Tr ọng, Phạm Ngũ L ão, Trần Quốc Toản... đ ã oanh li ệt đánh bại toán quân đ ư ợc mệnh danh bách chiến bách thắng n ày. N ăm 1293, khi vi ệc nư ớc đ ã ổ n định, vua Nhân Tông như ờng ngôi cho Thái tử Trần Thuy ên và lên làm Thái Thư ợng hoàng r ồi đi tu ở núi Y ên T ử lấy hiệu là Trúc Lâm đ ầu đà. Sau khi Thư ợng hoàng mất, các môn đệ tôn ông là Đ ệ nhất Tổ phái Trúc Lâm. T hái t ử Trần Thuy ên lên ngôi, ấ y là Tr ần Anh Tông. Đây là một bậc minh quân biết trọng đãi tôi trung, thư ởng phạt phân minh và có một chính sách cai trị vững vàng. V ua Anh Tông không k ể g ì đ ến thân hay s ơ trong vi ệc dùng ngư ời, nhà vua ch ỉ căn cứ vào tài năng mà cho chấp chánh chứ không cứ p hải là ngư ời họ Trần. V ì th ế nhà vua đư ợc nhiều nhân t ài giúp s ức như Đoàn Nh ữ H ài, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ L ão. M ột nhân vật khá đặc biệt và tài ba là M ạc Đĩnh Chi, ngư ời học tr ò thi đ ỗ Trạng Nguy ên vào năm 1 304, đ ã giúp vua tích c ực trong việc ngoại g iao v ới nhà Nguyên. Trong chuy ến đi sứ vào năm 1308, với t ài năng ứ ng đối linh động ông đ ã thu phục đ ư ợc sự kính nể của vua Nguy ên và đư ợc vua N guyên phong danh hi ệu "L ư ỡng quốc Trạng nguy ên". Đ oàn Nhữ H ài là một ngư ời học tr ò có tài đã giúp vua ổn định đ ư ợc hai châu Ô và Lý. Tr ương Hán S iêu v ốn là mạc khách của Trần H ưng Đ ạo, đ ư ợc Trần H ưng Đ ạo tiến cử l ên vua. Vua tr ọng dụng ô ng, sai ông soạn n ên những bộ sách quan trọng về tổ chức chính quyền v à v ề luật pháp như "Hoàng T riều Đại Điển", "H ình Lu ật Th ư". D ư ới thời Trần Anh Tông, Đại Việt có th êm đư ợc đất hai châu Ô và Lý (vùng đất Bình Tr ị Thi ên n gày nay) do cu ộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân, em vua với Chế Mân, vua Champa. Để cư ới đ ư ợc công chúa Huyền Trân, Chế Mân (Shinhavarman III) lấy hai châu ấy làm l ễ dẫn cư ới. Một năm sau khi gả Huyền Trân, vào năm 1307, vua Anh Tông cho thu nhận hai Châu Ô và Lý, đ ổi t ên lại là Hóa Châu và Thu ận Châu, sai Đoàn Nhữ H ài vào kinh lý và đặt quan cai trị. D ư ới thời Anh Tông, tục lệ Việt Nam có nhiều thay đổi nh ư t ụ c xâm mình của các vua đ ư ợc bãi b ỏ. T ừ thời H ùng Vương cho đ ến bấy giờ, các vua Việt có tục lệ lấy ch àm v ẽ rồng vào đùi nhưng Anh T ông t ừ chối thực hiện tục lệ ấy. V ì th ế các vua thời sau cũng không theo nữa. Một hủ tục khác cũng đ ư ợc bỏ dần, đó là t ục hôn n hân cận huyết của họ Trần. D ù chưa đư ợc chấm dứt hẳn nh ưng hôn n hân trong h ọ đ ã dần dần ít đi. V ua Trần Anh Tông làm vua đ ến năm 1314 th ì như ờng ngôi cho Thái tử Mạnh và lên làm Thái T hư ợng Hoàng. T hái t ử Mạnh (Minh Tông) l ên làm vua, thừa hư ởng đ ư ợc sự t h ịnh trị của các triều vua tr ư ớc. Các quan đại thần tài năng trư ớc như Đoàn Nhữ H ài, Trương Hán Siêu tiếp tục giúp vua cai trị đất nư ớc. N goài ra còn có các nhân vật khác nổi lên như M ạc Đĩnh Chi, Chu An góp phần vào vi ệc chấp chánh. D ư ới thời vua Minh Tô ng, các quân s ĩ không phải vẽ m ình như trư ớc nữa (1323) và t ừ đấy nư ớc ta b ỏ lệ vẽ mình. Đ ể đề cao t ình gia t ộc, nhà vua ra lệnh cấm ngư ời trong họ đi kiện nhau. Danh nho C hu An đ ỗ Thái học sinh năm 1314, nhưng không ra làm quan. M ãi sau, nghe danh ti ếng của ông,
  14. vua Minh Tông mời ông ra bổ nhiệm làm Tư nghi ệp Quốc Tử Giám và dạy học cho Thái tử Trần H ạo. 2. Công cu ộc chiến đấu chống Nguy ên Mông (1258 -1288) 2.1 Chi ến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258) C hi ến công đầu ti ên x ảy ra dư ới thời vua Trần Thái T ông vào năm 1258. Vào đ ầu thế kỷ XIII quốc gia Mông C ổ đ ư ợc thành lập dư ới quyền uy của Thành Cát Tư H ãn (Thi ết Mộc Chân), tung hoành v ó ngựa xâm lư ợc khắp Âu á và thành lập đ ư ợc một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái B ình D ương cho đ ến bờ biển Hắc Hải. Vào năm 1 258, Chúa Mông C ổ bấy giờ là Mong- ké (Mông Kha, cháu n ội của Thành Cát Tư H ãn) sai em là H ốt Tất Liệt (Kubilay) đánh lấy nư ớc Đại Lý (Vân Nam bây giờ) và chu ẩn bị đánh nhà T ống. Để dùng Đ ại Việt làm bàn đạp tấn công nhà T ống từ phía Nam, Hốt Tất Liệt cho s ứ sang bảo vua Trần phải thần phục. Vua Trần Thái Tông cho giam đo àn s ứ giả lại rồi sai Trần H ưng Đ ạo đem quân lên giữ phía Bắc. K hông thấy đoàn s ứ giả trở về, quân Mông Cổ do Ngột L ương H ợp Thai (Wouleangotai) tr àn xu ống s ông Thao, xâm lấn Đại Việt. Trần T hái Tông thân chinh ra c ự địch nhưng không thắng phải rút về T hăng Long. Trư ớc sức uy hiếp của ba vạn quân Mông thiện chiến, nh à vua lại phải rút khỏi Kinh t hành v ề đóng ở sông Thi ên M ạc (Đông An, H ưng Yên). Q uân Mông C ổ chiếm đ ư ợc thành Thăng Long, t ìm t hấy đoàn s ứ giả bị trói trong ngục, lại có một n gư ời đã ch ết n ên vô cùng t ức giận, ra sức chém giết dân chúng trong th ành. T rong tình th ế nguy nan ấy vua Trần Thái Tông hỏi kế triều thần. Ng ư ời em ruột của vua là Trần N hật Hiệu khuy ên nên "nhập Tống" nhưngThái sư Trần Thủ Độ khảng khái trả lời: "Đầu tôi ch ưa rơi x u ống đất, xin bệ hạ đừng lo". Đ ư ợc khích lệ, Trần Thái Tông y ên tâm chu ẩn bị lực lư ợng. K hông quá mư ời ngày sau khi chi ếm thành Thăng Long, quân Mông C ổ đã gặp khó khăn vì không ki ếm ra đ ư ợc lương t hực lại th êm không phủ hợp thủy thổ, n ên b ị ốm bệnh rất nhiều. Trần Thái tông li ền phản công, cho tiến quân ngư ợc d òng sông H ồng đánh lấy Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng ở H à N ội) và đu ổi bật quân Mông Cổ ra khỏi Thăng Long. Quân Mông Cổ thua, chạy rút về Vân N am, trên đư ờng tháo chạy, v ì quá mỏi mệt và khi ếp sợ n ên không qu ấy nhiễu dân chúng, do đó đ ư ợc gọi là giặc Phật. N gày mồng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông ngự triều l àm l ễ phong thư ởng cho các ngư ời có công. Một tháng sau đó, nhà vua truy ền ngôi cho Thái t ử Hoảng và lên làm Thái T hư ợng hoàng. Đ ại Việt có đ ư ợc một thời gian y ên bình t ừ sau chiến thắng này cho đ ến năm 1285. T uy tình hình trong nư ớc y ên ổ n, nhưng quan h ệ ngoại giao giữa Đại Việt và Mông C ổ gặp nhiều rắc r ối. Nhân dịp vua Trần T hái Tông như ờng ngôi cho vua Trần Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang p hong vương và đ ặt điều lệ là ba năm phải cống một lần. Lệ cống gồm có nho sĩ, thầy thuốc, thầy b ói, thầy toán số và thợ thuyền. Mỗi thành phần ba ngư ời, cùng với các sản vật quý như s ừ ng tê, ngà v oi, đ ồi mồi... Ngoài ra, vua Mông C ổ còn đ ặt quan giám trị (Đạt lỗ hoa xích) để kiểm tra các châu qu ận của Đại Việt.
  15. T uy b ề ngoài thần phục Mông Cổ nh ưng vua Trần Thánh Tông chú trọng việc quân sự để ph òng b ị. V ua cho tuy ển đinh tráng ở các lộ làm lính, phân quân đ ội ra làm quân và đô, mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 ngư ời. N ăm 1266, vua sai s ứ sang Mông Cổ th ương lư ợng để không phải cống ngư ời nữa. Vua Mông Cổ đ ồng ý nh ưng ra 6 đi ều khoản khác: V ua Trần phải qua Mông Cổ chầu 1. V ua Trần phải cho c on hay em sang Mông C ổ làm con tin 2. Đ ại Việt phải nạp số dân trong nư ớc cho Mông Cổ 3. Đ ại Việt phải chịu việc binh dịch 4. Đ ại Việt phải nộp thuế 5. M ông C ổ vẫn duy tr ì ch ế độ quan giám trị. 6. V ua Thánh Tông cứ lần lữa không chấp nhận. Bấy giờ Hốt Tất Liệt đ ã lên làm vua Mông C ổ (1260), cho s ứ sang dụ vua Trần sang chầu. Vua Trần Thánh Tông cáo bệnh không đi. N ăm sau, H ốt Tất Liệt lại cho sứ sang xác định vị trí của cột đồng M ã Vi ện. Vua Thánh Tông cho trả lời là cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không t ìm ra. Đ ến nă m 1275 vua Thánh Tông cho s ứ sang nhà Nguyên (H ốt Tất Liệt đổi quốc hiệu thành Đ ại N guyên vào năm 1271) xin mi ễn chức giám trị đi, m à thay vào một loại có t ư cách như s ứ thần. Nhà N guyên không chịu, cứ bắt Đại Việt phải tuân thủ 6 điều lệ nh ư đã đ ịnh. Vua T r ần Thánh Tông cũng k hông như ợng bộ. N ăm 1279 nhà Nguyên đánh b ại nhà T ống, làm chủ Trung Hoa. Từ đó nhà Nguyên tiếp tục mở rộng đất đai về phía Nam. Đại Việt trở th ành mục ti êu của đại quân tinh nhuệ nhà Nguyên. N ghe tin vua Tr ần Nhân Tông l ên ngôi (1279 ) vua Nguyên sai s ứ là Sài Thung sang hạch hỏi, lấy cứ vua Trần dám tự lập làm vua không xin phép tri ều đ ình nhà Nguyên. Sài Thung bu ộc vua Nhân T ông phải sang chầu Nguy ên chủ để chuộc lỗi nhưng vua t ừ chối. N ăm 1282, nhà Nguyên lại cho sứ sang dụ vua qua c hầu, vua cử ngư ời chú là Trần Di ái đi thay mình. Vua Nguyên không bằng l òng, lập ra "tuy ên phủ ty" để giám trị Đại Việt. Khi phái đo àn nhà N guyên đ ến để tiến hành vi ệc giám trị, vua nhân Tông cho đuổi về. H ốt Tất Liệt b èn mua chu ộc Trần Di ái, phong ái làm An Nam qu ốc v ương và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân h ộ tống về nư ớc. Vua Trần cho quân đón đánh ở ải Nam Quan, S ài Thung b ị bắn mù một mắt phải tháo chạy về nư ớc c òn Trần Di ái thì b ị bắt, bị tội đồ làm lính. 2.2 Chi ến thắng quân Mông Cổ lần thứ hai (1285 ) N ăm 1282. Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan làm Trấn Nam V ương, cùng Toa Đô và Ô M ã Nhi dẫn 50 vạn quân giả lấy tiếng m ư ợn đ ư ờng sang Champa. Ri êng Toa Đô chỉ huy một toán thủy binh, t iến đánh Champa bằng đ ư ờng biển. T rư ớc mưu toan xâm lư ợc của quân Nguy ên, vua Tr ần triệu tập công hầu, quan lại tại B ình Than (H ải H ưng) bàn k ế ph òng đánh và chia quân đóng gi ữ các n ơi hi ểm yếu. Trần H ưng Đ ạo đ ư ợc phong
  16. làm tiết chế thống lĩnh toàn quân, Trần Quang Khải làm thư ợng t ư ớng, Trần Khánh D ư làm phó Đô tư ớng quân. Đ ể khích lệ mọi ngư ời đứng l ên chi ến đấu vì đại nghĩa Trần H ưng Đ ạo viết và truy ền b ài hịch nổi t iếng "Hích T ư ớng Sĩ" T rong hịch có đoạn tha thiết: "... Huống chi ta c ùng các ngư ời, sinh ra vào lúc r ối ren, lớn l ên vào b u ổi hoạn nạn, thấy sứ giả của giặc qu a lại dọc ngang ngoài đư ờng, khua tất lư ỡi cú vọ mà khinh r ẻ triều đ ình, đ em cái thân dê chó mà ngạo mạn tể t ư ớng... Ta thư ờng tới bữa qu ên ăn, nửa đ êm v ỗ gối, nư ớc mắt đầm đ ìa, ru ột nh ư như cắt, chỉ giận không đ ư ợc ăn thịt nằm da, đốt gan uống máu th ù, dẫ u cho trăm thân này phơi ngoài n ội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam l òng..." T ư ớng sĩ đ ư ợc khích lệ, ai nấy một lòng di ệt giặc. Họ lấy mực xâm l ên tay hai ch ữ "sát Đát" để tỏ lòng quy ết tâm của mình. T rần H ưng Đ ạo phân công Trần Khánh D ư đe m quân ra trấn giữ cảng Vân Đồn, c òn Trần B ình T r ọng thì đ i đóng đ ồn tr ên sông Bình Than. Phạm Ngũ L ão đ óng t ừ biên giới cho đến Chi Lăng, T rần Nhật Duật đóng ở Tuy ên Quang đ ến Tam Đái (Nam Phú Thọ, Đông Bắc Vĩnh Y ên). Các tư ớng k hác cũng đem quân đóng giữ các nơi quan y ếu. Riêng Trần H ưng Đ ạo đóng ở Nội Bàng (vùng xã Bình N ội, Bắc Giang), tr ên con đư ờng đi về Vạn Kiếp (Hải D ương) đ ể tiếp ứng cho các n ơi. Trong k hi ấ y, vua Nhân Tông cho ngư ời mang lễ vật sang xin nhà Nguyên hoãn binh nh ưng nhà Nguyên k hông c hấp nhận. Thoát Hoan đ ư ợc lệnh tiến quân. Vua Nhân Tông b èn tri ệu tập hội nghị Di ên H ồng để b àn xem nên hòa hay nên đ ánh. Các bô lão đ ều đồng thanh xin đánh (1.1285). T háng 1.1285, đ ại quân do Thoát Hoan chỉ huy à o ạt tiến qua Lạng S ơn, nhằm đến Nội Bàng. T rên đ ư ờng đi, tuy bị quân của Đại Việt chận đánh kịch liệt, đại quân của Thoát Hoan vẫn kéo đến đ ư ợc N ội Bàng và bao vây quân Đ ại Việt tại đây. Ngày 2.2.1285, một trận chiến ác liệt nổ ra. Thấy thế quân Nguyên quá mạnh, Trần H ưng Đ ạo cho quân rút về Vạn K i ếp. Thoát Hoan lại cho quân truy đ u ổi, dùng lực lư ợng kỵ binh hùng hậu bao vây Vạn Kiếp. Một lần nữa, Trần H ưng Đ ạo lại cho rút quân. M ột bộ phận đến đóng ở Hải Đông (Hải D ương), một bộ phận khác tiến về Lạng S ơn, c òn đại b ộ phận rút về giữ Nam ngạn sông H ồng. Cầm cự một thời gian, đại quân rút về Thi ên Trư ờng (Nam Đ ịnh). Vua và tri ều đ ình cùng r ời bỏ Thăng Long về tụ tại đây. Q uân Nguyên vào thành Thăng Long, gặp phải cảnh "nhà không vư ờn trống", một chiến thuật của n hà Trần đ ư ợc nhân dân hư ởng ứng. Thoát Hoan cho một toán quân truy đuổi quân Trần H ưng Đ ạo đ ến Thi ên Trư ờng. Để chặn b ư ớc tiến của địch, Trần H ưng Đ ạo cho đánh một trận ở sông Thi ên M ạc (H ưng Yên). T ại đây Trần B ình Tr ọng bị bắt và tử tiết với lời nói bất hủ: "Ta thà làm qu ỷ nư ớc N am còn h ơn làm vương đ ất Bắc".Bấy giờ 100.000 quân của Toa Đô không đánh thắng đ ư ợc C hampa, bèn kéo quân theo đư ờng bộ ra đánh Nghệ An để hợp quân với Thoát Hoan. Thoát Hoan li ền sai Ô M ã Nhi đ em quân theo đư ờng bể tiếp ứng. Trần H ưng Đ ạo cho Trần Quang Khải đ ưa binh vào đóng ở N ghệ An chận đ ư ờng Toa Đô. Toa Đô liền d ùng thuy ền nhỏ đ ưa quân theo đư ờng biển ra Trư ờng Y ên (Ninh Bình ngày nay). T ình hình h ết sức nguy cấp. Quân địch hai gọng từ phía Bắc v à dư ới phía Nam, cùng đánh th ốc để hợp quân. Trần H ưng Đ ạo phải đ ưa vua chạy đến Hải D ương, sau đó đ ến Quảng Y ên r ồi lại theo đ ư ờng sông trở về lại Thanh Hóa. Trong hoàng t ộc họ Trần có ng ư ời ra đầu hàng mà điển hình là T rần ích Tắc, con thứ năm của Trần Thái Tông. Đ ể chặn không cho Toa Độ hội quân c ùng Thoát Hoan, Tr ần H ư ng Đ ạo điều động Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản đón đánh Toa Đô ở bến H àm T ử (H ưng Yên). Toa Đô thua to phải rút về
  17. ch ống giữ. Đồng thời Trần H ưng Đ ạo phái Trần Quang Khải c ùng Phạm Ngũ L ão và Tr ần Quốc T oản đi v òng đ ư ờng bể, đánh thẳng vào quân Nguyên ở C hương Dương và tiến sát thành Thăng L ong. Thoát Hoan đem quân ra ch ống cự không lại phải bỏ thành Thăng Long chạy về Bắc Ninh. Q uân Đ ại Việt chiếm lại đ ư ợc thành Thăng Long. Đ ể đánh dấu chiến thắng này, Tr ần Quang Khải làm bài thơ "T ụng giá hoàn kinh s ư". T rong khi ấ y, Trần H ưng Đ ạo cho tiến quân đánh Toa Đô và Ô Mã Nhi ở T ây Kết. Toa Đô bị trúng t ên ch ết còn Ô Mã Nhi thì chạy trốn về nư ớc. N ghe tin Toa Đô t ử trận, Thoát Hoan vội đem quân chạy, định rút về, nh ưng Trần H ưng Đ ạo đ ã đ oán đư ợc ý đồ ấy, cho P hạm Ngũ L ão đ ợi ở Vạn Kiếp, khi quân Nguy ên chạy sang th ì đ ổ ra đánh. Q uân Nguyên thua to, mất hết nửa quân số c òn Thoát Hoan thì phải chun vào ố ng đồng cho quân đẩy chạy về. Quân Đại Việt đại thắng. 2.3. Chi ến thắng quân Nguy ên Mông lần thứ ba (1287 -1288 ) T hất bại nặng nề ấy làm H ốt Tất Liệt hết sức tức giận, quyết định đ ình vi ệc đi đánh Nhật Bản và sai đ óng thêm chi ến thuyền, chuẩn bị sang đánh lại Đại Việt. Sang năm 1287 quân Nguy ên ồ ạt kéo sang. Quân b ộ vẫn do Thoát Hoan chỉ huy, vư ợt bi ên giới, đánh vào L ạng S ơn r ồi tiến xuống phía N am và đóng tại Vạn Kiếp. Quân thủy gồm 600 chiến thuyền lớn, do Ô M ã Nhi chỉ huy, tiến vào Đ ại Việt bằng đ ư ờng biển và h ội quân cùng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Bi ết đại quân như th ế tất phải có nhu cầu cao về lương thực, Trần H ưng Đ ạo phân công Trần Khánh D ư đem quân chặn đánh đ ư ờng vận lương của quân Nguy ên. Trần Khánh D ư tập kích địch ở Vân Đ ồn, phá đ ư ợc thuyền lương của địch. Đợi mãi không thấy thuyền lương, Thoát Hoan xua quân ti ến đ ến Thăng Long. Triều đ ình nhà Trần phải r út v ề Thanh Hóa. Thoát Hoan đốt phá kinh thành r ồi rút quân v ề Vạn Kiếp. Nhưng Thoát Hoa không th ể ở đây đ ư ợc lâu. Thiếu lương thực trầm trọng, Thoát H oan phải rút quân. Tr ên đư ờng tháo chạy, đến sông Bạch Đằng, quân của Thoát Hoan lọt v ào trận đ ịa cọc ngầ m do Trần H ưng Đ ạo bố trí sẵn. Ô M ã Nhi b ị bắt, Thoát Hoan thoát đ ư ợc về nư ớc (1288). T uy thắng trận, nhưng trư ớc sức mạnh của quân Nguy ên vua Tr ần Nhân Tông cho ngư ời sang xin giảng h òa. Vua Nguyên c ũng đ ành bằng lòng. V ua Trần định công tội cho quan lại, g hi chép công tr ạng của t ư ớng sĩ vào sách g ọi là Trung Hưng t hực lục. C òn những ngư ời trong hoàng t ộc đ ã đầu h àng và hợp tác với quân Nguy ên thì b ị bắt buộc p hải đổi họ khác. Ngoài ra đ ể y ên lòng dân chúng, vua và Thái Th ư ợng hoàng cho đ ốt hết tất cả hàng b i ểu đi. Từ đó dân chúng y ên tâm xây dựng lại đất nư ớc. S ự nghiệp củng cố đất nư ớc, sự nghiệp chống xâm lăng của triều Trần đ ã đ ể lại trong l òng dân chúng một niềm mến phục sâu xa. Cho n ên khi H ồ Quý Ly giành ngôi nhà Tr ần, dù có nhi ều cải cách quan tr ọn g và tích cực, nhưng l òng ngư ời vẫn c òn nhớ đến các vua Trần. II. Giai đoạn suy vong N ội bộ họ Trần mất đoàn k ết vào khoảng cuối thời trị v ì của vua Minh Tông. Nhà vua vì nghe l ời d èm pha, gi ết hại Trần Quốc Chân, một công thần v à đ ồng thời là cha của Hoàn g hậu. Từ đó mầm mống chia rẽ nổi lên.
  18. V ua Minh Tông như ờng ngôi cho Thái Tử vào năm 1329 lên làm Thư ợng hoàng. Thật ra Thư ợng h oàng vẫn nắm trọn quyền hành vì Tr ần Hiển Tông khi làm vua chỉ có 10 tuổi và đ ến năm 23 tuổi thì ch ết. Một ng ư ời con khác của Mi nh Tông lên làm vua là Tr ần Dụ Tông. Bắt đầu từ đây triều đại nhà Trần suy yếu dần. Vua Dụ Tông là ngư ời r ư ợu ch è, hoang phí, hay xây cung đi ện và đánh b ạc. Các ngư ời t ài gi ỏi của thời tr ư ớc th ì đã qua đ ời, thế hệ tiếp chưa có ai, ch ỉ còn lại Chu An. Thấy tri ều đ ình chính nghiêng ngả, Chu An dâng sứ xin chém 7 nịnh thần (vẫn t hư ờng đ ư ợc gọi là "Thất trảm sớ") nhưng vua không nghe, Chu An bèn t ừ quan về ở ẩn. T rong nư ớc loạn lạc khắp n ơi. Ngoài ra, ngư ời Chăm, dư ới sự lãnh đ ạo của vị vua tài ba Ch ế Bồng N ga, đ òi lại đất Hóa Châu và Thu ận Châu. T ừ đấy cho đến khi bị Hồ Quý Ly c ư ớp ngôi, triều Trần lâm vào cảnh rối loạn. Quân Chăm đánh phá liên t ục. Các ông vua không đủ sức bảo vệ đất n ư ớc. Một ông vua bị giết tại trận chiến (vua Trần D u ệ Tông) còn quân Chăm th ì "ra vào Đ ại Việt như ch ỗ không ngư ời". Trong các năm 1377, 1378 quân Chăm vào đánh tận Thăng Long, vua Trần phải bỏ thành mà chạy. M ãi đ ến 1389. Trong một trận quyết chiến, Trần Khát Chân giết đ ư ợc Chế Bồng Nga, đất nư ớc mới tạm y ên v ề mặt đối ngoại, n hư ng trong n ội bộ thì th ế lực của nhà Trần đã h ết. Một thế lực khác nổi l ên chi ph ối toàn b ộ việc triều chính, đó là của L ê Quý Ly. L ê Quý Ly v ốn có tổ tiên h ọ Hồ, ng ư ời Chiết Giang (Trung Quốc) sang sinh sống ở Quỳnh L ưu. Đ ến ông tổ bốn đời của Quý Ly lại d ời ra Thanh Hóa làm con nuôi cho m ột gia đ ình h ọ L ê nên đ ổi ra h ộ L ê. Quý Ly có hai ngư ời cô đều lấy vua Trần Minh Tông, một ng ư ời là mẹ của vua Trần Nghệ T ông, ngư ời kia là mẹ của Trần Duệ Tông. D ư ới triều vua Trần Nghệ Tông (1370 -1372), Lê Quý Ly làm đ ến chức Khu Mật đại sứ và rất đ ư ợc Nghệ Tông tin dùng. Vào đ ời Trần Duệ Tông (1372 - 1377), ngoài vi ệc bản thân vua là con ngư ời cô của Quý Ly, thì hoàng hậu cũng là em h ọ của Quý L y. Uy quy ền của Quý Ly v ì th ế nghi êng tr ời lệch đất. Sau khi vua Trần Duệ Tông ch ết trong trận đánh với quân Chăm, con là Tr ần Nghiện l ên n ối ngôi, sử sách thư ờng gọi là Đ ế Hiển (1377 -1388). Nhà vua th ấy L ê Qúy Ly quá chuyên quy ền muốn trừ đi n hưng âm mưu bại lộ. Quý Ly b èn tâu với Thư ợng hoàng Ngh ệ Tông rằng Đế Hiển chỉ là cháu của N gh ệ Tông mà lại đ ư ợc làm vua, xưa nay thiên hạ bỏ cháu nuôi con chứ không ai bỏ con nuôi cháu. N gh ệ Tông nghe lời, giáng Trần Nghiện xuống rồi bắt thắt cổ chết v à lập con út của m ình lên làm vua, đó là Trần Thuật Tông (1388 -1398). Q uý Ly đem con gái gả ch o Thu ật Tông c òn bản thân thì giữ chức Phụ chính Thái s ư. Vào năm 1397 Q uý Ly cho xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa, gọi là Tây Đô (t ức là thành ) r ồi ép vua phải vào đấy ở. N ăm sau, Quý Ly lại ép Trần Thuận Tông phải như ờng ngôi cho con là Trần án (cũng là cháu ngoại của Quý Ly). Nhưng r ồi Thuận Tông cũng bị Quý Ly bức tử chết. T rần án chỉ mới ba tuổi, lên làm vua là Tr ần Thiếu Đế. Quý Ly x ưng là Qu ốc tổ Chương hoàng đ ế, mặc áo màu b ồ hoàng, ở cung Nhân thọ, lạm dụng nghi vệ của thi ên t ử, ra vào dùng đ ến 12 c hi ếc lọng vàng. M ột số quan đại thần m ưu loại trừ Quý Ly nhưng b ất thành, b ị Quý Ly trả thù, gi ết đến 3 70 ngư ời, trong số ấy có t ư ớng Trần Khát Chân. Vào năm 1400, Qu ý Ly ph ế Trần án và t ự x ưng làm vua thay cho nhà Tr ần. Nhà Trần chấm dứt sau 1 75 năm tr ị vì, trải qua 12 đời vua.
  19. III. Kinh t ế - X ã h ội dư ới đời Trần D ư ới thời Trần đã xu ất hiện những sở hữu đất đai rất lớn, đó là những điền trang của quý tộc và quan lại. Nhà Trần khuyến khích việc khẩn hoang, đặt ra chức Đồn điền chánh sứ v à phó s ứ để phụ tr ách vi ệc khẩn hoang. Vua Trần Thánh Tông chủ tr ương cho các vương hầu, công chúa, ph ò mã chiêu tập dân nghèo đi khai khẩn các vùng đ ất ven biển. Nhờ vậy mà những điền trang hoặc thái ấp rộng lớn đã xu ất hiện. Như thái ấ p của Trần H ưng Đ ạo ở Nam Định hoặc đ i ền trang của nhà sư Pháp Loa, đ ệ n hị tổ phái thiền Trúc Lâm. Nhà sư này có đ ến khoảng 15.000 đệ tử, 1.000 tá điền v à gần 2000 mẫu ru ộng. C ông vi ệc đ ê đi ều cũng đ ư ợc các vua đầu đời Trần chăm sóc, các chức H à đê phó chánh s ứ đ ư ợc đặt ra dư ới triều vua Trần T hái Tông đ ã đ ưa công vi ệc bảo vệ đ ê đi ều vào quy củ. Năm 1244, đ ê Đ ĩnh N hĩ (đ ê Quai Vạc) đ ư ợc đắp dọc theo hai b ên b ờ sông Hồng, ngăn đ ư ợc nư ớc lũ cho các đồn điền v en sông. Nhà Trần c òn ra l ệnh bồi thư ờng cho nông dân nếu đ ê đ ắp lấn vào ru ộng của dân. H àng năm, vào tháng giêng quan Hà đê phải đốc thúc việc bồi đắp các đ ê đ ập cho đến mùa hè thì phải x ong. Vào mùa mưa lở, quan phải thân hành đi ki ểm tra t ình hình đ ê điều và khi hữu sự thì b ất phân giàu nghèo, già tr ẻ ai ai đều phải tham gia việc bảo vệ đ ê. C ông thương nghi ệp đ ã có những b ư ớc phát triển mới. Kinh đô Thăng Long có v ùng phụ cận, có ch ợ, có phố xá và các phư ờng thủ công. Buôn bán đ ư ợc mở rộng trao đổi với nư ớc ngoài. H ải cảng cho tàu buôn nư ớc ngoài đ ến là Vân Đ ồn, các t àu buôn t ừ Trung Quốc và các nư ớc Đông Nam á tấp nập ra vào thương cảng này. T rong cu ộc chiến tranh chống Nguy ên Mông, n ền kinh tế nư ớc nhà b ị chựng lại. Kinh thành Thăng L ong b ị quân thù chi ếm đóng ba lần. Nhiều công tr ình ki ến trúc bị thi êu h ủy, nhiều làng xóm b ị phá h oại. Sau chi ến tranh, nền kinh tế đ ư ợc phục hồi nhanh chóng. Kinh thành đư ợc xây dựng lại, chùa chi ền mọc l ên. I V. Phát triển văn hóa Văn h ọc Vào thời Trần, đội ngũ trí thức tiếp thu t ư tư ởng tu, tề, trị, b ình của Nho giáo phát triển mạnh. T ư tư ởng này hòa lẫn với lòng yêu nư ớc, với h òa khí của dân tộc đã đ ư ợc phát huy cao độ qua ba cuộc k háng chi ến chống Nguy ên Mông. áng văn tiêu bi ểu nhất cho hào khí này là "H ịch t ư ớng sĩ" của T rần H ưng Đ ạo. Bài hịch đã vi ết từ 700 năm tr ư ớc nhưng tinh thần "cảm tử để cho Tổ quốc quy ết s inh" vẫn c òn làm rung đ ộng ngư ời ngày nay. B ên cạnh b ài h ịch bất tử ấy, c òn có nhi ều tác phẩm bộc lộ khí phách dân tộc nh ư bài thơ ứ ng khẩu "T ụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải sau khi thắng trận Ch ương Dương, đu ổi quân Nguy ên ra kh ỏi thành T hăng Long. Đ oạt sáo Chương Dương đ ộ, Cầm Hồ H àm T ử quan T hái bình tu n ỗ lực Vạn cổ thử giang s ơn (Chương Dương cư ớp giáo giặc, H àm T ử bắt quân Hồ T hái bình nên gắng sức N on nư ớc nọ ngh ìn thu).
  20. H oặc bài "Thu ật hoài" của Phạm Ngũ L ão: H oành sáo giang sơn cáp k ỷ thu, T am quân t ỳ hổ khí thôn Ngưu. (Ngang giáo non sông tr ải mấy thâu Ba quân hùng dũng khí thôn Ngưu...) Các vua quan và văn nhân đ ã sáng tác rất nhiều: các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thánh T ông, Ngh ệ Tông đều có làm thơ, vua Anh Tông soạn "Thủy Vân t ùy bút", Trần Quang Khải có "L ạc Đạo Tập", Chu An có "Tiều ẩn thi tập", Trần Nguy ên Đán có "Băng H ồ Ngọc Hán tập", N guy ễn Phi Khanh có "Nhị Kh ê tập", s ư Huy ền Quang có "Ngọc Ti ên tập". T rương Hán Siêu là ngư ời có t ài văn chương và ch ủ trương bài x ích t ệ mê tín dị đoan, ông thư ờng dùng văn chương đ ể đả kích các tệ hại tr ên. Bài phú Bạch Đằng Giang của ông là một kiệt tác ca n g ợi ý chí tự cư ờng của dân tộc vùng v ẻ đẹp của giang s ơn gấm vóc. K hoa h ọc lịch sử đã có một b ư ớc tiến đáng kể. Tr ư ớc hết là b ộ "Đại Việt sử ký" của L ê Văn Hưu (1230 -1322), đư ợc soạn xong vào năm 1272 sau đó là các tác phẩm "Việt Nam thế chí" và "Vi ệt Sử cương mục" của Hồ Tông Thốc (thế kỷ 14); "An Nam chí l ư ợc" của L ê T ắc; "Việt sử lư ợc" của tác giả khuyến danh (1377). Ngoài ra còn có các văn ki ện quan trọng như "B ình Thư y ếu lư ợc", "Vạn ki ếp bí truyền", "Hịch t ư ớng sĩ" của Trần H ưng Đ ạo, "Thất trảm sớ" của Chu An, "Ngọc Tĩnh li ên p hú" của Mạc Đĩnh Chi "Bạch Đằng Giang phú" của Tr ương Hán Siêu, "Vi ệt điện u linh tập" của Lý T ế X uyên, "Khóa hư lục" của Trần Thái Tông, "Thiền uyển tập anh" của tác giả khuyến danh... Tất cả đều là những tuyệt tác có giá trị vô c ùng to lớn cho kho sử liệu của nư ớc nhà. K i ến trúc thời Trần không huy hoàng như th ời Lý nh ưng cũng có những công tr ình qu an tr ọng như t háp mộ của vua Trần Nhân Tông tr ư ớc chùa Ph ổ Minh ở Tức Mặc (Nam Định) xây năm 1310, t hành ở T hanh Hóa (1397). Â m nhạc thời Trần có chịu ảnh hư ởng của Champa. Chiếc trống c ơm rất thịnh hành thời ấy nguy ên là nhạc khí của Champa. Đó là loại đ ư ợc dán hai đầu bằng c ơm nghi ền, đ ư ợc dùng đ ể h òa cùng với dàn nhạc trong các dịp lễ Tết. N gh ệ thuật hát ch èo đã manh nha t ừ thời này. Theo Phạm Đ ình H ổ trong "Vũ Trung T ùy bút" thì vào n hững lúc có quốc tang, ngư ời xúm đen xem chật ních không thể r ư ớc tan g đư ợc, n ên mới sinh ra một nhóm ngư ời chuy ên đi d ẹp đ ư ờng. Để lôi kéo sự chú ý của đám đông, nhóm ng ư ời có bổn phận đ i mở đ ư ờng b èn đi hát di ễn tr ên đư ờng, mọi ngư ời đổ xô tới xem. Như th ế mới có thể r ư ớc đám tang đi. T ừ đó, những b ài hát của những ngư ời này phong phú hơn và đư ợc gọi là "phư ờng ch èo". T ôn giáo Vào đ ời Trần, Nho giáo phát triển song song c ùng phật giáo và đ ồng thời Lão giáo cũng đ ư ợc ưa chu ộng. P hật giáo Sau khi thay nhà Lý, tri ều Trần tiếp tục truyền thống s ùng tín đạo Phật và đ ồng thời phát huy lý thuy ết Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị đất n ư ớc. Phật giáo vẫn là một tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các loại tôn giáo thời ấy v à có ả nh hư ởng sâu đậm trong mọi tầng lớp cũng như mọi lãnh vực.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2