intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thông tin về ô nhiễm môi trường - Phần 2

Chia sẻ: Lưu Quang Vũ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:40

338
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'thông tin về ô nhiễm môi trường - phần 2', khoa học tự nhiên, công nghệ môi trường phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thông tin về ô nhiễm môi trường - Phần 2

  1. Khí thải công nghiệp vượt tiêu chuẩn hàng trăm lần Cập nhật: 3:39 PM, 28/12/2007 Hiện cả nước đã có gần 140 khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở gần 50 tỉnh, thành trong cả nước và thu hút được hơn 1,2 triệu lao động trực tiếp và gián tiếp. Tuy nhiên, vấn đề môi trường tại các KCN, KCX hiện nay đang còn nhiều điều bất cập và ngày càng trở nên bức xúc. Qua số liệu điều tra cho thấy, trong số KCN, KCX chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 khu đang xây dựng, các khu còn lại chưa đầu tư cho công trình xử lý nước thải. Đối với chất thải rắn, đa số các KCN chưa tổ chức được hệ thống phân loại, thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại một cách an toàn về môi trường. Về khí thải công nghiệp, ô nhiễm không khí do khí thải công nghiệp gây ra chủ yếu là bụi, SO2, NO2, CO... Nồng độ bụi có xu hướng tăng theo thời gian và hầu hết đều vượt quá giới hạn cho phép nhiều lần. Cá biệt, có một số nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 20 đến 435 lần; công nghiệp khai thác than, các nhà máy luyện kim vượt từ 5 đến 125 lần; khai thác và chế biến khoáng sản như than đá, apatit, cao lanh vượt từ 10 đến 15 lần; các nhà máy cơ khí, đóng tàu vượt khoảng 10 đến 15 lần; các nhà máy dệt, may vượt từ 3 đến 5 lần. Tại một số khu vực dân cư gần khu công nghiệp, nồng độ khí SO2, CO, NO2 đã vượt tiêu chuẩn cho phép. Việc xả khí thải vượt tiêu chuẩn cho phép, gây ô nhiễm nội vi, khu vực và ảnh hưởng tới sức khỏe của cộng đồng dân cư xung quanh đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Xử lý khí thải từ các lò thiêu đốt chất thải Gần đây, ở nước ta, xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải y tế bằng phương pháp thiêu đốt được áp dụng khá phổ biến, tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là phải xử lý khí thải như thế nào, nhất là các lò thiêu đốt chất thải độc hại. Thạc sĩ Phạm Văn Hải và cộng sự (Viện Nghiên cứu bảo hộ lao động) đã có giải pháp cho vấn đề này. Khí thải từ các lò đốt rác y tế rất độc hại. Cần đạt trên 1.000 độ C mới triệt tiêu hoàn toàn dioxin. Thiêu đốt là quá trình dùng nhiệt độ cao để phân hủy các hợp chất hữu cơ trong rác thải và giảm nhỏ thể tích. Hiện nay, rác thải đô thị do có độ ẩm lớn, rác có nguồn
  2. gốc hữu cơ cao, tỷ lệ chất rắn cao khó thiêu đốt nên chủ yếu là xử lý chôn lấp. Tuy nhiên loại rác độc hại như rác y tế hoặc rác công nghiệp thì cần áp dụng phương pháp thiêu đốt bởi nếu chôn lấp sẽ gây nên ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước. Đề xuất công nghệ xử lý khí thải lò thiêu, nhóm nghiên cứu đã phân loại theo công suất nhỏ, trung bình và lớn. Lò đốt công suất nhỏ Với lò có quy mô xử lý khoảng 300 kg/ngày, có thể ứng dụng công nghệ xử lý gồm thiết bị venturi thấp áp, tháp đệm, quạt khói, bơm, bể tuần hoàn và hệ thống van gió. Nguyên lý làm việc là: Khói lò sau khi ra khỏi buồng thứ cấp qua van gió, đi vào thiết bị venturi để lọc bụi đồng thời hạ nhiệt độ. Từ venturi, nước và khí chuyển sang tháp lọc. Cấu tạo của tháp lọc gồm lớp đệm bằng khâu sứ, giàn phun nước và bộ tách nước. Tại tháp, một phần nước cùng với bụi sẽ chảy xuống bể lắng còn khí sẽ đi ngược lên qua lớp đệm, nơi nó được hạ nhiệt độ, lọc phần bụi còn lại và các chất khí như SO2, HCl. Chất ô nhiễm được nước hấp phụ chảy xuống bể lắng, còn không khí sạch sẽ được đẩy vào ống khói qua quạt và thải vào khí quyển. Thiết bị xử lý khí thải lò thiêu này có thể lắp bổ sung vào hệ thống lò thiêu mà không làm thay đổi đáng kể cấu trúc của thiết bị lò. Khi cần thiết có thể bổ sung hóa chất vào bể để xử lý khí độc hại. Lò đốt công suất lớn Với lò thiêu có quy mô xử lý trên 1.000 kg/ngày, thường được thiết kế hoàn chỉnh và đồng bộ từ khu vực tập kết rác, lò đốt, thiết bị xử lý, khu vực lấy tro, buồng điều khiển trung tâm... Phần nhiều các khâu được cơ giới hóa hoặc tự động hóa. Nhiệt độ thiêu đốt trung bình của loại lò này lớn hơn 1.000 độ C, thời gian lưu khí 1-2 giây. Hệ thống xử lý khí thải bao gồm: Thiết bị lọc bụi (lọc khô dạng túi vải hoặc tĩnh điện) và thiết bị lọc khí độc như SO2, HCl (dùng vôi bột và than hoạt tính). Các chất này được phun vào buồng hòa trộn sau đó thu lại bằng thiết bị lọc bụi để tuần hoàn. Vôi có tác dụng hấp phụ các khói axít, than hoạt tính hấp phụ dioxin và furan. Hệ thống xử lý còn được lắp các thiết bị báo nhiệt độ, nồng độ một số loại khí như carbon để giám sát chất lượng khí thải và hiệu quả phân hủy của lò. Lò đốt công suất trung bình Với lò có quy mô xử lý khoảng 300 đến 1.000 kg/ngày có thể dùng loại đáy tĩnh, có cấu tạo nhiều loại buồng đốt, nhiệt độ buồng đốt khí đạt trên 1.000 độ C. Thời gian lưu của khí trong buồng đốt từ 1-2 giây. Hệ thống xử lý khí thải về nguyên tắc cùng nguyên lý với lò công suất lớn đã giới thiệu ở trên. Xử lý chất thải rắn độc hại bằng phương pháp thiêu đốt vẫn là biện pháp chưa thay
  3. thế được vì nó có nhiều ưu điểm. Do đó việc nâng cao hiệu quả quản lý và nghiên cứu áp dụng các công nghệ phụ nhằm xử lý khí thải từ lò thiêu đốt sẽ giúp cho quá trình xử lý hoàn thiện hơn, bảo vệ tốt môi trường không khí. Hoạt động của bộ trung hòa khí thải Xe hơi là một phương tiện hữu dụng nhưng cũng là một trong những nguồn gây ô nhiễm chủ yếu. Để góp phần làm giảm lượng khí thải độc hại, các nhà sản xuất ôtô đã chế tạo ra một thiết bị trung hòa khí thải (catalytic converter) đang được sử dụng rộng rãi. Chính những bộ trung hòa khí thải này là biện pháp giúp các hãng xe trên thế giới đáp ứng được những quy định ngày càng khắt khe về môi trường tại nhiều quốc gia. Để làm giảm lượng khí thải, những chiếc xe hiện đại rất chú trọng tới việc kiểm soát lượng nhiên liệu đốt cháy Quy định về khí thải cao trong động cơ. Các kỹ nhất trên thế giới hiện nay Vị trí của bộ trung hòa khí sư cố gắng giữ tỷ lệ là tiêu chuẩn Euro IV. Hiện thải đặt trên xe hơi. hỗn hợp không khí và Trung Quốc đang thực hiện nhiên liệu ở gần điểm tiêu chuẩn Euro II trên toàn lý tưởng nhất. quốc đối với xe hơi, dự kiến sẽ áp dụng Euro III từ năm Trên lý thuyết, nếu đạt tới tỷ lệ này, nhiên liệu sẽ 2008. Trong khi đó, các thành được đốt cháy hoàn toàn. Tỷ lệ tối ưu giữa xăng và phố lớn như Thượng Hải không khí là 14,7:1, có nghĩa là để đốt hết một pound hay Bắc Kinh đã thực hiện xăng (một pound khoảng bằng 0,45 kg), cần 14,7 Euro II từ đầu năm 2003. pound không khí. Tỷ lệ xăng khí trên thực tế thay đổi tùy theo khi lái xe. Đôi khi hỗn hợp này có thể cao hơn Việt Nam chưa có quy định 14,7 hoặc có thể thấp hơn (nhiều xăng hơn cần thiết). bắt buộc về khí thải với ôtô, xe máy sản xuất trong nước Trong lượng khí mà một chiếc xe thải ra, bao gồm các cũng như nhập khẩu. Một khí sau: trong số xe hiếm hoi được giới thiệu đạt tiêu chuẩn về - Khí nitrogen (ký hiệu N2, tức là nitơ): phần lớn đi khí thải euro III là Fiat Albea thẳng qua động cơ xe. của công ty Mekong. - Carbon dioxide (CO2): sản phẩm của quá trình đốt cháy trong động cơ, do carbon trong nhiên liệu hòa trộn với oxy trong không khí. - Hơi nước (H2O): cũng sinh ra từ quá trình đốt trong động cơ, do sự kết hợp giữ hydro trong nhiên liệu với oxy trong không khí.
  4. Các chất trên không gây hại, dù CO2 góp phần làm nóng trái đất. Nhưng do quá trình cháy không bao giờ diễn ra hoàn hảo (không cháy hết nhiên liệu), từ đó mà một lượng chất có hại được sản sinh, gồm: - Carbon oxide (CO): một khí độc không màu và không mùi. - Hydrocarbon hay chất tổng hợp hữu cơ dễ bay hơi (VOC): sinh ra chủ yếu từ nhiên liệu cháy chưa hết. Ánh sáng mặt trời tác động tới những khí này, tạo ra các chất oxy hóa, phản ứng với oxide nitrogen (oxit nitơ) tạo ra ozone (O3), thành phần chủ yếu có trong sương mù. - Nitrogen oxide (nitơ oxit, NO và NO2, cùng gọi là NOx) góp phần tạo nên hiện tượng sương mù và mưa axit, đồng thời tác động xấu tới màng nhầy não người. Đó chính là 3 chất có trong khí thải xe hơi mà nhiệm vụ của bộ trung hòa khí là làm giảm tối đa lượng khí này thoát ra môi trường. Đa số các xe hiện đại được trang bị bộ lọc 3 lớp. Chúng tập trung vào việc làm giảm lượng phân tử phân tử carbon monoxide, VOC và NOx có trong khí thải. Bộ trung hòa khí sự dụng hai lớp xúc tác, một làm giảm khí thải và một và oxy hóa chúng. Cả hai bao gồm cấu trúc ceramic được tráng phủ một lớp kim loại, thường là platinum, rhodium, và/hoặc palladium. Người ta cố gắng tạo ra bề mặt tiếp xúc lớn nhất giữa lớp ceramic với dòng khí thải chạy A. Reduction catalyst. ngang, trong khi giảm xuống tối thiểu lượng chất B. Oxidization catalyst. xúc tác (catalyst) cần dùng vì giá thành rất đắt. C. Lớp lọc bằng ceramic bên trong. Một bộ trung hòa khí thải 3 lớp có cấu trúc như sau: Lớp xúc tác thứ nhất (the Reduction Catalyst): lớp lọc đầu tiên của bộ trung hòa khí thải. Nó sử dụng platinum và rhodium để làm giảm khí NOx. Khi một phân tử NO hay NO2 tiếp xúc với lớp xúc tác, nguyên tử nitrogen sẽ bị tách ra khỏi phân tử, bám lại trên bề mặt lớp xúc tác. Các nguyên tử nitrogen kết hợp với nhau, tạo ra N2. (2NO => N2 + O2 hoặc 2NO2 => N2 + 2O2). Lớp xúc tác oxy hóa (the Oxidization Catalyst): đây là lớp lọc thứ nhì. Nó làm giảm lượng hydrocarbon và carbon monoxide bằng cách đốt cháy (oxy hóa) chúng nhờ platinum và palladium. Lớp này giúp CO và hydrocarbon phản ứng với lượng oxy còn lại trong khí thải ra (2CO + O2 => 2CO2). Đóng vai trò quan trọng trong việc biến khí độc hại thành các chất khí không ảnh hưởng đến môi trường là oxy. Lượng oxy này được điều chỉnh bởi máy tính. Lớp
  5. thứ ba chính là hệ thống kiểm soát dòng khí thải và sử dụng thông tin này để điều chỉnh hệ thống phun nhiên liệu. Một cảm biến không khí gắn giữa bộ trung hòa khí và động cơ (gần động cơ hơn). Cảm biến này thông báo cho máy tính về lượng không khí còn lại trong khí thải ra. Máy tính sẽ tăng hoặc giảm lượng oxy trong khí thải bằng cách điều chỉnh tỷ lệ hỗn hợp khí và nhiên liệu. Sơ đồ kiểm soát này cho phép máy tính đảm bảo rằng tỷ lệ hỗn hợp nhiên liệu - khí trong động cơ gần đạt mức tối ưu. Và nó cũng đảm bảo đủ lượng oxy trong khí thải để cho phép sự lớp xúc tác oxy hóa đốt cháy lượng hydrocarbon và CO còn thừa sau kỳ Lớp xúc tác làm bằng nổ trong động cơ. ceramic. Bộ trung hòa khí có tác dụng rất lớn trong việc làm giảm sự ô nhiễm, và về thực chất, hiệu quả của nó còn có thể tăng hơn nữa. Một thiếu sót lớn nhất của hệ thống này nó chỉ làm việc tại một nhiệt độ đủ cao. Thời điểm khởi động xe sau một đêm trời lạnh, bộ trung hòa khí gần như không hoạt động. Giải pháp đơn giản cho vấn đề này là gắn nó gần động cơ hơn nữa. Tức là đưa khí thải tới bộ trung hòa khí nhanh hơn. Nhưng điều đó lại dẫn đến việc làm giảm tuổi thọ của bộ catalytic converter. Hiệu ứng sốc nhiệt (giống như khi ta đổ nước nóng vào một cốc thủy tinh) sẽ ảnh hưởng tới chất liệu ceramic. Chất liệu này còn bất tiện ở chỗ không thể làm mỏng lớp bề mặt xúc tác như ý muốn, vừa không tăng được diện tích tiếp xúc với khí thải, vừa gây cản trở đối với luồng khí thoát ra. Để thay thế lớp ceramic, hiện nay người ta đã chế tạo được bộ lọc sử dụng kim loại, chịu nhiệt tốt hơn. Làm nóng bộ trung hòa khí thải trước khi khởi động xe là một biện pháp khác để giảm tối thiểu những chất khí độc hại. Cách đơn giản nhất là sử dụng điện để sưởi. Có điều, hệ thống điện 12V trên phần lớn xe ôtô hiện nay không cung cấp đủ năng lượng để làm nóng bộ catalytic converter ở thời gian cần thiết. Ít ai có thể chờ được thời gian vài phút để cho bộ trung hòa khí kịp nóng trước khi khởi động xe. Những chiếc xe hybrid hiện nay, gắn một động cơ xăng thông thường với một động cơ điện, cho phép giải quyết khó khăn này một cách dễ dàng. Biến khí thải độc hại thành vô hại bằng kỹ thuật ôxy hóa khử
  6. Đó là công trình nghiên cứu vừa được công bố của Tiến sĩ Lê Văn Tiệp (Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia - TP HCM). Thiết bị xử lý này phù hợp với các lò đốt rác thải y tế, công nghiệp, và có thể gắn vào ống xả xe hơi, xe gắn máy... Hệ thống xử lý khí thải của Nhà máy hóa chất Tân Bình - TP Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Lê Văn Tiệp (Phân viện Khoa học vật liệu tại TP HCM, thuộc Trung tâm KHTN và CNQG) có tên Khử ôxit nitơ trên xúc tác với sự có mặt của hydro carbon trong hỗn hợp phản ứng. Ôxit nitơ, với hơn 90% là NO và NO2 (ký hiệu là NOx) là những chất khí độc gây hại cho sức khỏe con người, một trong những tác nhân gây mưa axit và phá hủy tầng ozone của khí quyển. Nguồn chính tạo thành ôxit nitơ là các động cơ đốt trong và các lò đốt làm việc ở nhiệt độ cao. Theo Tiến sĩ Tiệp, trong khi những tiến bộ khoa học trên thế giới đã giúp loại lưu huỳnh khỏi dầu mỏ, làm giảm SO2, thì ô nhiễm ôxit nitơ - một dạng nguy hiểm không kém, đang trở nên nghiêm trọng và chưa có biện pháp loại trừ tận gốc. Mặt khác, so với các khí độc hại khác như ôxit carbon, hydro carbon, muội than... thì ôxit nitơ khó xử lý hơn. Ở nước ta tới nay, kể cả công trình của Tiến sĩ Tiệp, mới chỉ có hai nghiên cứu trong lĩnh vực này. Thông thường, người ta xử lý khí thải bằng hấp phụ (dùng than hoạt tính) hoặc hấp thụ (dùng nước hoặc một dung dịch nước) để giữ lại các chất độc. Cách này có hạn chế là không triệt để, chỉ có tác dụng nhất thời mà thực ra các chất độc vẫn còn nguyên, không hề bị thay đổi tính chất hóa học. Hơn nữa, các chất hấp phụ nhanh chóng mất hoạt tính do đã bão hòa, và không còn tác dụng loại bỏ chất độc nữa. Nguy hại hơn nữa là phương pháp này đã chuyển chất thải khí thành chất thải rắn và lỏng, gây ô nhiễm đất và nguồn nước. Phương pháp của Tiến sĩ Tiệp khắc phục được những nhược điểm trên: Ông dùng phản ứng ôxy hóa khử để biến khí độc thành không độc. Cụ thể của việc xử lý này có hai nội dung: 1. Chuyển C, CO, COV (hợp chất hữu cơ bay hơi) về CO2 không độc bằng phản ứng ôxy hóa, nghĩa là đốt cháy với sự có mặt của ôxy; 2. Chuyển NOx về ôxy và nitơ, là phản ứng khử ngược lại với phản ứng trên.
  7. Hai quá trình này phải thực hiện đồng thời. Vì thế, phải tìm một "khoảng" cho phép để chỉnh nồng độ ôxy sao cho cả hai quá trình đều cùng thực hiện được, đồng thời tìm chất xúc tác thích hợp. Cả hai việc đều đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian và nhiều phương tiện đặc chủng hiện đại. Chính vì thế, ở Việt Nam rất khó làm, lĩnh vực này hầu như còn bỏ ngỏ. Theo Tiến sĩ Tiệp, việc áp dụng kết quả nghiên cứu này vào thực tế không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam, rất phù hợp cho các lò đốt rác thải y tế, lò đốt rác thải công nghiệp. Nhiều đơn vị đã đến đặt hàng lắp ráp thiết bị khử ở Phân viện Khoa học vật liệu, trong đó có: Bệnh viện Sóc Trăng, Trung tâm Lao và bệnh phổi Tiền Giang, Nhà máy Nông dược Tiền Giang... Thiết bị xử lý khí thải bằng xúc tác do Phân viện chế tạo cũng rất phù hợp cho nhiều loại xe, kể cả xe gắn máy. Tiến sĩ Tiệp cho biết, các nước trên thế giới đều có ống xả xúc tác xử lý khí thải xe hơi, cho nên họ không phải... bịt mặt khi ra đường như ở ta. Phân tử CO2 được tạo thành như thế nào? Lần đầu tiên người ta quan sát được sự tạo thành phân tử CO2 ở cấp độ vi mô. Điều đó không những giúp người ta hiểu rõ hơn phản ứng hóa học quan trọng này, mà còn giúp tối ưu hóa việc xử lý khí thải ôtô, làm trong sạch không khí hay làm các đầu dò hóa học. Nhóm nghiên cứu đứng đầu bởi Wilson Ho, Đại học California ở Irvine (Mỹ), đã sử dụng kính hiển vi đặc biệt để nghiên cứu sự tạo thành phân tử CO2 từ phân tử CO và ôxy nguyên tử dính trên bề mặt kim loại (trong thí nghiệm là bạc). Thí nghiệm 1: Người ta dịch một phân tử CO tới hai nguyên tử ôxy dính trên bề mặt bản kim loại. Hình 1 (H1) cho thấy một phân tử Thí nghiệm 1. CO cô lập dính trên bề mặt bản kim loại. Hình 2 (H2) cho thấy một phân tử CO được đặt gần hai nguyên tử ôxy. Quan sát cho thấy, khi phân tử CO dịch đến khoảng cách 1,78 angstrom (1angstrom =10 mũ -10 mét), phức hợp O-CO-O được tạo thành. Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học quan sát được phức hợp này. Bằng cách tạo ra một hiệu điện thế để truyền electron vào phức hợp này, người ta đưa nó lên một trạng thái năng lượng cao hơn, và do đó, kém bền vững hơn. Phức hợp sẽ tự động phân hủy thành phân tử CO2 và ôxy nguyên tử. Thực tế, các va chạm của chuyển động nhiệt của các phân tử (trong động cơ ô tô) sẽ kích thích phân tử lên mức năng lượng cao hơn của electron.
  8. Thí nghiệm 2: Người ta hạ đầu dò có dính Thí nghiệm 2. phân tử CO xuống (H1), phản ứng với một nguyên tử ôxy (H2). Phân tử CO được nhả ra khi người ta đặt một hiệu điện thế giữa đầu dò và bản kim loại. Cuối cùng, chỉ còn lại một nguyên tử ôxy đính trên bản kim loại (H3). Những thí nghiệm này chứng tỏ phân tử CO chỉ phản ứng với ôxy nguyên tử trên bề mặt bản kim loại mà thôi. Công nghệ mới thu CO2 từ ống khói Tờ New York Times, hôm qua (18/6), cho biết, Mỹ đang thử nghiệm rộng rãi công nghệ mới trong việc xử lý khí thải CO2, loại khí chủ yếu gây hiệu ứng nhà kính, làm khí hậu toàn cầu nóng lên. Theo đó, khí CO2 sẽ được hút trực tiếp từ ống khói trước khi nó kịp thoát vào không khí. Khí CO2 thoát lên rất mạnh làm nước trào ra khỏi cốc. “Chúng ta có cơ sở tin rằng, công nghệ mới sẽ đóng góp lớn cho việc giải quyết vấn đề khí thải, nhất là kỹ thuật hút, giữ và xử lý biệt lập khí carbon ”, Tổng thống Bush nói. Trước nay, những nỗ lực giải quyết khí thải CO2 tập trung theo 2 hướng: Thứ nhất là thay thế nhiên liệu tự nhiên như than đá, dầu mỏ bằng các nguồn năng lượng khác không sản sinh CO2, như năng lượng hạt nhân, nhiệt mặt trời hoặc sức gió. Thứ hai là ưu tiên sản xuất các phương tiện hoặc vật dụng tiêu thụ ít năng lượng, hoặc dùng điện thay cho khí đốt, ví dụ ôtô điện, xe điện… Các biện pháp này tuy hạn chế khối lượng khí CO2 thải ra, nhưng vẫn chưa triệt để, bởi lượng khí thải thoát ra từ các ống khói nhà máy hiện nay vẫn là quá lớn. Các nhà khoa học cho biết, công nghệ hút khí CO2 trực tiếp từ ống khói, nếu được áp dụng rộng rãi sẽ là hướng giải quyết cho tương lai. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ mới còn đang gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do giá thành xử lý quá đắt. Giá xử lý một tấn khí thải CO2 hiện là 2,75 USD, nhưng với công nghệ này, mức giá lên cao gấp 15-20 lần.
  9. Một vấn đề nữa là nên cất giữ khí thải ở đâu? Theo các chuyên gia, nếu thế giới vẫn tiêu thụ nhiên liệu khí đốt như hiện nay thì các “bãi thải ngầm” (chôn khí CO2) dưới lòng đất sẽ đầy ắp trong vòng mấy chục năm nữa. Hiện nay hàng năm có khoảng 25 tỷ tấn khí carbon (tức 25 triệu tấn/ngày) được dẫn xuống biển. Đa số các nhà khoa học cho rằng, đây là một biện pháp khá an toàn. Tuy nhiên, các nhà môi trường cảnh báo, khí CO2 có thể gây hại cho các sinh vật sống ở đáy biển, vì làm cho nước ở đó chua hơn. Mặt khác, nếu sơ suất, có thể mấy trăm năm nữa, lượng khí CO2 khổng lồ bị "nhốt" dưới đáy biển sẽ bùng thoát lên. Một thảm hoạ loại này đã xảy ra năm 1986 ở Cameroon, khi lượng khí CO2 tích tụ hàng nghìn năm từ đáy hồ Nyos đột ngột thoát lên, dìm chết 1.700 người. (Theo Vnexpress) [ In ] [ Lên đầu trang ] [ Quay lại ] “Thuần hoá” những chiếc hồ giết người Tối 21/8/1986, một đám mây cácbonic khổng lồ phun lên từ lòng hồ Nyos trên vùng núi phía tây bắc Cameroon. Dòng khí chết người và nặng nề này từ từ trườn xuống những ngọn đồi, tràn vào các thung thũng và làng mạc, làm ngạt thở tất cả các sinh vật sống trên đường đi của nó. 1.700 người đã chết vào buổi sáng hôm sau. Do đợt phun trào này và một đợt vào năm 1984 tại hồ Monoun, cách Nyos 59 dặm về phía đông nam, người dân trong vùng luôn phải sống trong lo sợ rằng những chiếc hồ này sẽ tiếp tục giết người. Nước chứa khí CO2 Trên thực tế, lượng khí độc trong hai hồ, thực chất là khí CO2, hiện phun trên hồ Nyos. còn nhiều hơn cả trước khi sự phun trào xảy ra. Giải pháp cho “bom nổ chậm” Đến nay, một nhóm các nhà khoa học Mỹ đã bước đầu tháo được “ngòi nổ” hồ Nyos bằng cách đặt một ống polyethylene xuống sâu dưới hồ, cho phép thứ nước giầu khí CO2 tại đáy hồ sủi bọt lên và giải phóng bớt CO2 vào khí quyển. Nhờ vậy, áp suất dưới đáy hồ sẽ giảm, hạ thấp nguy cơ phun trào. Tiến sĩ James G. Smith, một chuyên gia địa chất học tại Cơ quan Phát triển Quốc tế, nhà tài trợ chính của dự án cho biết: “Đây sẽ là lần đầu tiên chúng tôi có thể ngăn chặn một thảm họa tự nhiên”. Ngoài việc đặt hệ thống đường ống khử khí độc, các nhà khoa học còn lắp một hệ thống cảnh báo sớm trên mỗi hồ. Khi nồng độ CO2 tăng cao, còi báo và ánh sáng nhấp nháy sẽ hoạt động, báo động cho người dân sống trong vùng có thể chạy thoát. Mặc dù vậy, nguy hiểm chưa hẳn đã hết. Theo các nhà khoa học, hồ Nyos vẫn còn chứa lượng khí CO2 khổng lồ và một đường ống đơn độc không đủ để giải phóng hết
  10. chúng. Cần có từ 4-5 đường ống tương tự để loại bỏ mối nguy hiểm ở đây cũng như tại hồ Monoun. Núi lửa làm tích tụ khí dưới đáy hồ Hồ Nyos và hồ Monoun là những hồ trên miệng núi lửa, hình thành trong quá trình nguội đi của núi lửa và do tích tụ nước mưa. Trong hầu hết các hồ loại này, những tầng nước luân chuyển từ trên mặt xuống đáy hồ và ngược lại theo chu kỳ. Trong quá trình đó, các khí từ lòng đất xâm nhập vào đáy hồ cuối cùng sẽ được giải phóng ra bầu khí quyển. Nhưng hồ Nyos, hồ Monoun và hồ Kivu ở Đông Phi lại không giống như vậy. Các lớp nước không có sự luân chuyển trên dưới và vì vậy các khí độc khi xâm nhập đáy hồ sẽ bị “khoá” chặt tại đây. Sau đó, khi một cơn bão hay một vụ lở đất xảy ra, khiến một khối lượng lớn nước bề mặt chìm xuống dưới, đẩy nước dưới đáy hồ đi lên. Khí độc từ trạng thái hoà tan sẽ thoát ra ngoài, giống như các bọt khí nổi lên khi một chai nước khoáng bị mở nắp. Trong vụ hồ Nyos vào năm 1986, khí và nước đã bốc lên thành cột cao khoảng 80 m, di chuyển với tốc độ 45 dặm mỗi giờ và lan đến những ngôi làng cách đó 12 dặm. Ước tính hồ đã nhả ra khoảng 1 km3 khí CO2, đủ để lấp đầy 10 sân bóng đá. Tại hồ Monoun, đám mây khí này nhỏ hơn, nhưng cũng đủ làm 37 người thiệt mạng.
  11. Trang chủ Chính trị Việc làmKết bạnTìm đườngTrí tuệ Việt NamTìm đồng độiLiên Công đoàn Xã hội hệ Quảng cáoPhiên bản cũ Kinh tế Pháp luật Trang nhất > Môi trường > Tin tức-Sự kiện Quốc tế Thể thao Lưu để đọc sau Email bài này Bản in Ý kiến bạn đọc Văn hoá Công nghệ Quảng Nam: Thông tin Khoa học "Trắng" hệ thống xử lý nước thải tất cả khu, cụm CN Môi trường Tin tức- Lao Động số 52 Ngày 07/03/2008 Cập nhật: 12:11 AM, Sự kiện Môi trường 07/03/2008 quanh ta Vấn đề hôm nay Ý kiến Hỏi & đáp Phóng sự (LĐ) - Tin từ UBND tỉnh ngày 6.3: Hiện trên địa bàn tỉnh có 5 khu Trang Việc làm công nghiệp (CN) và 23 cụm CN đang hoạt động sản xuất, nhưng Bạn đọc viết đều chưa có hệ thống xử lý nước thải CN. Tấm lòng vàng Hồ sơ Lao Động cuối Riêng 5 khu CN, lượng nước thải khoảng 6.000m3/ngày, nhưng tuần Báo Xuân 2008 chỉ mới có Khu CN Điện Nam - Điện Ngọc đang trong quá trình Trang quảng cáo xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung công suất Đăng ký tin thư 2.500m3/ngày, dự kiến đầu quý II/2009 mới vận hành. Email của bạn Quảng cáo Giảm khí thải, được trả tiền Một nhà máy ximăng xả khói thải mù mịt vào môi trường,  nếu nhà máy bỏ tiền đầu tư xử lý làm giảm lượng khí thải  trên không chỉ có lợi cho chính mình mà còn có thể nhận  được tiền, từ cơ chế mua bán lượng khí thải trên thị trường  thế giới.
  12. Tương tự, các nhà máy gốm sứ ở Bình Dương hiện nay, nếu thay củi, than đá đốt lò nung bằng   khí gas, cũng có thể nhận được tiền. Hay một nhà đầu tư, bỏ tiền ta xây dựng một nhà máy  phát điện bằng sức gió mà “nguyên liệu” này quá thừa thãi ở Việt Nam, ngoại việc thu được tiền  bán điện, cũng có thể nhận được tiền… từ các nước giàu, nhờ dùng sức gió, thay vì dùng nhiên  liệu tạo ra các khí gây hiệu ứng nhà kính.   Giảm khí thải… có tiền Theo Nghị định thư Kyoto có hiệu lực vào năm 2005 mà Việt Nam tham gia phê chuẩn vào năm  2002, có 6 loại khí gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát là CO 2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và  SF6.  Mỗi  tấn   CO2   tương   đương  một   đơn   vị  tín   chỉ   giảm  phát   thải  CER  (Certified   Emission  Reductions), các loại khí còn lại quy đổi ra CO2. Nghị định cũng đưa ra cam kết giảm khí thải  gây hiệu ứng nhà kính của các nước phát triển như EU là 8%, Mỹ 7%, Nhật 6%.  Thế nhưng, theo Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường Việt Nam (RCEE), việc cắt  giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính ở các nước phát triển rất khó khăn và tốn kém hơn các  nước đang phát triển như trường hợp của Việt Nam. Và do vậy các nước này mới bỏ tiền đầu tư  công nghệ và mua lượng giảm khí thải ở các nước đang phát triển để đạt chỉ tiêu giảm phát thải  theo cam kết của Nghị định thư Kyoto.   Nội dung cơ bản của CDM theo Nghị định thư Kyoto: Các nước phát triển, bao gồm cả khu vực nhà nước và tư nhân, đưọc phép tự thực hiện các dự  án đầu tư cuả mình ở các nước đang phát triển nhằm giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.  Đồng thời, các nước phát triển đầu tư các dự án CDM có thể được tính lượng giảm phát thải cuả  dự án cho mình, còn các nước đang phát triển­nơi thực hiện dự án­ có thể bán chỉ tiêu giảm  phát thải cho các nước phát triển. Tuy nhiên, nếu muốn bán tín chỉ CER thì các doanh nghiệp phải tham gia cơ chế phát triển  sạch   CDM   (viết   tắt   của   Clean   Development   Mechanism   Projects),   phải  chứng   minh   doanh  nghiệp của mình giảm được các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính, chứ không phải doanh  nghiệp nào tự giảm khí thải cho mình đều có thể bán. Ngoài việc doanh nghiệp đầu tư công nghệ, thiết bị để giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính  trong quá trình sản xuất­đang được Chính phủ bắt buộc hiện nay­ các doanh nghiệp khác nếu  đầu tư sản xuất bằng nguồn nhiên liệu hay năng lượng thay thế cho nguyên nhiên liệu phát sinh  ra khí thải gây hiệu ứng nhà kính và tuân theo quy trình CDM cũng đưọc thu lợi tương tự. Theo Văn phòng Bảo vệ tầng Ozone và Biến đổi Khí hậu quốc gia thuộc Bộ Tài nguyên và Môi  trường, khái niệm đầu tư xử lý giảm phát thải gây hiệu ứng nhà kính và tham gia cơ chế CDM  đã xuất hiện từ năm 2003, trước khi Nghị định thư Kyoto có hiệu lực. Lúc đó, nhiều doanh  nghiệp trong nước, đã đăng ký tham gia CDM và rao bán mỗi đơn vị CER chỉ có 3­5 Euro.    Còn giờ đây, sau hơn 4 năm, giá mỗi đơn vị CER trên thị trường thế giới đã lên tới 18­20 Euro.   Ai bán, ai mua? Theo RCEE, hiện nay mỗi năm Việt Nam thải ra bầu khí quyển khối lượng khí thải gây hiệu ứng  nhà kính quy đổi tương đương 103,8 triệu tấn khí CO 2, trong đó nông lâm nghiệp chiếm gần  70%. Tuy nhiên lĩnh vực mà nếu đầu tư theo CDM thì giảm nhanh lượng khí thải nhất hiện nay  là ximăng, sản xuất gạch ngói, gốm sứ, rác thải tập trung và ngành điện. 
  13. Đó là lý do mà hiện nay, đã có 13 dự án về điện và ximăng được xây dựng theo quy trình CDM,  như sản xuất điện bằng sức gió ở đảo Phú Quý, Bình Thuận; nhà máy điện bằng sức gió ở Bình  Định; điện mặt trời để thay thế nhiên liệu dầu, thay thế dầu bằng khí đốt ở nhà máy nhiệt điện   Thủ Đức. Một số nhà máy ximăng đang muốn đầu tư thiết bị xử lý khói thải, dùng chính khí thải   ra làm năng lượng phát điện để tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí, lại bớt gây ô nhiễm môi  trường cho cộng đồng xung quanh nhà máy. TP.HCM hiện được xem là địa phương có nhiều tiềm năng lớn để phát triển sản xuất sạch theo  cơ chế CDM và dự kiến có 9 dự án dạng này được triển khai trong năm nay nhưng xoay quanh  vẫn là xử lý rác ở các bãi rác chôn lấp tập trung, dự án thu hồi, xử lý khí sinh học tại trại  chăn nuôi heo Phước Long, dự án xử lý bùn kênh rạch từ hệ thống thoát nước đô thị thành phố,  dự án xử lý phân hầm cầu Hòa Bình, dự án thu hồi và xử lý khí sinh học tại khu công nghiệp  Tây Bắc ­ Củ Chi...không chỉ được lợi nhờ tiết kiệm chi phí sản xuất, bảo vệ được môi trường và  cộng đồng dân cư hoan nghênh, mà còn thu được lợi ích từ bán lượng giảm khí thải cho nước  giàu. Hiện nay RCEE đang phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện một số dự án CDM  mang tính trình diễn cho các doanh nghiệp và tích cực tiếp thị đến các nước giàu để đầu tư và  mua lại lượng giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính ở Việt Nam. Trước mắt, RCEE đang tư vấn  cho điện lực Việt Nam xây dựng các nhà máy điện dùng sức gió ở các tỉnh phía nam; dự án  dùng khí biogas chạy lò hơi ở nhà máy sản xuất cồn Lam Sơn; dự án thay thế chất đốt gỗ củi ở  các lò gạch thủ công của tỉnh Hải Dương bằng khí gas. Ô nhiễm khí thải công nghiệp tại Hải Dương: Tiếng kêu cứu từ Kinh  Môn 09:36' AM - Thứ ba, 04/11/2003 Anh Lê Văn Dự già hơn cái tuổi 40, da mặt xám quạnh lần dở cho chúng tôi xem tập đơn thư với hàng trăm chữ kí của người dân thôn Trại Xanh - xã Duy Tân - huyện Kinh Môn (Hải Dương). Ông nói, chúng tôi đang chết dần chết mòn. Chỉ từ đầu năm đến nay, thôn đã có 12 người đột tử và chết do bệnh ung thư liên quan đến ô nhiễm khí bụi công nghiệp. Trắng xoá trong bụi xi măng, thôn Trại Xanh mang vẻ u ám đặc biệt, chỉ có những ống đùn khói lên trời và những bóng người di chuyển mờ mờ là nói lên ở đây có sự sống. Mới có 10 phút loanh quanh hỏi đường, tôi đã thấy mình tức thở! Điều mà người dân thành phố luôn so bì với người dân nông thôn - được hưởng không khí thoáng đãng, dư thừa khí trời trong lành, nghe như nghịch cảnh ở nơi này. Người ta biết đến một đất Kinh Môn thơ mộng với bến phà bắc qua sông Kinh Thày, một Kinh Môn như thủ phủ công nghiệp xi măng của tỉnh Hải Dương nhưng quả thật không thể ngờ được điều mà người dân nơi đây đang phải gánh chịu từng
  14. ngày - từng giờ! Ngoi ngóp sống trong ô nhiễm! Trong lá đơn đề ngày 16/10 của thôn Trại Xanh có đoạn “Khói bụi xi măng tràn vào thôn, chúng tôi thường nói: Hít khói bụi cho nở phổi, còn trẻ em ngây thơ kêu rằng: Bụi khói quá bố mẹ ơi!... Trẻ em bị suy nhược cơ thể với tỷ lệ cao nhất xã. Gần 1.300 con dân chúng tôi vẫn phải khắc khoải chìm ngập trong khói bụi của 4 nhà máy xi măng lò đứng đang ngày đêm toả khí độc”. Thật khó có vùng quê nào như nơi đây : cửa đóng then cài suốt cả ngày, người ta tối giản chuyện đi lại ngoài đường. Nhưng như thế cũng chỉ là cách tự vệ yếu ớt mang tính chất an ủi tinh thần là chính. Bởi con thơ vẫn phải đến trường và người dân thì cũng phải đi làm, mà bụi khói vốn khéoléo đến độ có thể len lỏi vào bất cứ nơi nào! Không chỉ có khói bụi, nước sinh hoạt trong thôn cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Nước mưa thì được hứng từ những mái dốc phủ dày bụi xi măng đến hàng cm, nước giếng khoan thì chỉ ra khỏi miệng giếng đã bốc mùi tanh nồng đến khó ngửi. Nước thải của các nhà máy xi măng cộng với bụi chảy ra ruộng gây chai cứng mặt ruộng, không thể canh tác gì được. Anh Dự tâm sự trước nhà anh ở gần nhà máy xi măng Trung Hải, nhà cửa vườn tược ổn định lắm rồi nhưng vì ô nhiễm mà cả gia đình phải ra ở nhờ nhà người em ở phía ngoài này. “Nhưng đấy là mình còn có điều kiện chạy bụi chứ đa số bà con hàng xóm vẫn phải sống ở đấy”. Tình cảnh khốn khổ của bà con thôn Trại Xanh không phải không được các cấp lãnh đạo biết đến. Ông Phạm Thế Đại -Phó chủ tịch UBND huyện Kinh Môn thừa nhận, mức độ ô nhiễm ở đây đã đến mức nghiêm trọng như bà con khiếu kiện. Ông Nguyễn Tá Dước, Giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường cũng khẳng định, mức độ ô nhiễm về bụi, khí thải SO2 và tiếng ồn đều vượt quá mức cho phép. Cần sự ứng xử nhanh nhạy, sáng suốt từ chính quyền! Được biết tình trạng ô nhiễm môi trường do nhà máy xi măng đã diễn ra từ lâu, ngay khi nhà máy lâu nhất được xây dựng từ những năm 90. Nhưng nó đặc biệt nghiêm trọng khi hơn một năm nay có mấy nhà máy hoạt động thêm. Ông Phạm Văn Thuân - Huyện uỷ viên được phân công trực tiếp phụ trách lĩnh vực công nghiệp của huyện cho biết, cả 4 nhà máy xi măng (2 của nhà nước, 2 của tư nhân) đều sử dụng công nghệ xi măng lò đứng của TQ. Ông Nguyễn Tá Dước cũng khẳng định, cả 4 nhà máy đều không đảm bảo yêu cầu xử lí thiết bị bảo vệ môi trường. Ngay từ khi Tỉnh còn xem xét dự án đầu tư của mấy nhà máy này, huyện đã có yêu cầu lưu ý đến yếu tố môi trường nhưng những nhà đầu tư dường như chỉ làm cho dự án trên giấy hay ho mà “quên” biến nó thành hiện thực. Còn cấp lãnh đạo xem xét trên giấy phê duyệt và cũng bỏ qua việc giám sát thực thi của các đơn vị này! Công suất của nhà máy thấp nhất là 3 vạn tấn và lớn nhất là 8 vạn tấn nhưngđến nay cả 4 nhà máy đều chưa vận hành hết công suất này. Trong khi đó tạiCty Xi măng Phú Tân và Nhà máy Xi măng Thành Công II đều đang định xây dựngthêm lò nung mới so với dự án được duyệt. Thật lạnh ngưòi khi nghĩ đến điều gì sẽ còn đến với ngưòi dân nơi này nếu không có những biện pháp ngăn chặn hiệu quả tình trạng gây ô nhiễm như thế này. Trước mắt, Sở TN- MT đã kiến nghị không cho phép hai nhà máy trên được xây mới thêm lò nung và phải nhanh
  15. chóng hoàn thành việc lắp đặt xử lý bảo vệ môi trường trong năm nay. Ông Phạm Thế Đại lo lắng ở một góc độ rất thực tế. Tuy các nhà máy đều thừa nhận tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do sản xuất xi măng gây ra và chấp thuận yêu cầu phải nhanh chóng tu sửa nâng cấp hệ thống lọc bụi và lọc nước thải nhưng lại thiếu chế tài ràng buộc các nhà máy này. “Nếu họ không thực hiện, chúng tôi cũng chỉ biết báo cáo lên tỉnh mà thôi” - ông Đại nói. Theo quy định hiện hành, những cơ sở sản xuất có khả năng gây ô nhiễm không được xây dựng sátkhu dân cư. Và Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Nghị định 64 về di dời các cơ sở gây ô nhiễm. ở thôn Trại Xanh, chưa đầy 1 km đã có 4 nhà máy xi măng đan cài răng lược với khu dân cư, trường học. Ông Phạm Văn Thuân nhận xét, người dân ở đây rất tốt, họ bức xúc thì chỉ làm đơn kiến nghị không hề làm gì quá khích. Thế nhưng sự bức xúc của ngưòi dân cũng cần được nhìn nhận và giải quyết thoả đáng. Chính quyền tỉnh Hải Dương thiết nghĩ không thể vì muốn phát triển công nghiệp, chuyển đổi kinh tế mà quên đi việc chăm lo đời sống cho người dân. Trước mắt, nênchăng cần sớm xem xét ngay giải pháp của huyện Kinh Môn: Trong khi các nhà máy chưa thực hiện được yêu cầu của Sở TN- MT về việc lắp đặt thiết bị xử lí khí và nước thải ra môi trường cần áp dụng chế độ vận hành luân phiên để hạn chế gây ô nhiễm! Về phía DN, khoản đầu tư cho môi trường vào lúc này sẽ là một gánh nặng về tài chính. Thế nhưng không thể vì thế mà chần chừ hơn nữa. Các DN cũng có nguyện vọng được có những hỗ trợ về mặt cơ chế và lãi suất vay vốn để đầu tư cho môi trường. Điều này cuối cùng cũng lại là thẩm quyền của UBND tỉnh. Và tỉnh Hải Dương đến lúc không thể bỏ qua cuộc sống của người dân đang ngoi ngóp trong ô nhiễm! Chúng tôi rời thôn Trại Xanh quá trưa, vẫn giữ lại hình ảnh, người mẹ trẻ thả lát quất với mấy hạt muối vào miệng đứa con nhỏ để nó theo bạn đến trường.Như thế mới dễ thở, chị giải thích. Những đứa trẻ đồng phục áo trắng quần xanh đi thành dòng lặng lẽ trong mù bụi trắng!... Chất lượng không khí - Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ (TCVN 5939 : 1995) Air quality - Industrial emission Standards - Inorganic substances and dusts 1 Phạm vi áp dụng 1.1. Tiêu chuẩn này quy định giá trị nồng độ tối đa của các chất vô cơ và bụi trong khí thải công nghiệp (tính bằng mg/m3 khí thải) khi thải vào không khí xung quanh. Khí thải công nghiệp nói chung trong tiêu chuẩn này là khí và khí có chứa bụi do các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác tạo ra.
  16. 2.1. Tiêu chuẩn này áp dụng để kiểm soát nồng độ các chất vô cơ và bụi trong thành phần khí thải công nghiệp trước khi thải vào không khí xung qunah. 2. Giá trị giới hạn 2.1. Danh mục và giá trị giới hạn nồng độ của các chất vô cơ và bụi trong khí thải công nghiệp khi xả vào khí quyển phải phù hợp với quy định trong bảng. 2.2. Giá trị giới hạn ở cột A áp dụng cho các cơ sở đang hoạt động. Giá trị giới hạn ở cột Báp dụng cho tất cả các cơ sở kể từ ngày cơ quan quản lý môi trường quy định. 2.3. Đối với khí thải của một số hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ đặc thù, khi thải vào khí quyển phải theo quy định ở các tiêu chuẩn riêng. Chú thích: Phương pháp lấy mẫu, phân tích, tính toán để xác định giá trị nồng độ các thành phần vô cơ và bụi cụ thể trong khí thải công nghiệp được quy định trong các TCVN tương ứng. Giới hạn tối đa cho phép của bụi và các chất vô cơ trong khí thải công nghiệp (mg/m3) Giá trị giới hạn TT Thông số A B 1 Bụi khói          - Nấu kim loại          - Bê tông nhựa 400 200    - Xi măng 500 200    - Các nguồn khác 400 100 2 Bụi 600 400    - Chứa silic          - Chứa amiăng 100 50 3 Antimon Không Không 4 Arsen 40 25 5 Cadimi 30 10 6 Chì 20 1 7 Đồng 30 10 8 Kẽm 150 20 9 Clo 150 30 10 HCl 250 20 11 Flo, axit HF (các nguồn) 500 200
  17. 12 H2S 100 10 13 CO 6 2 14 SO2 1500 500 15 NOx (Các nguồn) 1500 500 16 NOx (cơ sở sản xuất axit) 2500 1000 17 H2SO4 4000 1000 18 HNO3 300 35 19 Amoniac 2000 70       300 100 ------------------------------------------ Những giải pháp xử lý khí thải động cơ hiện đại Thứ tư, 30 Tháng tư 2003, 08:00 GMT+7 Tags: công nghệ xử lý, nhà sản xuất, khí thải, Động cơ, hiện đại, giải pháp, đoạn
  18. Các vấn đề về môi trường và năng lượng luôn làm đau đầu các nhà sản xuất ôtô. Theo lộ trình cắt giảm khí thải nghiêm ngặt của châu Âu giai đoạn 1988-2008, cuộc đua về công nghệ xử lý khí thải độc hại từ động cơ (nhất là kiểu diesel) giữa các hãng xe đang đến đoạn nước rút. Một trong những biện pháp rất hiệu quả giảm thiểu sự độc hại của khí thải động cơ là việc chế tạo và sử dụng hệ thống phin lọc. Ví dụ như hệ thống CRT Sơ đồ hệ thống CRT (Continously Regenerating Trap) của hãng Volvo Trucks (Continously Regenerating Trap) của cho phép giảm 80-90% tỷ lệ CO, HC, NO và các phần Volvo Trucks. tử cứng trong khí thải. Bộ phin này được thiết kế cho động cơ xe tải và đã trở thành cấu trúc không thể thiếu đối với hầu hết xe buýt chạy trong thành phố. Hãng PSA Peugeot - Citroen cũng gặt hái nhiều thành công trong lĩnh vực này. Hệ thống phin lọc khí thải của xe Peugeot 607 với động cơ diesel HDI và cũng đã được nhận giải thưởng quốc tế. Tuy Sơ đồ hệ thống phin lọc nhiên, thiết kế của PSA có nhược điểm là đắt tiền, làm tăng giá khí thải của xe Peugeot thành ôtô. 607. Hoàn thiện quá trình đốt nhiên liệu trong xi-lanh cũng là một biện pháp rất hiệu quả làm giảm khí thải độc hại. Xu hướng này được các đại gia ôtô Đức và Nhật đặc biệt chú trọng. Đây là biện pháp đồng thời cắt giảm khí thải và tiết kiệm nhiên liệu. Vào năm 1976, hãng Bosch lần đầu tiên chế tạo được loại cảm biến dùng trên động cơ xăng có tên là Lambda (xuất xứ từ mẫu tự Latin λ, Mới đây, hãng Bosch tiếp tục cho ra mắt loại cảm biến Lambda dùng trên động cơ diesel, sau đó chế tạo thành công hệ thống điện tử điều khiển động cơ diesel EDS (electronic diesel control). Thiết bị này giúp cho dòng Sơ đồ cấu tạo hệ thống máy dầu đáp ứng được tiêu chuẩn bảo vệ môi trường điện tử điều khiển động cơ diesel. Euro 4 - chuẩn bảo vệ môi trường châu Âu áp dụng vào năm 2005. Hãng Toyota lại hoàn thiện quá trình làm việc của động cơ diesel theo một
  19. Sơ đồ hệ thống phun nhiên liệu điều khiển điện tử của động cơ diesel, sử dụng cảm biến Lambda. Kiểm soát từ xa khí thải nhà máy Thứ hai, 04 Tháng mười hai 2006, 20:25 GMT+7 Tags: Hàn Quốc, Việt Nam, quản lý chất thải, nhà máy, khí thải, kiểm soát, từ xa, Môi trường, giúp
  20. Hàn Quốc khẳng định, sẽ giúp Việt Nam kiểm soát từ xa khí thải nhà máy. Hàn Quốc cũng hứa, giúp Việt Nam đào tạo cán bộ môi trường. Ngoài ra, Hàn Quốc còn giúp Việt Nam quản lý chất thải nguy hại, trong đó chủ yếu là quản lý chất thải điện tử... Đây là những nội dung chính được thống nhất trong buổi làm việc giữa Bộ trưởng Môi trường hai nước Việt Nam và Hàn Quốc vào chiều 4/12 tại Hà Nội. Một nhà máy xi măng thải khí gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở Đà Nẵng (Ảnh: Minh Đức) Trao đổi với phóng viên TS, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực cho biết, ở Hàn Quốc, người ta ngồi ở một chỗ nhưng có thể biết được khí thải của các nhà máy như thế nào bởi một hệ thống phân tích khí thải tại chỗ truyền về trung tâm. Hàn Quốc kiểm soát được tất cả ống khói của quốc gia họ. Theo Bộ trưởng Mai Ái Trực, ""Sắp tới, Hàn Quốc sẽ hợp tác với Việt Nam kiểm soát khí thải nhà máy trên phạm vi nhất định, có thể sẽ áp dụng với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, nơi có nhiều nhà máy hoá chất và sản xuất xi măng"". Cũng trong chương trình hợp tác thời gian tới, 2 bên đề ra chương trình xúc tiến sớm hình thành Trung tâm đào tạo môi trường. Phía Hàn Quốc sẽ giúp Việt Nam xây dựng Trung tâm này, đầu tư về trang thiết bị, cử chuyên gia đào tạo quản lý cán bộ môi trường. Trong năm 2007, hai nước cũng sẽ tổ chức một Hội nghị bàn tròn về sản xuất và tiêu thụ bền vững. Theo Bộ trưởng Bộ Môi trường Hàn Quốc Lee Chi Beom, nước bạn sẽ tác động để các doanh nghiệp tham gia hỗ trợ Hội nghị bàn tròn này. Đồng thời, phía Hàn Quốc cũng giúp Việt Nam quản lý chất thải nguy hại, trong đó chủ yếu là quản lý chất thải điện tử- một trong những loại chất thải được coi là ""nóng"" hiện nay. Đây là cuộc họp lần thứ 5 giữa Bộ trưởng môi trường hai nước Việt Nam-Hàn Quốc (bắt
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2