intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thức ăn gia súc

Chia sẻ: Lang Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

268
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Định nghĩa Theo Pond và CTV (1995) đã đưa ra khái niệm về chất dinh dưỡng như sau: chất dinh dưỡng là một nguyên tố hay một hợp chất hóa học mà có thể giữ được sự sinh trưởng, sinh sản, cho sữa một cách bình thường hoặc duy trì sự sống nói chung. Theo đó, thức ăn được định nghĩa là: một vật liệu có thể ăn được nhằm cung cấp chất dinh dưỡng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thức ăn gia súc

  1. Thức ăn gia súc 1
  2. Chương 1 Hệ thống phân loại thức ăn 1.1. Định nghĩa Theo Pond và CTV (1995) đã đưa ra khái niệm về chất dinh dưỡng như sau: chất dinh dưỡng là một nguyên tố hay một hợp chất hóa học mà có thể giữ được sự sinh trưởng, sinh sản, cho sữa một cách bình thường hoặc duy trì sự sống nói chung. Theo đó, thức ăn được định nghĩa là: một vật liệu có thể ăn được nhằm cung cấp chất dinh dưỡng. Wohlbien (1997) định nghĩa rằng tất cả những gì mà gia súc ăn vào hoặc có thể ăn vào được mà có tác dụng tích cực đối với quá trình trao đổi chất thì gọi là thức ăn gia súc. Một định nghĩa khác cũng được sự chấp nhận của nhiều người đó là “Thức ăn là những sản phẩm của thực vật , động vật, khoáng vật và các chất tổng hợp khác, mà động vật có thể ăn, tiêu hóa, hấp thu để duy trì sự sống, phát triển và tạo ra sản phẩm”. 1.2. Hệ thống phân loại thức ăn Ý nghĩa của việc phân loại thức ăn: Việc phân loại thức ăn giúp cho người chăn nuôi biết chọn và định hướng sử dụng thức ăn thích hợp cho từng đối tượng gia súc để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều phương pháp phân loại thức ăn khác nhau, căn cứ vào nguồn gốc, đặc tính dinh dưỡng, tính chất thức ăn... 1.2.1. Phân loại theo nguồn gốc Căn cứ vào nguồn gốc thức ăn được chia thành các nhóm sau: + Thức ăn có nguồn gốc từ thực vật: Trong nhóm này gồm các thức ăn xanh, thức ăn rễ, cu, quả, thức ăn hạt các sản phẩm phụ của ngành chế biến nông sản: thức ăn xơ, rơm rạ, dây khoai lang, thân lá đậu phộng, thân cây bắp, các loại cám, bánh dầu (do các ngành chế biến dầu) bã bia, rượu, sản phẩm phụ. Nhìn chung, loại thức ăn này là nguồn năng lượng chủ yếu cho người và gia súc, ngoài ra nó còn cung cấp vitamin, protein thô, các loại vi khoáng, kháng sinh, hợp chất sinh học. + Thức ăn có nguồn gốc từ động vật: gồm tất cả các loại sản phẩm chế biến từ nguyên liệu động vật như bột cá, bột tôm, bột thịt, bột nhộng tằm, bột sữa và bột máu. Hầu hết thức ăn 2
  3. động vật có protein chất lượng cao, có đủ các axit amin thiết yếu, các nguyên tố khoáng và một số vitamin A, D, E, K, B12.., tỷ lệ tiêu hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng trong thức ăn động vật cao hay thấp phụ thuộc vào cách chế biến, là thức ăn bổ sung protein quan trọng trong khẩu phần của gia súc gia cầm. + Thức ăn nguồn khoáng chất: Gồm các loại bột sò, đá vôi và các muối khoáng khác nhằm bổ sung các chất khoáng đa và vi lượng. 1.2.2. Phân loại theo giá trị năng lượng Theo phương pháp này, người ta phân thức ăn thành 2 loại: thức ăn tinh và thức ăn thô. Tùy theo một số quốc gia mà người ta sữ dụng đơn vị là đơn vị tinh bột, năng lượmg trao đổi (ME), % protein thô (CP) và % xơ thô (CF). + Theo các nhà khoa học Nhật, được xếp là thức ăn tinh khi giá trị năng lượng của thực liệu tương đương với 45% đơn vị tinh bột hay hơn và là thức ăn thô khi thấp hơn 45%. + Theo các chuyên gia Liên xô khi 1 kg thực liệu chứa ít hơn hay bằng 0,6 đơn vị thức ăn (≤ 1.500 kcal ME) thì được xếp vào nhóm thức ăn thô, ngược lại thuộc về thức ăn tinh. + Theo qui định về thức ăn của Canada thì một thức ăn năng lượng không chứa hơn 16% protein và 18% xơ. 1.2.3. Phân loại thức ăn theo các tính chất lý hóa và cách sử dụng thông thường Ðây là cách phân loại thức ăn gia súc quốc tế do Harris và et al., đề nghị cùng với danh pháp đã được chấp thuận bởi mạng lưới các trung tâm thông tin quốc tế về thức ăn gia súc, ủy ban nghiên cứu (NRC) trực thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Mỹ cũng đề ra cách phân loại dựa theo tiêu chuẩn trên. Các thực liệu được phân nhóm thành 8 hạng loại dựa theo các đặc điểm hóa lý và phương pháp sử dụng chúng trong khẩu phần được phối hợp. Do sự cần thiết, các hạng loại này có tính chất khuyến cáo và trong các trường hợp ngoại lệ một thức ăn sẽ được xếp cho một hạng loại tùy thuộc vào cách sử dụng phổ biến của nó. Tính theo chất khô, các thức ăn chứa hơn 18% xơ thô hoặc 35% vách tế bào thì được xếp vào thức ăn thô (forages hay roughages), những thức ăn chứa dưới 20% protein và dưới 18% xơ thô được xếp loại thức ăn năng lượng và những thức ăn chứa trên 20% protein hay hơn thì xếp loại thức ăn bổ sung protein. ● Các hạng loại thức ăn xếp theo các đặc điểm lý hóa: 3
  4. 1. Thức ăn thô khô và xác vỏ: bao gồm các thức ăn thô khô và xác vỏ được cắt và phơi sấy và các sản vật khác với hơn 18% xơ thô hoặc chứa hơn 35% vách tế bào (tính theo VCK). Chúng có mức năng lượng thuần thấp trên mỗi đơn vị trọng lượng, bởi vì hàm lượng vách tế bào cao. Ví dụ về thức ăn thô: cỏ khô, rơm, thân cây bắp, xác vỏ: vỏ trấu, vỏ quả. 2. Ðồng cỏ, cỏ đồng và thức ăn thô xanh: bao gồm tất cả thức ăn thô trên đồng chưa cắt (kể cả các thức ăn khô trên cây) hoặc được cắt và cho ăn tươi. 3. Thức ăn ủ chua: chỉ bao gồm những thức ăn thô ủ chua (cây bắp, đậu alfalfa, cỏ hòa thảo ...) nhưng không kể cá ướp, hạt, khoai và củ đem ủ. 4. Thức ăn năng lượng: các thực liệu chứa dưới 20% protein và dưới 18% xơ thô (tính theo VCK) như thức ăn hạt, phụ phẩm xay xát, trái, quả hạch, khoai và củ. Cũng vậy khi những thức ăn này được ủ, chúng vẫn được xếp thức ăn năng lượng. 5. Thức ăn bổ sung protein: các thực liệu chứa 20% protein hay hơn (tính theo VCK) có nguồn gốc động vật (kể cả các sản vật được ủ) cũng như các loại tảo, bánh dầu ... 6. Thức ăn bổ sung khoáng 7. Thức ăn bổ sung vitamin (kể cả nấm men được ủ) 8. Các chất phụ gia: các chất bổ sung cho thức ăn như kháng sinh, chất tạo màu, mùi, hormon và các loại thuốc. Cách phân loại thức ăn của NRC Mỹ đề ra cũng tương tự như trên với vài khác biệt nhỏ trong ví dụ minh họa. 1. Thức ăn thô khô và cây thức ăn khô: cỏ khô; cây họ đậu hoặc không phải họ đậu; rơm; cây thức ăn khô; phần thân lá còn lại sau khi thu hoạch sản phẩm chính; các thức ăn khác có hơn 18% xơ (vỏ trấu, vỏ trái) 2. Ðồng cỏ, cỏ đồng và thức ăn thô xanh 3. Thức ăn ủ chua: bắp, cây họ đậu, cỏ hòa thảo 4. Thức ăn năng lượng hay thức ăn cơ bản: hạt ngũ cốc, phụ phẩm xay xát, trái, quả hạch, khoai củ. 5. Thức ăn bổ sung protein: động vật, hải sản, gia cầm, thực vật 6. Thức ăn bổ sung khoáng 7. Thức ăn bổ sung vitamin 8. Các chất phụ gia không có giá trị dinh dưỡng: kháng sinh, chất tạo màu, chất tạo mùi, hormon, thuốc. 4
  5. Cách phân loại thức ăn quốc tế hoặc của NRC rất hữu dụng trong phối hợp khẩu phần trên máy tính và trong trao đổi mua bán quốc tế. 1.2.4. Phân loại thực dụng Trong thực tiễn chăn nuôi ta có thể phân các thực liệu thành các nhóm sau đây: 1. Thức ăn nhiều nước (Succelents): thức ăn xanh, thức ăn ủ chua, khoai củ, quả mọng. 2. Thức ăn thô khô (roughages): cỏ khô, rơm, thân khô. 3. Thức ăn tinh (concentrates): a. Gốc thực vật giàu năng lượng: hạt và phụ phẩm. b. Gốc thực vật giàu đạm: bánh dầu, hạt họ đậu. c. Gốc động vật: sữa và sản phẩm chế biến, bột cá, bột thịt, bột thịt xương. d. Thức ăn hỗn hợp. 4. Thức ăn khoáng: muối ăn, bột vỏ sò, bột xương, các phosphat, muối vi lượng. 5. Các vitamin và premix 6. Các thức ăn khác: mật đường, hèm rượu, bã bia, nấm men. 5
  6. Chương 2 Các loại thức ăn trong chăn nuôi gia súc, gia cầm 2.1. Thức ăn năng lượng Thức ăn năng lượng (energy feeds) thường được dùng trong các khẩu phần nuôi heo và gia cầm từ 60-90% nên còn gọi là thức ăn cơ bản (Basal feeds). Theo phân loại đó là những thức ăn có hàm lượng protein thô dưới 20% và xơ thô dưới 18% (tính theo vật chất khô). Thường dùng nhất là các loại hạt ngũ cốc và các phụ phẩm chế biến chúng. Các loại khoai giàu tinh bột như khoai mì cũng khá quen thuộc. Tùy theo địa phương mà sản phẩm phụ của việc chế biến nông sản cũng được dùng làm nguồn cung cấp năng lượng cho gia súc, gia cầm như mật đường, hèm rượu, bã bia ... 2.1.1. Khoai củ ● Củ (root): Các đặc điểm chính của củ là nhiều nước (75 - 94%) và ít xơ (4 - 13% VCK). Chất hữu cơ chủ yếu của củ là các loại đường (củ cải thức ăn 600-700 g/kg VCK, củ cải đường 650-750) và tỷ lệ tiêu hóa cao (80-87%). Nói chung các loại củ đều nghèo protein mặc dù cũng như các loại hoa màu khác, thành phần này có thể bị ảnh hưởng do việc bón phân N. Hàm lượng protein có thể biến động từ 4 - 8% tính trên VCK. Thành phần và giá trị dinh dưỡng cũng thay đổi theo kích thước củ. ● Khoai (Tuber): Khoai khác củ là có chứa tinh bột hay fructan thay vì sucrose làm nguồn carbohydrate dự trữ. Chúng có hàm lượng chất khô cao hơn và xơ thấp hơn vì vậy thích hợp hơn củ khi dùng làm thức ăn thay thế hạt ngũ cốc cho heo và gia cầm. Hàm lượng cũng như chất lượng của protein, vitamin, khoáng không đáng kể. Cũng như trường hợp củ, thành phần và giá trị dinh dưỡng của các loại khoai cũng biến động theo cở củ. ● Mật đường và nước ép đường: Trong chăn nuôi việc sử dụng mật đường làm nguồn thức ăn năng lượng là khá phổ biến. Ngòai ra ở những vùng sản xuất đường quan trọng, nếu có lãi thì nước ép tươi hoặc cô lại từ mía hoặc củ cải đường cũng được sử dụng trong chăn nuôi. Ðôi khi đây là một giải pháp có lợi nếu giá đường thực phẩm sụt giảm và tiêu thụ không hết. Mật đường có hàm lượng chất khô khoảng 70-75%, đường chiếm khoảng 50%. Mật đường rất nghèo protein, ở mật đường củ cải chỉ có 2 - 4% và phần lớn là các hợp chất nitơ phi protein trong đó chứa amin, betain, chất này có khả năng tạo mùi cá khó chịu trong sữa. 6
  7. 2.1.2. Bắp Trước đây, bắp chỉ được trồng nhiều ở Nam Mỹ, nhưng hiện nay đa được trồng rộng rãi tại các nước nhiệt đới và bán nhiệt đới làm thức ăn cho cả người và gia súc. Đây là loại cây trồng đòi hỏi khí hậu ấm để chín hạt và không chịu được khí hậu đông giá. Bắp ngày càng chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Sử dụng bắp làm thức ăn gia súc đòi hỏi chi phí giá thành cao, vì vậy xu thế chung là thay thế bắp bằng các loại nguyên liệu hay các phế phụ phẩm sẳn có của địa phương để góp phần làm giảm chi phí thức ăn. Bắp gồm 3 loại: bắp vàng, bắp trắng và bắp đỏ. Bắp vàng chứa sắc tố crytoxanthin là tiền chất của vitamin A. Sắc tố này có liên quan tới màu sắc của mỡ, thịt khi vỗ béo gia súc và màu của lòng đỏ trứng gia cầm tăng cường thị hiếu của người tiêu thụ. Bắp đỏ, vàng có giá trị caroten cao hơn bắp trắng, còn giá trị dinh dưỡng tương tự nhau. Tuy nhiên, hiện nay tại Anh việc sử dụng bắp vàng và đỏ không được ưa chuộng trong khẩu phần vỗ béo gia súc vì lý do làm mỡ có màu vàng, vì vậy đối tượng gia súc này thường sử dụng chủ yếu là bắp trắng. Bắp chứa nhiều vitamin E nhưng ít vitamin D và vitamin nhóm B. Bắp chứa ít canxi, nhiều photpho nhưng chủ yếu dưới dạng kém hấp thu là phytate. Giống như các loại thức ăn hạt cốc khác, bắp là loại thức ăn có tỷ lệ tiêu hóa năng lượng cao, giá trị protein thấp và thiếu cân đối axit amin. Bắp chứa 730 g tinh bột/kg vật chất khô. Protein thô từ 8 - 13% (tính theo vật chất khô). Lipit của bắp từ 3 - 6%, chủ yếu là các axit béo chưa no, nhưng là nguồn phong phú axit linoleic. Protein của bắp tồn tại dưới 2 dạng chính: zein và glutelin. Zein nằm trong nội nhũ chiếm tỷ lệ cao nhưng thiếu các axit amin thiết yếu như tryptophan và lysine. Glutelin chiếm tỷ lệ thấp hơn zein, nó cũng nằm trong nội nhủ. Gần đây người ta tạo được một số giống bắp giàu axit amin hơn so với các giống bắp bình thường, song vẫn nghèo methionine. Vì vậy, khi dùng bắp Oparque-2 cho heo và gia cầm, cần bổ sung thêm methionine. Một giống bắp mới nữa là Floury-2 có hàm lượng lysine và cả methionine cao hơn bắp Oparque-2. Dùng loại bắp này không phải bổ sung thêm methionine. Bắp là loại thức ăn chủ yếu dùng cho gia súc và gia cầm và là loại thức ăn rất giàu năng lượng, 1 kg bắp hạt có 3200 - 3300 kcal ME (bảng 2.1). Người ta dùng bắp để sản xuất bột và glucoz cho người. Nhiều sản phẩm của bắp rất thích hợp cho động vật, trong đó quan trọng là mầm bắp, cám và gluten. Khi 3 loại này hỗn hợp lại tạo thành sản phẩm có tên là bột gluten - bắp, chứa xấp xỉ 24% protein thô, 3 - 5% xơ thô. Hỗn hợp này thích hợp cho tất cả các loại gia súc và gia cầm, đặc biệt là bò sữa, tuy vậy cũng vẫn cần bổ sung thêm axit amin công nghiệp. Bắp còn có tính 7
  8. chất ngon miệng với heo. Lysine và tryptophan là hai loại axit amin hạn chế của bắp khi dùng nuôi heo. Khi dùng bắp làm thức ăn chính cho heo thường gây hiện tượng mỡ nhão ở heo. Độ ẩm của bắp có thể biến đổi từ 10-25%. Muốn bảo quản tốt độ ẩm tối đa cho phép 15%. Bắp thường được xem là loại thức ăn năng lượng để so sánh với các loại thức ăn khác. Bảng 2.1. Tỷ lệ tiêu hóa của bắp và một số phụ phẩm của bắp (%) Vật nuôi Protein Xơ Béo TLTH ME (Mcal/kg) Bắp hạt Cừu 76,0 57,0 91,0 94,0 3,47 Bột hạt và lõi Cừu 74,0 69,1 78,4 90,3 3,23 Lõi Bò 55,0 76,0 53,0 79,0 2,74 Bột hominy Cừu 66,0 34,0 81,0 81,0 2,81 Bột gluten Cừu 80,0 55,0 73,0 73,0 2,62 Bắp hạt Heo 69,9 40,7 55,7 92,9 3,64 2.1.3. Lúa hạt Lúa là loại hạt cốc chủ yếu của vùng Đông Nam Á. Cây lúa rất thích hợp với khí hậu ẩm và bán nhiệt đới và cũng được trồng một ít ở Bắc Âu. Hạt lúa có 2 phần: vỏ trấu bên ngoài, lớp vỏ mỏng bên trong (cám) bao quanh hạt gạo. Lúa được dùng chủ yếu cho loài nhai lại và ngựa, gạo, cám dùng cho người, heo và gia cầm. Vỏ trấu chiếm 20% khối lượng của hạt lúa, nó rất giàu silic và thành phần chủ yếu là cellulose. Cám gạo chứa khoảng 11 - 13% protein thô và 10 - 15% lipit. Trong chăn nuôi có khi người ta dùng cả lúa nguyên hạt (cả vỏ trấu) nghiền mịn dùng làm thức ăn cho gia súc. Tuy nhiên, những mảnh vỏ trấu trong thức ăn nghiền có cạnh sắc gây thương tổn niêm mạc đường tiêu hóa của gia súc, ảnh hưởng tới tỷ lệ tiêu hoá. 2.1.4. Tấm Tấm gạo cũng là một phụ phẩm từ lúa có giá trị dinh dưỡng gần tương đương với bắp nhưng không có sắc tố nên không được ưa chuộng sử dụng trong thức ăn cho gà. Tấm có thể sử dụng trong thức ăn của heo nhỏ vì dễ tiêu hóa, tuy nhiên do giá thành đắt nên ít được sử dụng nhiều trong thức ăn chăn nuôi. Hàm lượng protein 70 – 90 g/kg (Nguyễn Xuân Trạch và ctv, 2006). Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của tấm tương đương với gạo, giàu năng lượng, (3.340 kcal ME/kg), ít xơ (0,9%). Hàm lượng protein trong tấm trung bình khoảng 6,73 – 12,49%. Có vài loại tấm có hàm lượng protein thấp (dưới 9%) được sản xuất từ những giống lúa cũ như 113, nàng hương, nàng thơm, 108, … Cũng có một vài loại tấm có hàm lượng protein cao (trên 10%) là được sản xuất từ các giống lúa Ruri, Ozo, Mashuzi, … Các thành phần khác như béo, xơ, khoáng, 8
  9. canxi, photpho, … không bị thay đổi nhiều theo giống. Tấm thường ít nhiễm độc tố aflatoxin nên có thể sử dụng tỷ lệ cao khi trộn với các thức ăn khác trong khẩu phần (Lã Văn Kính, 2003). 2.1.5. Cám gạo Cám gạo là sản phẩm phụ của lúa khi xay xát. Lượng cám thu được bình quân là 10% khối lượng lúa. Cám gạo bao gồm một số thành phần chính như vỏ cám, hạt phôi gạo, trấu và một ít tấm. Chất lượng của cám thay đổi tùy thuộc vào hàm lượng trấu trong cám. Nhiều trấu sẽ làm tăng hàm lượng chất xơ thô và silic, giảm nồng độ năng lượng của thức ăn, giảm tỷ lệ tiêu hóa. Tùy theo lượng trấu còn ít hay nhiều mà cám được phân thành loại I hay loại II. Cám là nguồn B1 phong phú, ngoài ra còn có cả vitamin B6 và biotin, 1kg cám gạo có khoảng 22 mg vitamin B1, 13 mg vitamin B6 và 0,43 mg biotin. Cám gạo là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng, chứa 11 - 13% protein thô, 10 - 15% lipit thô, 8 - 9% chất xơ thô, khoáng tổng số là 9 - 10%. Dầu cám chủ yếu là các axit béo không no, các axit này dễ dàng làm cho cám bị ôi, giảm chất lượng của cám và cám trở nên đắng, khét. Do vậy, nếu ép hết dầu thì cám gạo bảo quản được lâu hơn. Cũng có thể bảo quản cám bằng các biện pháp hấp, trộn với muối, xông khói... Cám gạo là một nguồn phụ phẩm rất tốt cho vật nuôi và dùng cám có thể thay thế một phần thức ăn tinh trong khẩu phần loài nhai lại và heo. Tuy nhiên, hạn chế của cám đó là các chất đường không phải tinh bột, đó là những đường đa do những đường đơn tạo nên thông qua các liên kết β -1,4; β -1,6-glycosit ... Nên gia súc dạ dày đơn không thể tiêu hóa được. Hàm lượng axit béo tự do của cám từ gạo đã luộc qua là dưới 3%, nhưng ngay sau khi nghiền có thể tăng nhanh với tỷ lệ 1%/giờ. Quá trình gây ôi của dầu trong cám có thể được hạn chế bằng phương pháp xử lý nhiệt hay phơi khô ngay sau khi xay nghiền gạo. Xử lý nhiệt ở nhiệt độ 1000C trong vòng 4-5 phút bằng hơi nước nóng là đủ để làm chậm lại quá quá trình sản sinh acid béo tự do. Cám có thể được làm khô bởi nhiệt bằng cách trải rộng trên 50 cái khay chứa và sử lý ở nhiệt độ 2000C trong vòng 10 phút. Độ ẩm trong cám tốt nhất nên ở 4% trong khi bảo quản sẽ làm vô hiệu hóa các chất kháng dinh dưỡng. Cám gạo còn là nguồn vitamin B phong phú và là loại thức ăn khá hấp dẫn cho gia súc gia cầm. Dầu cám là nguyên nhân gây mỡ mềm, ngoài việc lưu ý dầu cám ra, cám là nguồn thức ăn cho tất cả các đối tượng gia súc. Lượng cám tối đa có thể dùng trong khẩu phần trâu bò tối đa là 40%, của heo không quá 30-40%, tuy nhiên giai đoạn cuối vỗ béo cần giảm tỷ lệ cám trong khẩu phần để tránh hiện tượng mỡ mềm, gia cầm chỉ nên dùng 25% của khẩu phần. Cám 9
  10. không được khử dầu được sử dụng như là chất mang, chất kết dính trong hỗn hợp thức ăn. Cám gạo thường có pha lẩn vỏ trấu vì vậy thành phần xơ có thể tăng lên 10-15%. Những điểm cần chú ý khi sử dụng cám - Có thể sử dụng với mức cao trong khẩu phần: từ 30 - 70%, nhưng phải phối hợp thêm các loại thức ăn giàu đạm. - Cần có biện pháp chế biến thích hợp như ủ men, ủ chua, lên men nhẹ, đường hóa, nấu chín... để nâng cao tỷ lệ tiêu hóa. - Khi dùng hỗn hợp hạt ngũ cốc cần bổ sung thêm Ca. Đối với gia súc dạ dày đơn, không nên cho ăn quá nhiều và cần bổ sung thêm P vô cơ. 2.1.6. Khoai mì (cassava) Củ khoai mì thường được dùng để sản xuất tinh bột chất lượng cao, dù vậy củ vẫn được sử dụng cho bò, heo và gia cầm ăn dưới dạng thô hoặc tươi. Thường dùng nhất là ở dạng xắt lát hoặc khúc phơi khô, khi dùng đem nghiền thành bột. Ðây là một thực liệu khá phổ biến trong thức ăn hỗn hợp, kể cả những nước ôn đới phải nhập khẩu. Bột khoai thương mại có độ ẩm 12,5 - 13,5%; protein 1,8 - 3%; béo 0,3 - 0,4%; xơ 1,5 - 4,2%; chiết chất không đạm 76 - 81,5% trong đó tinh bột đến 68%; ít khoáng chất 1,3 - 3,3% trong đó Ca 0,07 - 0,09 và P 0,05 - 0,09%. Các dưỡng chất của khoai mì dễ tiêu hóa. Hàm lượng ME biến động từ 13,5 - 18,05 MJ/kg, tương đương với 1-1,4 ÐVTA. Protein khoai mì chứa 3,5% lysin; 1% methionin; 0,6% cystin; 0,6% trytophan. Trong 1 kg có 550 UI vitamin; 1,6 mg thiamin; 0,8 mg riboflavin; rất nghèo các acid béo thiết yếu. Khoai mì chứa 2 glucosid có gốc - C = N là linamarin và lotaustralin, chúng dễ bị phân hủy phóng thích ra các acid cyanhydric gây ngộ độc cho gia súc. Ở vật non, trao đổi chất khoáng bị vi phạm và giảm năng suất. Những phương pháp xử lý có thể là hấp, bào nạo và vắt, hoặc xay nghiền thành bột và sau đó đem ép. Khoai mì được dùng chủ yếu nuôi gia súc lớn có sừng. Trong khẩu phần có thể dùng không quá 10% để nuôi gia cầm, không quá 40% nuôi heo và 40-70% tính theo giá trị năng lượng của khẩu phần để nuôi vỗ trâu bò. Việc cân đối các dưỡng chất cần phải được chú ý. 2.1.7. Khoai lang (Sweet potato) Củ khoai lang dễ tiêu hóa và là một thực liệu cung cấp năng lượng rất tốt. Củ tươi rất phù hợp khẩu vị của bò. Thức ăn tinh dặm thêm của bò sữa có thể gồm 50% khoai lang xắt lát khô, 25% bắp, 25% mật đường và urê. Củ tươi có thể thay thế 30-50% tỷ lệ thức ăn hạt trong các khẩu phần của heo. Nấu làm gia tăng giá trị sử dụng của khoai lang. Do phải dùng khoai tươi 10
  11. với lượng lớn nên sử dụng cho heo trưởng thành tốt hơn. Khoai lang có giá trị thức ăn tương đương 90% so với bắp khi chúng chiếm đến 60% khẩu phần. Chăn thả giới hạn heo nái trên ruộng khoai rất tiện lợi. Kèm theo chăn thả người ta cho nái ăn thêm 0,5 kg thức ăn bổ sung protein hàm lượng cao, nhưng chú ý heo nái dễ bị mập mỡ. Quày thịt của heo ăn khoai lang săn chắc. Bột khoai lang có thể đưa vào khẩu phần gia cầm đến 50%, nếu có bổ sung protein thích hợp cho kết quả tốt. 2.2. Thức ăn bổ sung protein Thức ăn bổ sung protein (protein supplements) là những thực liệu hoặc hỗn hợp thực liệu chứa từ 20% protein thô trở lên (tính theo VCK). Trong chăn nuôi thường dùng nhất là các loại bánh dầu, bột cá, bột thịt xương, bột sữa gạn kem, nấm men, tảo….. Thức ăn bổ sung protein có nguồn gốc thực vật chiếm tỷ lệ lớn nhất, giá thành tính theo % CP nói chung là rẽ nhất. Vì vậy chúng chiếm một tỷ lệ quan trọng trong khẩu phần của các loài gia súc, gia cầm trung bình khoảng 10 – 20%. Hàm lượng protein thô trong các loại bánh dầu biến động từ 20 – 50%, còn trong các loại hạt họ đậu biến động từ 20 – 30%, cá biệt trong đậu nành trên dưới 40%. Tuy vậy bánh dầu đậu nành lại được ưa chuộng hơn do hàm lượng béo trong hạt khá cao (16 - 21%). Nếu lấy giá trị sinh học làm tiêu chuẩn so sánh phẩm chất của protein thì protein của bánh dầu cao đáng kể so với hạt ngũ cốc. Một số loại bánh dầu gần đạt so với protein động vật, như bột cá hoặc bột thịt loại thường. Một vài loại bánh dầu có phẩm chất kém xa các protein động vật cao cấp như sữa hoặc trứng. Các chỉ tiêu đánh giá khác như chỉ số hiệu năng protein và giá trị protein thô cho thấy phẩm chất tốt của protein bánh dầu, nhưng điểm số hóa học lại thấp. Thức ăn bổ sung protein có nguồn gốc từ động vật: Ngoài sữa nguyên dùng nuôi vật non trong giai đoạn sơ sinh các loại thức ăn protein động vật dùng phổ biến nhất là bột sữa gạn kem, bột cá, bột thịt xương, bột huyết... Ðặc điểm chung của nhóm thức ăn này là đắt tiền, mức sản xuất còn thấp xa so với nhu cầu thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như ở nước ta. Về mặt giá trị dinh dưỡng thì chúng có hàm lượng acid amin không thể thay thế được như: lysin, methionin, trytophan và threonin tương đối cao, hàm lượng CP cao nhưng biến động tùy loại và phẩm hạng, có thể thay đổi từ 35% (bột sữa gạn kem) đến 80% (bột huyết). Do giá thành đắt nhưng chất lượng cao, thức ăn động vật thường dùng trong khẩu phần khoảng 5 - 15% nhằm giải quyết 2 vấn đề (1) nâng cao hàm lượng CP cho đạt yêu 11
  12. cầu tiêu chuẩn ăn, và (2) cân đối thành phần acid amin của khẩu phần. Riêng trong tình hình của ta hiện nay thức ăn protein động vật sản xuất trong nước hoặc nhấp khẩu đều đắt tiền và số lượng còn quá ít không đáp ứng nhu cầu, do đó nên ưu tiên dành loại thức ăn có chất lượng cao này cho gia súc, gia cầm non có nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao, hoặc để sản xuất các sản phẩm cao giá (thịt gà, trứng gà công nghiệp). Một điều cần lưu ý nữa là trong thức ăn protein động vật có chứa một yếu tố kích thích tăng trưởng ở vật non gọi là yếu tố protein động vật (APF), do vậy chúng không thể thiếu trong khẩu phần của vật non, kể cả bê nghé. Các thức ăn động vật tự nhiên như hào hến, côn trùng, sâu bọ, giun đất cũng là nguồn thức ăn quan trọng trong chăn nuôi gia đình, và kể cả chăn nuôi tập trung như vịt đàn thời vụ, nuôi giun đất. Thức ăn bổ sung protein có nguồn gốc từ vi sinh vật: Tính theo VCK thì hàm lượng protein thô chứa trong các nguồn vi sinh vật được nuôi cấy rất cao. Ví dụ: ở tảo Spirulina, Chlorella hoặc protein đơn bào từ vi khuẩn hàm lượng này có thể đạt từ 60-70%. Thành phần acid amin của chúng khá cân đối (tốt hơn so với thực vật), giàu các vitamin (đặc biệt là vitamin nhóm B) và khoáng chất. Ở các nước công nghiệp, công nghệ vi sinh phát triển trên các phế phẩm giàu carbohydrate từ chế biến gỗ, hạt, củ ...và trên carbur hydro của công nghiệp hóa dầu, nên giá thành rẽ, do đó chúng được sử dụng với tỷ lệ khá cao trong khẩu phần, tạo điều kiện giảm thấp tỷ lệ thức ăn protein động vật xuống nhằm hạ giá thành thức ăn. Ở nước ta công nghệ sinh học còn non trẻ, nên sản phẩm làm ra chưa dùng đại trà làm thức ăn gia súc do giá thành cao, đôi khi đắt hơn cả thức ăn động vật. 2.2.1. Thức ăn bổ sung protein có nguồn gốc từ thực vật ► Đậu nành Đậu nành là một trong những loại hạt họ đậu được sử dụng phổ biến đối với vật nuôi. Trong đậu nành có khoảng 50% protein thô, trong đó chứa đầy đủ các axit amin thiết yếu như cystine, lysine, nhưng methionine là axit amin hạn chế thứ nhất, và 16 - 21% lipit. Trong đậu nành có nhiều loại kháng dinh dưỡng, gồm các chất ức chế enzyme protease, lectin, phytoestrogen (estrogen thực vật), saponin, goitrogen (chất gây bướu cổ). Chất ức chế protease còn gọi là anti-trypsin vì ức chế hoạt động của enzyme trypsin và chymotrypsin của tuyến tụy. Khi có mặt của các chất anti-trypsin thì hoạt động của trypsin và chymotrypsin bị ức chế làm bội triển tuyến tụy để tăng cường sản xuất ra các enzyme nhiều hơn vì vậy gây mất các protein và axit amin cần thiết cho sự sinh trưởng của cơ thể. Sự có mặt của 12
  13. chất này đã làm giảm giá trị sinh học của protein đậu nành, giảm khả năng tiêu hóa của peptit, nhưng chất này có thể bị phá hủy bởi nhiệt độ. Các anti-trypsin chỉ bị mất hoạt tính khi sử lý nhiệt ở 105 0 C trong vòng 30 phút. Cần lưu ý khi xử lý nhiệt, nếu xử lý quá mức sẽ gây phản ứng đường hóa các axit amin gọi là phản ứng Maillard làm mất giá trị dinh dưỡng của thức ăn. Trong đậu nành còn tồn tại một số chất kích thích, chất ức chế như các chất gây dị ứng, chất gây bướu cổ, chất chống đông. Đậu nành giàu Ca, P hơn so với hạt cốc, nhưng nghèo vitamin nhóm B nên khi sử dụng cần bổ sung thêm vitamin nhóm B, bột thịt, bột cá. Trong thực tiễn nuôi dưỡng, nếu chỉ cho con vật ăn protein đậu nành mà không bổ sung thêm các nguyên liệu trên heo nái đẻ con ra sẽ yếu, sinh trưởng chậm (do con mẹ bị giảm sản lượng sữa), heo mẹ động dục không đều đặn, mắc bệnh liệt chân. Đối với gà mái đẻ giảm tỷ lệ ấp nở, gà con nở ra yếu. Ngoài ra, còn một số loại hạt bộ đậu khác cũng rất giàu protein như hạt cải dầu, hạt hướng dương chứa 38% protein thô, hạt vừng chứa 46% protein thô, rất giàu arginine và leucine (lysine và methionine thấp). ► Bánh dầu đậu nành. Bánh dầu đậu nành là phụ phẩm của quá trình ché biến dầu từ hạt đậu nành. Hàm lượng dầu còn lại khoảng 10g/kg. Bánh dầu đậu nành là một nguồn protein thực vật có giá trị dinh dưỡng tốt nhất trong các loại bánh dầu. Thành phần axit amin gần giống với protein sữa và dùng để thay thế một phần protein động vật trong khẩu phần vật nuôi. Trong bánh dầu đậu nành chỉ tồn tại một lượng nhỏ khoáng và nhiều vitamin, trừ vitamin B12. Cũng giống như bột đậu nành, bá nhdầ u đậu nành có hàm lượng protein cao, chiếm khoảng 42 – 45 % theo vật chất khô. Protein của bánh dầu đậu nành cũng chứa hầu hết các axit amin thiết yếu, nhưng nghèo axit amin chứa lưu huỳnh như cystine và methionine. Methionine là yếu tố hạn chế thứ nhất ở các khẩu phần có giá trị năng lượng cao. Giá trị dinh dưỡng và các yếu tố hạn chế trong bánh dầu đậu nành gần giống với hạt đậu nành. Do xử lý bởi nhiệt trong qúa trình chiết dầu nên bánh dầu đậu nành khá an toàn khi sử dụng nuôi heo và gia cầm. Bánh dầu đậu nành là nguồn thức ăn rất tốt cho tất cả các loại vật nuôi. Tuy nhiên, bánh dầu đậu nành chiết bằng trichloroethylene rất độc đối với một số vật nuôi, vì vậy không nên sử dụng. ► Bánh dầu đậu phộng Trong bánh dầu đậu phộng có 35 - 38% protein thô, axit amin không cân đối, thiếu lysine, 13
  14. cystine, methionine. Axit amin hạn chế thứ nhất của bánh dầu đậu phộng là lysine. Ngoài ra trong bánh dầu đậu phộng không có vitamin B12, do vậy khi dùng protein bánh dầu đậu phộng đối với heo và gia cầm cần bổ sung các loại thức ăn giàu vitamin B 12. Mặt khác đối với heo chỉ nên sử dụng mức tối đa là 25% tính theo khối lượng khẩu phần, nếu nhiều hơn sẽ làm cho thịt, mỡ mềm nhão. Với các bánh dầu ép thủ công lượng chất béo còn lại khá cao (8- 10%) nên dễ gây ôi tạo mùi khó chịu và dễ bị mốc. Tuy nhiên, nếu bánh dầu mới ép được sử dụng ngay không bị mốc thì đây là nguồn đạm khá rẻ tiền, có mùi thơm nên gia súc thích ăn. Năm 1961, người ta đã phát hiện thấy trong bánh dầu đậu phộng có chứa độc tố gây độc rất mạnh với vịt, gà và gà tây. Độc tố đó là aflatoxin B1, B2, G1, G2 do nấm Aspergillus flavus tạo ra. Do khuẩn lạc có màu vàng nên dễ phát hiện khi bánh dầu bị nhiễm loại nấm này. Ngoài ra, có 4 loại aflatoxin khác được phân lập từ các vi khuẩn A. flavus và A. parasiticus có tên là M1, M2, B2a, G2a nhưng gây độc không mạnh so với các loại trên và thường chiếm tỷ lệ thấp trong thức ăn. Độc tố aflatoxin B1 là loại hoạt động mạnh nhất, cơ quan tác động chủ yếu là gan (thường gây ra ung thư gan và hoại tử gan). Thực tiễn cho thấy khi khẩu phần của bê chứa 0,2 mg aflatoxin/1kg khối lượng thức ăn sẽ làm bê giảm sinh trưởng. Đối với bò sữa khi cho ăn 15 - 20% bánh dầu đậu phộng bị nhiễm độc aflatoxin/1kg khối lượng khẩu phần thì bò sữa ngừng tiết sữa và có thể chết. Đối với gia cầm khi bị nhiễm độc aflatoxin giảm sức đề kháng, giảm sinh trưởng, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn. Độc tố nấm mốc phát triển mạnh trong điều kiện độ ẩm thức ăn trên 15 - 20%, nhiệt độ 20 - 30oC. Do vậy, cần chú ý bảo quản bánh dầu ở nơi thoáng mát, khô ráo, tránh độ ẩm cao, đây là biện pháp tích cực hữu hiệu nhất. Mặt khác, cần phát hiện thường xuyên độc tố nấm mốc aflatoxin và xử lý kịp thời bằng nhiều phương pháp: - Phương pháp sinh học: thử nghiệm trên vịt con hoặc gà tây con (hai loài này rất mẫn cảm với độc tố aflatoxin), vịt con hoặc gà tây con ăn bánh dầu bị nhiễm độc tố chỉ sau 1 - 2 ngày có triệu chứng kém ăn, ủ rủ, mổ thấy gan sưng to. Hoặc tiêm cho phôi gà, sau 5 ngày phôi chết. - Phương pháp cơ học: Theo Mann và cộng sự (1970), có thể dùng formaldehyt 2% xử lý ở nhiệt độ 100oC, thời gian 120 phút sẽ làm giảm hoạt tính của aflatoxin. Theo Jorgensen và Price (1981) có thể dùng NH3 nồng độ 2% cho vào một túi nylon kín, xử lý nhiệt ở 43oC, có 14
  15. thể làm giảm hàm lượng aflatoxin B1, B2 từ 800 g/kg thức ăn xuống dưới mức 200 g/kg thức ăn. Cũng có thể xử lý ở áp suất cao để khử aflatoxin. Ngoài ra, người ta còn có thể dùng phương pháp ELISA, sắc ký lớp mỏng, sắc ký khí để phát hiện độc tố aflatoxin và các độc tố khác. Hai phương pháp sau chính xác nhưng phức tạp và quá tốn kém nên ít được sử dụng rộng rãi. ► Bánh dầu bông vải Bánh dầu bông vải là sản phẩm phụ của quá trình ép dầu từ hạt bông vải. Hạt bông vải chưa ép dầu có chứa khoảng 23% protein thô, 23% béo và 17% xơ thô. Bánh dầu bông vải có chứa 40% protein thô, 12% xơ thô. So với bánh dầu đậu nành, bánh dầu bông vải giàu protein nhưng tỷ lệ axit amin không cân đối, các axit amin thiết yếu như cystin, methionin và lyzin thấp. Nhưng đây là loại thức ăn by-pass protein với gia súc nhai lại và nguồn protein rẻ tiền. Hàm lượng Ca cũng thấp, tỷ lệ Ca/P mất cân đối (thường là 1/6). Bánh dầu bông vải giàu vitamin B1 nhưng nghèo caroten. Trong bánh dầu bông vải có chứa sắc tố màu vàng có tên là gossypol khoảng 0,03 - 0,2%, đó là một aldehyt thơm có tính chống oxy hóa, ức chế enzyme polymerase. Bánh dầu bông vải không thích hợp với gia súc dạ dầy đơn do khó tiêu hóa và sự có mặt của độc tố gossypol. Đối với gia cầm, gossypol vào cơ thể sẽ kết hợp với sắt trong lòng đỏ trứng để tạo thành hợp chất có mầu xanh ô liu, đồng thời làm giảm tăng trưởng, giảm khả năng tiếp nhận thức ăn. Nếu sử dụng kéo dài trong khẩu phần sẽ gây tổn thương tim, gan phổi... Vì vậy, không nên dùng quá 9% loại thức ăn này trong khẩu phần heo và gia cầm. Với mức gossypol chỉ 0,016% là đã có thể gây độc cho gà con. Nhưng chất độc gossypol sẽ bị phá hủy ở nhiệt độ cao, nên trước khi sử dụng bánh dầu bông cho gia súc, người ta phải tìm cách khử độc tố bằng cách hấp bánh dầu bông ở áp suất cao (phương pháp này khử được hoàn toàn độc tố nhưng mất protein) hoặc cũng có thể trộn bánh dầu bông vải với FeSO4 (phương pháp này đơn giản, ít tốn kém và không bị mất mát protein). Riêng đối với loài nhai lại ít bị ảnh hưởng của độc tố này. Bảng 2.2. Giá trị dinh dưỡng và tỷ lệ tiêu hoá của bánh dầu bông DM CP EE NEF CF Ash ME,(MJ/kg) Cả vỏ 880 231 (77)* 55 (94) 400 (54) 248 (20) 66 8,5 Không vỏ 900 457 (86) 89 (94) 293 (67) 87 (28) 74 12,3 * Số trong ngoặc đơn là tỷ lệ tiêu hoá (%) 15
  16. ► Bánh dầu dừa Hàm lượng dầu trong bánh dầu dừa thường biến động từ 25-65 g/kg, bánh dầu có nhiều béo hữu dụng trong việc phối hợp các khẩu phần cao năng lượng. Khô hoặc bả dầu dừa dùng trong nuôi dưỡng động vật không để tồn trữ lâu và bị ôi vì nó gây ra tiêu chảy. Dầu của dừa mau ôi không phải do bị oxid hóa (vì chứa ít acid béo chưa no) mà do hiện tượng thủy phân xảy ra khi bị hút ẩm (cho ra các acid béo mạch ngắn tan trong nước và có mùi vị rất khó chịu), hoặc do tác dụng của nấm mốc (phát triển khi có đủ ẩm độ) tạo nên các ceton có mùi đặc trưng của dầu dừa ôi. Bánh dầu dừa rất dễ bị hút ẩm khi nghiền do đó cần lưu ý trong tồn trữ. Nên tập ăn với số lượng tăng dần gia súc sẽ đáp ứng tốt hơn. Bò sữa ăn bánh dầu dừa sẽ gia tăng tỷ lệ sữa, cho bơ cứng và có mùi thơm hấp dẫn. Lượng sử dụng an toàn hàng ngày ở bò sữa từ 1,5-2 kg, những lượng cao hơn có thể tạo ra bơ đặc (như mỡ). Bò thịt có thể tiêu thụ nhiều hơn mà không làm giảm chất lượng quày thịt. Do bánh dầu dừa nhiều xơ nên tỷ lệ sử dụng trong khẩu phần nuôi heo, gà bị giới hạn. Tùy thuộc vào công thức khẩu phần có thể sử dụng bánh dầu dừa đến 25% ở heo. Ở những vùng sản xuất nhiều cơm dừa người ta có thể sử dụng đến 50%, dĩ nhiên với hiệu quả sử dụng thức ăn kém hơn. Bánh dầu dừa làm cho heo có mỡ cứng rắn hơn. Thí nghiệm của V.Siriwathananukul và P.F.Alcantara tại viện chăn nuôi thuộc viện Ðại Học Philippin (1986) trên heo thịt cho thấy khẩu phần có 40% bánh dầu dừa với sự bổ sung 4 axit amin thiết yếu: lysin, methionin, threonin và trytophan có thể thay thế 57% bánh dầu đậu nành ở heo lứa và đến 100% ở giai đoạn nuôi vổ kết thúc. Bánh dầu dừa ít dùng trong các khẩu phần gia cầm do đó khó khăn trong việc cân đối để đảm bảo nhu cầu acid amin, năng lượng cao nhưng đồng thời ít xơ. Lysin được đặc biệt chú ý vì hình như acid này bị phá hủy trong quá trình ép trục vít. Histidin cũng kém trong b á n h d ầu dừa. Tuy nhiên đã có những khẩu phần chứa đến 40% bánh dầu dừa được thử nghiệm. Với sự bổ sung cân đối lysin, methionin, tryptophan và threonin, cộng thêm sử dụng 5% dầu dừa, L.J Querubin và những nhà nghiên cứu cũng ở viện ÐH Philippin đã thành công trong việc sử dụng đến 30% bánh dầu dừa để nuôi gà thịt từ 11 - 28 ngày tuổi với 20% CP và từ 29 - 46 ngày với 16% CP (Amin. Hush. and Agric. J., Jun 1989: 28, 30, 31, 38, 39, 40, 44). Bánh dầu dừa bị nhiễm mốc không được sử dụng nuôi gia cầm. ► Sữa và các phụ phẩm chế biến 16
  17. Sữa là thức ăn thiên nhiên của gia súc non trong những tuần đầu tiên của cuộc sống, trong sữa có khoảng 200 chất hữu dụng rất dễ hấp thu. Protein và đường sữa được tiêu hóa đến 98%, mỡ sữa 95%. Thành phần hóa học của sữa thay đổi tùy thuộc vào thời kỳ của sự tiết sữa, loài, giống gia súc và đặc điểm dinh dưỡng trong các mùa trong năm. Thành phần của sữa bò thay đổi thường xuyên trong suốt thời kỳ cho sữa. Hàm lượng chất khô cao nhất vào đầu và cuối kỳ (13,6 - 13,8%) và thấp nhất vào tháng thứ 3 (12,4 - 12,5%). Tỷ lệ mỡ sữa tương quan nghịch chặt chẽ với lượng sữa vắt, do đó vào cuối kỳ khi sản lượng sữa giảm xuống thì hàm lượng mỡ sữa thường rất cao. Giữa hàm lượng mỡ sữa và năng lượng liên hệ tuyến tính: 1 kg sữa 3% béo tương đương 0,31 ÐVTA (775 kcal), với 4% là 0,36 và 5% là 0,42 ÐVTA. Sữa bò là thức ăn đạm hoàn chỉnh cho động vật non. Trong dinh dưỡng động vật người ta thường sử dụng các phụ phẩm chế biến sữa như sữa gạn kem (thường ở dạng bột trong TAHH), nhũ thanh, cặn sữa sau khi lấy hết bơ (butter milk). Bảng 2.3. Thành phần dinh dưỡng (%) của các thức ăn từ sữa (theo Bakanov và Menkin, 1989) Sản phẩm VCK Protein Béo Đường Tro Sữa nguyên 12,5 3,3 3,8 4,7 0,7 Sữa gạn kem (tươi) 8,8 3,3 0,05 4,7 0,7 Cặn sữa (ngọt) 9,2 3,2 0,6 4,7 0,7 Cặn sữa (chua) 9,0 3,3 0,3 4,4 0,7 Nhũ thanh (lấy phó mát) 6,2 0,8 0,2 4,7 0,5 Giá trị năng lượng của sữa tươi gạn kem và cặn sữa kém 2 lần, của nhũ thanh kém 3 lần so với sữa nguyên. Sữa đầu tiết ra trong những ngày đầu tiên ngoài việc cung cấp các kháng thể từ cơ thể mẹ cho con, rất giàu dinh dưỡng trong đó có các vitamin A, caroten và vitamin B. Chất lượng giảm theo thời gian sau khi đẻ, khoảng 6 - 7 ngày trở lại chất lượng sữa trở lại bình thường. ► Bột cá (fish meal) Ðể chế biến bột cá người ta sử dụng các loại cá không làm thực phẩm hoặc các phế phẩm của ngành chế biến cá hộp: đầu, nội tạng, vẩy. Tùy thuộc vào chất lượng của nguyên liệu trung bình 1 kg cá bột chứa từ 0,9 - 1,5 ÐVTA, 480 - 630 g protein tiêu hóa, 20 - 80 g Ca và 15 - 60 g P. Ðể giảm chi phí sấy, từ nguyên liệu người ta ép chiết sơ bộ được một lượng đáng kể 17
  18. nước cốt, sau đó vớt lấy mỡ cá và sau khi cô lại thu được nước canh cá TAGS, một nguồn quí các acid amin thiết yếu và vitamin nhóm B. Cũng có thể sấy thẳng nguyên liệu không qua khâu ép. Sấy hơi nước cho bột cá có giá trị cao hơn sấy lửa và nhiệt độ sấy cũng ảnh hưởng đến chất lượng, thể hiện qua hàm lượng lysin hữu dụng. Theo tiêu chuẩn của Liên xô, bột cá có ẩm độ không vượt quá 12%, protein không dưới 48% (loại tốt đến 70%), béo không quá 10%, phosphat calci 28 - 30%, muối không quá 5%, trong 1 kg không có quá 0,1 kg vụn kim loại. Ðề phòng hư hỏng do mỡ bị ôi người ta thêm chất chống oxy hóa và chứa trong bao giấy nhiều lớp. Bột cá là một loại concentrate đạm – khoáng - vitamin có giá trị cao. Mức tiêu hóa chất hữu cơ của nó ở heo đạt 85 - 90%. Thành phần acid amin của bột cá rất gần với protein của trứng, trong 1 kg chứa 51 g lysin, 15 g methionin và 5,7 g trytophan. Cá tươi chứa hầu hết các vitamin cần thiết cho động vật. Khi chế biến một số các vitamin do kém bền vững ở nhiệt độ cao bị phá hủy. Bột cá chứa nhiều vitamin nhóm B và nếu chế biến từ cá nguyên thì còn có vitamin D. Bột cá là nguyên liệu không thể thiếu được trong TAHH của heo và gia cầm, đặc biệt là vật non. Tỷ lệ sử dụng ở vật non từ 10 - 12%, còn ở vật trưởng thành hơn 5%. Trong một số trường hợp đã có sử dụng đến 20% khẩu phần. Người ta còn dùng bột cá trong thức ăn tinh nuôi bê con, vì ngoài giá trị dinh dưỡng cao nó còn chứa nhiều APF. Ở bò sữa cao sản người ta có thể dùng 1,5 - 2 kg bột cá ngoại hạng/con/ngày, nó có tác dụng điều hòa các trao đổi khoáng và đạm ở bò trong thời kỳ chuẩn bị cho sữa. Nếu dùng với số lượng hạn chế thì chất lượng sữa vẫn tốt, không có mùi tanh cá. Do hoạt động của các nhà máy chế biến bột cá ở nước ta còn ít nên trên thực tế lượng cá khô nghiền sử dụng trong chăn nuôi là chủ yếu. Dùng cá khô nghiền có mấy vấn đề cần lưu ý, đó là tỷ lệ nhiễm vi sinh cao (E. coli, Salmonella) và lượng muối khá cao, và trong một số trường hợp do thành phần nguyên liệu mà đôi khi hàm lượng protein thấp dưới 30%. ► Bột thịt (Feeding meat meal) và bột thịt xương (Meat and bone meal) Nguyên liệu dùng để chế biến ở các nhà máy liên hợp giết mổ và chế biến thịt là động vật bị chết trước khi giết mổ, các thân thịt không dùng làm thực phẩm được nhưng không có những mầm bệnh truyền nhiễm bị chỉ định, cấm, xương, các cơ quan nội tạng, bào thai và những phần thịt vụn. Cách chế biến là nghiền, hấp, sấy (có hay không có khử mỡ). Trung bình 1 kg bột thịt xương chứa 0,92 ÐVTA, 350 g protein tiêu hóa, còn trong bột thịt là 1,2 ÐVTA và 18
  19. 420 – 650 g protein tiêu hóa. Tùy thuộc vào tỷ lệ xương trong nguyên liệu đem chế biến có bột thịt (dưới 10% xương) và bột thịt xương, nếu tỷ lệ cao hơn. Màu của bột thịt tùy thuộc vào cách chế biến, thông thường có màu nâu hơi xám. Bột thịt là một nguồn lysin tốt nhưng hơi nghèo methionin và trytophan. Nó chứa đủ riboflavin, cholin, micoinamid và vitamin B12. Trong TAHH của gà đẻ, heo sau cai sữa và đực giống có thể dùng đến 15%, còn đối với nái, heo nuôi vỗ và gà thịt tỷ lệ đến 10%. ► Bột huyết (Feeding dried blood meal) và bột tép mỡ. Bột huyết được chế biến từ máu tươi và nước rửa có lẫn vụn xương (không quá 5%). Bột huyết tốt có màu nâu sẫm không đóng cục, độ mịn dưới 1 mm. Trong 1 kg bột huyết chứa 0,92 - 0,98 ÐVTA, đến 650 g protein tiêu hóa nhưng giá trị sinh học không cao lắm bởi kém methionin, isoleusin và glycin. Không nên dùng quá 10% trong khẩu phần heo, gà vì có thể gây ra tình trạng tháo dạ (đi lỏng). Thường dùng là bột tép mỡ heo. 1 kg bột chứa 0,9 ÐVTA và đến 520 g protein tiêu hóa, nghèo trytophan. Vì chứa nhiều mỡ (19%) do đó nên sử dụng ngay sau khi chế biến. ► Bột lông vũ (feather meal). Nguyên liệu để chế biến là các phụ phẩm của công nghiệp chế biến thịt gia cầm. Lông cánh và lông đuôi được xử lý bằng acid trong các thiết bị đặc biệt (autoclauve) dưới áp suất và nhiệt độ cao. Các protein không tiêu hóa của lông bị thủy giải và phóng thích các acid amin cấu tử hữu dụng cho vật nuôi. Trong 1 kg bột loại I (12% nước) chứa ít nhất 700 g protein, 30 g béo và đến 120 g tro tương đương với 0,8 ÐVTA và 500 g protein tiêu hóa, rất nghèo lysin, methionin và trytophan nhưng giàu Cystin và một số acid amin khác. Bột lông vũ được bổ sung trong khẩu phần của gia cầm và cũng được sử dụng trong TAHH của heo và gia súc nhai lại. 2.3. Thức ăn thô xanh và phụ phẩm nông nghiệp Thức ăn thô xanh ở nước ta rất đa dạng và phong phú, bao gồm thân lá của một số cây, cỏ trồng hoặc mọc tự nhiên trên cạn hoặc dưới nước và là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng cho gia súc ở nước ta, nhất là các nông hộ. Loại thức ăn này chứa hầu hết các chất dinh dưỡng mà vật nuôi cần như protein, các vitamin, khoáng đa lượng và vi lượng thiết yếu và các chất có hoạt tính sinh học cao... 19
  20. Thức ăn xanh là loại thức ăn mà người và gia súc đều sử dụng ở trạng thái tươi, chiếm tỷ lệ cao trong khẩu phần của loài nhai lại. Thức ăn xanh có thể chia thành 2 nhóm chính gồm: cây cỏ tự nhiên và gieo trồng. Nhóm cây hòa thảo như cỏ ở bãi chăn, cỏ trồng, thân lá cây ngô... Nhóm cây họ đậu như cỏ stylô, cây điền thanh, cây keo dậu... Các loại thức ăn xanh khác như rau lấp, bèo cái, bèo Nhật Bản, thân chuối, rau muống.... Thức ăn xanh chứa nhiều nước, nhiều chất xơ, tỷ lệ nước trung bình 80 - 90%, tỷ lệ xơ thô trung bình ở giai đoạn non là 2 - 3%, trưởng thành 6 - 8% so với thức ăn tươi. Thức ăn xanh chứa nhiều nước và nhiều xơ nên vật nuôi cần lượng lớn mới thỏa mãn nhu cầu nhưng do hạn chế dung tích đường tiêu hóa nên con vật không ăn được nhiều. Thức ăn xanh dễ tiêu hóa, có tính ngon miệng cao, tỷ lệ tiêu hóa đối với loài nhai lại là 75 - 80%, đối với heo 60 - 70%, là loại thức ăn dễ trồng và cho năng suất cao. Ví dụ: 1 ha rau muống cho 50 - 70 tấn, 1 ha bèo dâu cho 350 tấn, 1 ha cỏ voi cho 150 – 300 tấn chất xanh... Thức ăn xanh giàu vitamin: nhiều nhất là caroten, vitamin B đặc biệt là vitamin B2, và vitamin E có hàm lượng thấp. Cỏ mục túc khô có 0,15mg B1 và 0,45mg B2/100g; cỏ tươi có 0,25mg B1 và 0,4mg B2/100g vật chất khô. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong thức ăn xanh rất thấp và vì vậy giá trị dinh dưỡng thấp, trừ một số loại thân lá cây bộ đậu có hàm lượng protein khá cao, một số loại cỏ giàu axit amin như arginine, axit glutamic và lysine. Nếu tính theo trạng thái khô một số loại thức ăn xanh có hàm lượng protein cao hơn cả cám gạo. * Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của thức ăn xanh Giống cây trồng: sự khác nhau về giá trị dinh dưỡng giữa các giống và nhóm cây thức ăn xanh được thể hiện rõ. Nhóm cây trên cạn có hàm lượng vật chất khô (10 - 30%) lớn hơn nhóm cây thuỷ sinh (1 - 10%), trong khi đó họ hoà thảo (2 - 10% protein thô so với vật chất khô) có hàm lượng protein thô thấp hơn bộ đậu (10 - 30%). * Những điểm cần chú ý khi sử dụng Cần thu hoạch đúng thời vụ để đảm bảo giá trị dinh dưỡng cao. Nếu thu hoạch sớm ít xơ, nhiều nước, hàm lượng vật chất khô thấp. Ngược lại nếu thu hoạch quá muộn hàm lượng nước giảm, vật chất khô tăng nhưng chủ yếu tăng chất xơ, còn lipit và protein giảm. Thời gian thích hợp để thu hoạch các loại rau xanh nói chung là sau khi trồng 1 - 1,5 tháng, thân lá cây ngô trước khi trổ cờ, thân lá họ đậu: thời gian ngậm nụ trước khi ra hoa. Rau muống, rau lấp sau khi trồng 20 - 25 ngày thu hoạch lứa 1, sau 15 ngày thu hoạch lứa tiếp theo. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2