intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện nay" nêu lên một góc nhìn về thực trạng dạy và học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện nay

  1. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN NGỮ VĂN TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền* 1 Tóm tắt: Thực chất trong giáo dục là quan điểm quan trọng ở thời điểm này vì đó là giải pháp hữu hiệu cho đổi mới giáo dục tại Việt Nam. Trong các nhà trường phổ thông, dạy thật, học thật, thi thật phải được bắt đầu từ từng cá nhân, từng môn học. Bài viết này nêu lên một góc nhìn về thực trạng dạy và học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Từ khóa: Ngữ văn, trường phổ thông, học thật, thi thật. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ “Học thật, thi thật, nhân tài thật” là thông điệp Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi tới ngành Giáo dục ngay từ những ngày đầu đứng ở cương vị Thủ tướng Chính phủ. Thông điệp này đem lại sự kỳ vọng lớn cho giáo giới về sự thay đổi tích cực nền giáo dục nước nhà. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cũng chia sẻ với báo chí trong nước về định hướng của ngành Giáo dục, tất cả “gói” trong một chữ “THẬT”. Tất nhiên, trong đời sống giáo dục Việt Nam, giá trị thực có tồn tại nhưng không phải trạng thái phổ biến. Việc nhìn nhận chính xác điểm yếu tồn tại trong giáo dục và xác định đường hướng cụ thể: “Giáo dục cần thực chất” – thực sự là quan điểm đáng trân trọng vì tính minh triết, logic thực tế. Song, thay đổi sự chuyển động của guồng máy lớn mà vẫn giữ được trọng tâm - chất lượng không phải câu chuyện một sớm một chiều. Cần có sự hợp lực của nhiều nhân tố và sự đổi thay cần được bắt đầu từ những điều nhỏ nhất, bắt đầu từ tư duy giáo dục của cả xã hội, trong đó, giáo viên là những người tiên phong nhìn nhận vấn đề. Trong bài viết này, với tư cách một giáo viên Văn, tôi bày tỏ sự quan tâm của cá nhân tới vấn đề thực chất trong việc dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông, với mong muốn góp một tiếng nói của người lao động trong ngành Giáo dục trước định hướng lớn của sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. *
  2. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 383 2. NỘI DUNG 2.1. Hiểu đúng về “học thật, thi thật” Từ “thực” cần hiểu theo hai nghĩa: thiết thực và thật. Vậy, “thực học” yêu cầu một nền giáo dục thiết thực, hữu dụng, giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn chặt với đời sống; đặc biệt, sản phẩm sau cùng của quá trình đào tạo phải phản ánh đúng thực lực của người học. Trong phần chia sẻ quan điểm với báo chí, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho rằng: “học thật, hay thực học, xét về phương diện nội dung, là nền giáo dục dạy người ta tri thức, kỹ năng, phẩm chất, đạo đức, tạo ra năng lực thực (...) tránh việc học những cái ra đời không dùng vào việc gì, còn cái cần cho việc thì không được học”[3]. “Thi thật” là từ khóa thứ 2 trong thông điệp song thực tế, đây vừa là logic của quá trình xác nhận “nhân tài thực”, vừa là thao tác kĩ thuật để đánh giá giá trị thực sự của người học. Nó bao gồm nhiều cách thức kiểm tra và xác tín năng lực có ở người học, tuy nhiên lâu nay, chúng ta chỉ đánh giá người học qua hình thức thi cử và kết luận về năng lực người học qua điểm số, nên đã quen với cách đồng nhất khái niệm “thi” với “kiểm tra, đánh giá”... Vậy, nên hiểu “thi thật” là cách thức tiến hành kiểm tra, đánh giá tôn trọng tiêu chí khoa học, gắn liền với quá trình “học thật” nhằm đem lại kết quả phản ánh chính xác năng lực của người học. Phải “học thật, thi thật” mới mong nhận diện, lựa chọn đúng “nhân tài” – yếu tố hạt nhân của sự phát triển. Có thể nói, ngành giáo dục và đào tạo của chúng ta cũng giống như một sinh thể. Đâu đó còn có dấu hiệu của bệnh tật nhưng vẫn cố gồng mình để thể hiện mình rất ổn. Thực tế, tư duy và định hướng đổi mới của lãnh đạo ngành thể hiện trí tuệ mẫn tiệp nhưng sự yếu kém ở một vài bộ phận dẫn tới tình trạng lực bất tòng tâm. Sự yếu kém ấy, hầu như ai cũng hiểu nó nằm ở một số căn bệnh đã trở thành mãn tính, chẳng hạn bệnh thành tích. Do đó, định hướng “học thật, thi thật” ở thời điểm này là “đơn thuốc khó uống” nhưng hữu dụng nhất để khắc phạt những điểm hạn chế của ngành. 2.2. Một góc nhìn về việc dạy môn Ngữ văn trong trường phổ thông Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn nêu rõ hai mục tiêu lớn: hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học. Các phẩm chất được hình thành bao gồm: lòng yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính (khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế). Các năng lực được chú trọng phát triển bao gồm: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực
  3. 384 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Mục tiêu môn học gắn liền với tinh thần đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học. Nếu thực hiện đúng và đủ các mục tiêu đó, hiển nhiên môn Ngữ văn trong trường phổ thông thực sự hữu dụng, thiết thực, phản ánh đúng giá trị người học. Nhưng đội ngũ giáo viên dạy môn Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông khó khăn trong việc đạt được các mục tiêu đó vì một số vấn đề sau: Trước hết, các giáo viên phải dạy đúng và đủ nội dung chương trình quy định (áp dụng đúng phân phối chương trình năm học), không phải dạy nội dung học sinh muốn học. Rõ ràng, nội dung môn học trong sách giáo khoa Ngữ văn các khối lớp đã và đang bộc lộ một số hạn chế bất cập từ đặc điểm tâm lý người học tới thông tri đời sống, từ nhu cầu của học sinh tới những yêu cầu của xã hội. Học sinh cần - muốn và phải nhận được những gì từ môn Ngữ văn? Về kiến thức, đó là những thông tin khoa học thuộc về văn học và ngôn ngữ; về tư tưởng – phẩm chất, đó là những bài học đạo lý tốt đẹp gắn liền với thực tế cuộc sống; về thái độ, đó là những suy nghĩ hướng tới hành động tích cực trong đời sống thường nhật; về kĩ năng – năng lực, đó là sự thuần thục trong diễn đạt bằng ngôn ngữ (nói, viết). Nhưng cách chọn lựa ngữ liệu, kết cấu nội dung chương trình môn Ngữ văn trong trường phổ thông hầu như chỉ chú trọng kiến thức; mục tiêu về tư tưởng – phẩm chất, thái độ, kĩ năng – năng lực chỉ được liệt kê trong Kế hoạch bài dạy (giáo án) một cách hình thức. Nên trong ký ức về môn Văn khi còn là học sinh, chúng ta thường nhớ tới các tác phẩm văn học mà không có ấn tượng rõ rệt về việc chỉ dẫn cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong nói và viết sao cho có hiệu ứng tốt nhất, lại càng khó khăn để trả lời câu hỏi: Rốt cuộc các tác phẩm đã học có ích thế nào cho chúng ta giữa đời thường? Không phủ nhận rằng trong đội ngũ đông đảo các giáo viên dạy Văn, có những thầy, cô giáo nỗ lực dạy học theo chủ đề, luôn ý thức và cẩn trọng “lồng” vào bài dạy những thông tin đời sống, những điều ngoài văn bản mà học sinh muốn biết. Điều này nằm trong tầm tay những giáo viên có năng lực chuyên môn tốt vì những tác phẩm văn học được lựa chọn vào nhà trường đều có chất lượng nghệ thuật và đều xuất phát từ hiện thực (những thời đoạn lịch sử khác nhau), người dạy có thể dẫn dắt học sinh liên hệ, liên tưởng tốt. Nhưng về cơ bản, giáo viên vẫn phải đảm bảo chuyển tải kiến thức
  4. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 385 như chương trình do Bộ quy định, truyền đạt đủ các mục như sách giáo viên hướng dẫn trong một tiết học kéo dài 45 phút. Các giờ học Văn còn nặng kiến thức kinh viện, thiếu hẳn sức sống linh hoạt của cuộc đời, gây cho học sinh cảm giác mệt mỏi, thậm chí ghét bỏ, sợ hãi môn học. Nhưng vì sự vênh lệch giữa mục tiêu môn học và yêu cầu trong mỗi giờ học mà người dạy buộc phải nói những điều (đôi khi) mình không muốn nói và giảng giải những điều học sinh không muốn - không cần - không thích tiếp nhận, từ đó có thành kiến văn chương thiếu thực tiễn. Bên cạnh đó là sự thiếu nhất quán khi nhìn nhận và thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy giữa các bên liên quan: quản lý – giáo viên – phụ huynh, học sinh. Các nhà quản lý giáo dục và giáo viên giảng dạy thường “ngại” hay bị căn bệnh an toàn cố hữu chi phối nên tránh hoặc thực hiện hình thức, đôi khi là đối phó sự thay đổi phương pháp, kĩ thuật dạy học. Bản chất của dạy học theo dự án thực sự tích cực và phù hợp với môn Văn – một môn học đòi hỏi người học tự khám phá, chiếm lĩnh, thức dậy năng lực ngôn ngữ, cảm thụ, sáng tạo ở cá nhân học sinh và quan trọng là hình thành ở người học các kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, thuyết phục, tranh luận... Để thực hiện, giáo viên cần đủ năng lực, thiết kế hiệu quả các hoạt động như tổ chức cho học sinh đi thực tế; khơi gợi các vấn đề để học sinh thảo luận, thuyết trình; hướng dẫn học sinh làm sản phẩm (video clip, poster, sách ảnh…). Lãnh đạo nhà trường, phụ trách chuyên môn, giáo viên giảng dạy phải giải quyết nhiều vấn đề: năng lực của giáo viên, thái độ - hứng thú của học sinh, sự đồng thuận hỗ trợ của phụ huynh, thời gian so với phân phối chương trình, cơ sở vật chất, kinh phí của nhà trường v.v... Chừng đó những khúc mắc đủ để lãnh đạo từ nhà trường tới tổ chuyên môn, cá nhân giáo viên cảm thấy chùn bước. Vậy là mọi ý tưởng tích cực cho sự thay đổi cách dạy giờ học văn truyền thống đều dừng lại ở ý tưởng, các phía liên quan đành hài lòng với một năm học kết thúc trong an toàn, đúng và đủ chương trình, nhiệm vụ được giao. Có chăng, sự sáng tạo và tinh thần, dấu hiệu đổi mới chỉ được tỏa sáng trong các tiết hội giảng, các giờ dạy dự giờ thường xuyên ở phổ thông. Bên cạnh đó, một số giáo viên hiểu đơn giản rằng tổ chức hoạt động nhóm trong giờ học văn chính là đổi mới phương pháp rồi, họ lạm dụng hình thức tới mức giờ học nào cũng tổ chức học sinh đại diện nhóm thuyết trình; kết thúc tiết học hôm nay sẽ giao nhiệm vụ các nhóm về chuẩn bị bài thuyết trình cho tiết học tiếp theo... chỉ một vài học sinh thuyết trình nhớ được nội dung mình nói, học sinh không có kĩ năng ghi chép vắn tắt nội dung bài học, sự thiếu chặt chẽ trong khâu kiểm soát thời gian thuyết trình của học sinh khiến giờ học văn luôn kết thúc khi các nhóm chưa trình bày hết nội dung chuẩn bị, giáo viên chưa kịp kết luận, nhận xét, đánh giá học sinh. Trong trường hợp này, câu hỏi “việc dạy có thực chất” không cấp thiết bằng “giáo viên có thực lực không?”.
  5. 386 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Một thầy giáo từng dạy môn Văn trung học phổ thông bày tỏ suy nghĩ về Truyện Kiều (Nguyễn Du) trong nhà trường. Anh khẳng định bây giờ đa số học sinh không còn thích Truyện Kiều nữa, nếu không muốn nói là thấy nhàm chán, nhạt nhẽo… Nếu hỏi 100 học sinh, khó có nổi một em trả lời rằng “thích”. Vì sao thế? “Vì văn học nhà trường đã trở nên hoàn toàn xa lạ với cuộc sống, nó chỉ còn là chuyện bình tán miên man, học thuộc và để thi”. Vậy chỉ còn hai cách để giải quyết thực tế này: thay đổi SGK hoặc thay đổi tư duy người dạy. Việc thay SGK đã và đang diễn ra nhưng cần mất ít nhất 3 năm nữa mới hoàn tất việc này. Trong lúc chờ đợi bộ SGK Ngữ văn mới, thầy giáo nói trên đề xuất: “Tôi sẽ bày cho bạn cách làm cho học trò yêu thích Truyện Kiều. Hãy lấy chất liệu cuộc sống ở thời đại chúng ta để minh họa, để liên hệ, để đánh thức, để khơi dậy (…) Hãy lấy chính cuộc sống của các em học sinh, cuộc sống của cha mẹ các em, của gia đình các em, xóm giềng các em mà giúp chúng nhìn lại”. Vì trong tác phẩm kinh điển đó, mọi chuyện đâu có xa lạ với xã hội chúng ta đang sống? Không đưa tác phẩm văn học về với đời sống, chúng ta không dạy được những điều người học thực sự cần. Về phía phụ huynh, học sinh, trước áp lực đánh giá qua các bài kiểm tra trên lớp, các kỳ thi chuyển cấp, mục tiêu của họ khá thực dụng. Cảm thụ, sáng tạo là nhu cầu thuộc về số ít học sinh có năng lực văn chương thực sự. Số đông còn lại chỉ chú trọng: hãy dạy em cách làm bài thi môn Ngữ văn đạt điểm cao. Phụ huynh quan niệm: Thầy cô giỏi là thầy cô có thể dạy con họ có dàn điểm tốt và ngược lại. Giúp phụ huynh và học sinh nhận thức môn Văn trong nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các kỹ năng mềm, hình thành những con người tử tế đúng nghĩa xem ra là rất khó ở thời điểm này. Không thể trách họ bởi thực tế chương trình giảng dạy, người dạy, cách đánh giá thiếu tính thực tiễn mới là nguồn cơn. Cái nhìn của phụ huynh và học sinh về môn học chỉ là hệ quả của một nếp nghĩ, nếp dạy, nếp thi cử truyền thống. 2.3. “Dũng cảm” – từ khóa để dạy thật, học thật môn Ngữ văn trong trường phổ thông khả thi Bất cứ giải pháp nào cho ngành giáo dục tại thời điểm hiện tại cũng phải xuất phát từ việc căn cứ vào hiệu lực từ kỷ cương, chế tài của ngành. Tất cả những ai tham gia sự nghiệp giáo dục và đào tạo đều hiểu và cần hiểu rõ hiệu lực đó. Tuy nhiên, ở bài viết này tôi muốn nhấn mạnh vấn đề ý thức, thái độ của mỗi cá nhân khi thực hiện mục tiêu “dạy thật, học thật”. Ngoài việc chúng ta tin tưởng vào đường lối, quyết tâm thực hiện thay đổi thì “dũng cảm” là thái độ, tinh thần rất cần thiết. Trong Từ điển tiếng Việt, “dũng cảm” là có dũng khí, bản lĩnh, dám đối mặt với mọi khó khăn, nguy hiểm để làm những việc nên làm. Người dũng cảm là người có bản lĩnh, ý chí, nghị lực, dám nghĩ, dám làm, dám đấu tranh với cái ác để bảo vệ cái thiện... Với nghĩa đó, từ “dũng cảm” thường gắn với những người đối diện với tình huống nhiều thử thách khốc liệt.
  6. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 387 Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện mục tiêu “học thật, thi thật” cũng cần tinh thần dũng cảm. Các nhà quản lý giáo dục cần dũng cảm để bước qua những dấu mốc thành tích; dám vượt qua trở ngại của thói quen để thực hiện sự đổi mới, khuyến khích đội ngũ giáo viên Ngữ văn sáng tạo và thử nghiệm những cách dạy mới; quyết liệt xóa bỏ những định kiến nhằm đổi mới chương trình dạy môn Ngữ văn theo hướng đưa môn học trở về gần đời sống, nói như Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn thì “để có được sự chuyển đổi lớn theo hướng thực chất trong giáo dục, theo như chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ Giáo dục và Đào tạo có rất rất nhiều việc phải làm. Trước hết, Bộ sẽ phải xem xét điều chỉnh rà soát lại nội dung dạy và học, dạy cái thiết thực, cái thực nghiệp, giảm và tiến tới bỏ hẳn cái hình thức, phù phiếm, vô bổ”, cần “thay đổi phương pháp để sao cho người học tiếp thu tốt nhất, thích học, biết học để làm gì, học ngành nghề phù hợp với năng lực sở trường của mình” [3]; dũng cảm bảo vệ những thầy cô có tinh thần đổi mới; dũng cảm tiên phong trong việc tạo cơ chế, hành lang pháp lý cho sự thay đổi sâu rộng trong các nhà trường, trong ngành, trong xã hội để “học thật, thi thật và có nhân tài thật”. Thực tế, trong quá khứ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân mới là người đầu tiên đề ra chính sách cải cách nền giáo dục Việt Nam với tiêu chí: “chống bệnh thành tích trong học tập và tiêu cực trong thi cử”, “xây dựng một phương pháp học sáng tạo, thực chất, học là phải dùng được”. Song các mục tiêu tích cực trên chưa hoàn toàn đạt được vì những nhà quản lý giáo dục dường như chưa đủ dũng cảm hay chưa đủ mạnh để chữa trị “căn bệnh an toàn” và “bệnh thành tích”. Giáo viên môn Ngữ văn trong các trường phổ thông cần dũng cảm để từ chối đường mòn nhồi nhét kiến thức; nếu có những ý tưởng sáng tạo và những liên tưởng phong phú về đời sống từ mỗi bài học thì hãy dũng cảm gạt bỏ những ràng buộc cố hữu để thử nghiệm, không ngại sự khác biệt mà hãy sợ học sinh chán nản rời bỏ môn học; cần dũng cảm để đối mặt với căn bệnh thành tích, cần dũng cảm để lên tiếng chỉ ra những mảng tối của giáo dục nói chung, phần thiếu trung thực của môn học nói riêng trong các kỳ thi; nếu bài thi của học sinh quá kém, cũng cần dũng cảm để không vì áp lực từ nhiều phía mà nhắm mắt chấm điểm cho qua; ngược lại, nếu có những học sinh thể hiện năng lực vượt trội, hãy dũng cảm phá bỏ định kiến giới hạn điểm môn Văn trong nhà trường phổ thông để đánh giá thỏa đáng... Các bậc phụ huynh cũng cần dũng cảm để đối diện với thực lực của con mình mà không tìm mọi cách, mọi giá “mua” về gia đình mình một niềm vui giả dối; dũng cảm vượt thoát khỏi sự ám ảnh của danh dự để không rơi vào sự dằn vặt khi so sánh “con nhà mình”, “con nhà người ta” hay cố gắng đẩy con vào vị trí mà con không mong muốn chỉ vì sĩ diện bản thân – chiến thắng được cái “tôi” này trong mỗi bậc làm cha, mẹ thực không hề dễ nên rất cần sự dũng cảm. Theo đó, học sinh cũng cần dũng cảm cất lên tiếng nói của riêng mình để giáo viên có thể biết các em thực sự cần gì, mong muốn điều gì
  7. 388 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ở mỗi bài học, dũng cảm vượt qua áp lực của điểm số để tìm thấy sự tự do và niềm vui, những điều hữu ích trong môn học bởi “văn học là nhân học”. Và để làm được điều đó, các em cần nhận thức rõ việc học là cho mình, học vì sự tiến bộ của bản thân chứ không phải học vì điểm, học vì sự ganh đua hay học để đối phó với các bài kiểm tra, học để thi vượt cấp... Có thể nói, giáo dục chịu ảnh hưởng rất lớn từ ngoài xã hội. Nếu xã hội vẫn còn sử dụng người dựa vào bằng cấp mà không dựa vào năng lực thật, vẫn tồn tại quan niệm phải đạt điểm cao mới là học giỏi thì người học lại càng cần có một nhận thức đúng về giá trị bản thân, đôi lúc, sự chấp nhận giá trị thực cũng cần dũng cảm. Tôi hoàn toàn đồng tình với chia sẻ của thầy giáo Nguyễn Minh Quý (Hiệu trưởng Trường THPT Trần Nguyên Hãn, Hải Phòng) khi ông cho rằng: “Theo tôi, muốn “tam thật” thành hiện thực thì phải có sự “đồng lòng, đồng sức, đồng lực” của cả xã hội. Trước hết phải dũng cảm nhìn thẳng vào những tồn tại yếu kém của cả ngành, phải cắt bỏ khối u ác tính “thành tích” đã tồn tại quá lâu trong cả xã hội” [5]. Một hoạt động cụ thể, khả thi có khả năng hạn chế căn bệnh ngay lúc này, đó là nhanh chóng thay đổi suy nghĩ về cách đánh giá người học. Đánh giá thế nào mới chính xác? Chúng ta đều biết rằng, trong giáo dục, học sinh không chỉ học trong nhà trường mà còn học ngoài xã hội, thu nhận kiến thức qua nhiều kênh thông tin khác nhau và bộc lộ năng lực, giá trị bản thân theo nhiều cách khác nhau. Nếu chỉ đánh giá người học dựa vào con số là kết quả học tập trong nhà trường sẽ không thể bao quát hết kết quả giáo dục mà học sinh đã thâu nhận được. Trong khi chờ đợi sự thay đổi của nhiều yếu tố, bản thân mỗi giáo viên sẽ tích cực thay đổi nhận thức để đi đúng những bước đầu tiên của lộ trình theo hướng “học thật, thi thật, nhân tài thật”. 3. THAY CHO LỜI KẾT Những hạn chế của giáo dục Việt Nam là câu chuyện dài “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Điều này hoàn toàn có thể cắt nghĩa khi hình dung đất nước trong bối cảnh ngày mới giống như một công trình bề bộn, có quá nhiều việc cần phải làm. Điều quan trọng, những nhà lãnh đạo đất nước đã nhận thấy giáo dục và đào tạo là phần việc quan trọng được ưu tiên. Trong sự nghiệp đó, người đứng đầu ngành lại xây dựng định hướng xác đáng cho lộ trình đổi mới. Nhưng chúng ta đều nhận thức rõ muốn tạo ra những thế hệ học trò có động lực phấn đấu thực sự trong học tập để làm người tử tế, thành đạt, cần có sự đồng lòng vào cuộc từ nhiều phía, nhiều cá nhân. “Học thật thi thật trước hết và luôn luôn là việc của ngành giáo dục, nhưng cũng là của toàn xã hội. Nếu tất cả mọi người cùng đồng lòng vì nền giáo dục thực chất, vì cuộc sống chất lượng và sự phát triển của đất nước, thì một trong những việc đầu tiên cả xã hội chung tay hành động là tất cả cùng vì thực học!” [3]. TÀI LIỆU THAM KHẢO
  8. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 389 1 Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/ TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2 18/5/2021, “Tôi sợ những bài văn mẫu”, https://tuoitre.vn/dien-dan-hoc-that-thi-that-nhan- tai-that-toi-so-nhung-bai-van-mau-20210518101011979.htm. 3 19/5/2021, “Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nói về “Học thật, Thi thật, Nhân tài thật””, https:// vietnamnet.vn/vn/giao-duc/nguoi-thay/bo-truong-bo-gd-dt-nguyen-kim-son-hanh-dong-vi- mot-nen-giao-duc-thuc-chat-738273.html. 4 20/5/2021, Nguyễn Viết Đăng Du, “Học thật, thi thật là yêu cầu cấp thiết”, https:// tuoitre.vn/dien-dan-hoc-that-thi-that-nhan-tai-that-hoc-that-thi-that-la-yeu-cau-cap- thiet-2021052008584724.htm. 5 14/6/2021, “Nhân tố nào quyết định “học thật, thi thật, có nhân tài thật””?, https://etep.moet. gov.vn/tintuc/chitiet?Id=1630.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2