intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng nhà ở dân gian nông thôn khu vực Nam Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: ViJakarta2711 ViJakarta2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

73
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Để chủ trương này phát huy hiệu quả, trong quá trình thực hiện cần có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, từ đó đề xuất các giải pháp quy hoạch, bảo tồn, phát triển phù hợp với thực tế địa phương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng nhà ở dân gian nông thôn khu vực Nam Trung Bộ trong giai đoạn hiện nay

  1. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 73 THỰC TRẠNG NHÀ Ở DÂN GIAN NÔNG THÔN KHU VỰC NAM TRUNG BỘ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ThS. Ngô Đức Quý Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Để chủ trương này phát huy hiệu quả, trong quá trình thực hiện cần có những nghiên cứu, đánh giá đầy đủ, từ đó đề xuất các giải pháp quy hoạch, bảo tồn, phát triển phù hợp với thực tế địa phương. Trước hết, là việc tìm hiểu quá trình phát triển của kiến trúc dân gian nông thôn địa phương. Từ khóa: Nhà ở dân gian. Với lịch sử hình thành và phát triển tàng Tổng hợp Phú Yên). Với số lượng của vùng đất Nam Trung Bộ, kiến trúc còn lại đấy, có thể thấy kiến trúc nhà ở nhà ở dân gian nông thôn ở đây cũng có dân gian trước 1945 mang tính thống sự biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử nhất cao về bố cục tổng thể, tổ chức của vùng đất này. Sự biến đổi đó như không gian, các kiểu thức kết cấu và một dòng chảy liên tục ẩn chứa bên trang trí. trong nhiều ý nghĩa về mặt xã hội, kinh Nhà ở xưa được xây cất đan xen với tế, tự nhiên, môi trường,…Tuy vậy, những lũy tre làng hay dưới tán cây xanh. trong dòng chảy đó nổi lên những khúc Nhìn tổng thể, kiến trúc những ngôi nhà quanh rõ nét, thể hiện rõ đặc trưng của ở nông thôn xưa rất giống nhau, là những các giai đoạn biến đổi. Qua phân tích và ngôi nhà một tầng thô sơ, nền làm cao tham khảo các tài liệu liên quan, có thể hơn mặt đất, vật liệu chủ yếu là tre, nứa, phân chia quá trình phát triển kiến trúc rơm rạ. Tuy nhiên, sự phân biệt giàu nhà ở dân gian nông thôn Nam Trung nghèo ở đấy thể hiện khá rõ trong diện Bộ theo ba giai đoạn sau: tích khu đất làm nhà ở, cách tổ chức tổng 1.1. Giai đoạn trƣớc 1945 mặt bằng, vật liệu dựng nhà và lợp mái, Nhà ở dân gian nông thôn Nam cách thức trang trí các chi tiết,…Những Trung Bộ giai đoạn này còn lại đến ngày ngôi nhà còn lại đến ngày nay chủ yếu là nay không nhiều. Theo kết quả điều tra nhà giàu ngày xưa như nhà cai tổng, của cục Di sản Việt Nam với trường Đại hương kiểm, địa chủ,…. học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh Nhà của người giàu thường nằm và Bảo tàng Tổng hợp Bình Định đợt I, trong khuôn viên được bao bọc bởi hàng và của các kiến trúc sư Trường Đại Học rào, cổng ngõ kiên cố, diện tích từ 1000 - Nữ Chiêu Hòa đợt II thì số lượng nhà dân 3000m2. Bên trong có đầy đủ nhà chính, gian nông thôn trên 100 năm tuổi tập nhà phụ, nhà cầu, sân phơi, giếng nước, trung chủ yếu ở các địa phương như vườn cây, các công trình chuồng trại, vệ Quảng Nam (361 căn), Quảng Ngãi, Bình sinh,… Nhà chính và nhà phụ thường Định (khoảng 350 căn), Phú Yên nằm ở trung tâm khuôn viên khu đất và (khoảng 20 căn - theo số liệu của bảo quay mặt về hướng Nam hoặc Đông.
  2. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 74 Nhà chính từ ba đến năm gian, có hiên chạy vòng quanh (nếu đứng độc lập) hai chái hai bên, mái có hai lớp, lớp hoặc chỉ có một hiên trước chạy dọc suốt dưới bằng tre trát đất sét, lớp trên bằng mặt tiền nhà (nếu bên cạnh có nhà phụ). rơm hoặc bằng ngói âm dương, ngói Nhà chính quay mặt về hướng Nam vẩy,… cách làm mái dạng này tạo thông nhìn ra sân phơi, trước sân là giếng thoáng về mùa hè và ấm áp về mùa nước, vườn cây, cây rơm,…nhà ở nông đông, đồng thới lớp mái dày nặng có thôn Nam Trung Bộ ít thấy có ao trong thể chống được gió bão. Kết cấu vì kèo bố cục tổng thể ngôi nhà. bằng gỗ theo lối nhà rường, vách bằng Nhà phụ còn gọi là nhà Đông làm gỗ hoặc bằng đất bên trong có cốt tre nơi nấu ăn hoặc nơi ngủ của phụ nữ, hoặc đan (mầm trỉ), nền bằng đất sét nện chặt nơi làm việc lúc nông nhàn (nghề phụ hoặc lát gạch nung, các chân cột được như dệt, đan lát, thêu,… ). Nhà phụ có chôn xuống đất hoặc kê trên các viên đá thể nối liền mái với nhà chính hoặc tách tảng chống mối mọt. Những nhà ở vùng riêng (lúc đó liên kết bằng nhà cầu). bị ngập lụt thì phần dưới mái ở hai đầu Các công trình phụ khác như hồi được tận dụng làm kho chứa đồ gọi chuồng trại, nhà vệ sinh đều bố trí phía là Rầm thượng (H I.1). sau nhà chính. Nhà ở người nghèo khác biệt nhà ở người giàu. Khuôn viên đất nhỏ hơn, hàng rào sơ sài bằng các loại thanh tre hoặc hàng rào cây ước lệ, có thể dễ dàng băng sang nhà hàng xóm được. Nhà ở thường chỉ có một ngôi nhà chính, tất cả mọi sinh hoạt đều dồn vào đây, có chăng nhà phụ là phần chái nhà phía sau nhà chính. 1.2. Giai đoạn từ 1945 – 1986 Hình I.1: Nhà bà Trợ - Tuy An – Phú Bối cảnh xã hội giai đoạn này phần Yên – trên 100 năm lớn nằm trong giai đoạn chiến tranh. Chỉ thay phần mái tôn năm 2007, Dưới sự kiểm soát của thực dân Pháp nội thất giữ nguyên, chủ nhà là hương (1945 - 1954) và Mỹ ngụy (1954 - 1975), kiểm ngày xưa, đây còn gọi là nhà trần nông thôn Nam Trung Bộ tiêu điều xơ bằng [Nguồn : Tác giả] xác vì chiến tranh, người dân bị chính Tổ hợp không gian bên trong nhà sách dồn dân, lập ấp, bỏ cửa nhà đi tản chính được phân chia theo gian. Gian cư, kinh tế khó khăn, do đó kiến trúc nhà giữa là bàn thờ gia tiên và làm nơi tiếp ở dân gian nông thôn không thay đổi khách, hai gian hai bên là chổ ngủ của nhiều, một phần lớn còn bị mất đi do chủ nhà và con trai, đồng thời là nơi để bom đạn chiến tranh. đồ đạc quý, bồ lúa,… hai chái là dành Từ 1945 - 1960, kiến trúc nhà cửa cho phụ nữ. Xung quanh nhà chính là vẫn theo kiểu thức từ xưa. Bộ khung
  3. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 75 sườn hoàn toàn bằng gỗ với các kiểu thức vì kèo vẫn còn phức tạp. Tuy nhiên, các môtíp trang trí đã đơn giản hơn, lược giản bớt nhằm tiết kiệm kinh phí xây dựng ngôi nhà vì lo sợ chiến tranh tàn phá bên cạnh nguyên nhân là thời gian xây dựng ngôi nhà không nhiều, giai đoạn này có câu “khôn ở trại, dại ở nhà” minh chứng cho bối cảnh xã hội lúc này. Cách tổ chức mặt bằng sinh Hình I.3: Nhà ông Thọ – Hòa Thành – hoạt vẫn ít có sự thay đổi so với trước Phú Yên – cải tạo 1974. Hiên nhà biến đây. Vẫn kiểu nhà ba gian hai chái mất – hai gian chái xông thẳng lên mái, nhưng đã có sự thay đổi chút ít là phần đây là ngôi nhà xưa cải tạo lại bằng cách hiên nhà thu hẹp lại ở hai đầu do không bỏ hiên, đoạn kèo ở hiên bị cắt bỏ, hiên gian phần hai chái mở rộng ra về phía trở thành phòng khách [Nguồn : Tác giả] trước. Đặc biệt, phần trần hiên được Từ 1960 – 1986, loại nhà theo kiểu đóng bằng phẳng, phần không gian giữa trần hiên và mái được tận dụng làm kho truyền thống hầu như đã được thay thế chứa vật dụng trên cao nhằm tránh bị bằng loại nhà xông. Hai gian chái theo ẩm ướt khi mùa mưa. Đây có lẽ là giải kiểu cũ biến mất, nhà chỉ còn ba gian pháp nhằm đối phó với điều kiện tự chính, tường ngăn giữa gian chính và nhiên khắc nghiệt của khu vực này, một gian chái xông thẳng lên đỡ mái. Những bước phát triển ban đầu của dạng gác nhà cũ cải tạo thì vẫn giữ cấu trúc 5 gian lửng và dạng nhà tầng sau này (H I.2, nhưng phần mái không còn dạng 4 mái I.3). Đa số nhà xây mới giai đoạn này nữa mà trở thành hai mái đổ về trước sau. thay vách đất bằng tường gạch vôi, lợp Đặc biệt, hiên nhà hầu như biến mất, hay ngói vẩy hoặc ngói âm dương. Các nói cách khác là phần vách mặt tiền trang trí mặt ngoài đơn giản hoặc hầu được dời ra sát thềm nhà nhằm làm phần như không có. không gian nội thất bên trong được rộng hơn, do đó phần mái che hiên được lược bỏ làm cho mặt tiền nhà cao hơn, thoáng hơn. Bên cạnh đó, bố cục tổng thể ngôi nhà cũng có sự thay đổi. Những nhà xây mới thì nhà phụ (nhà Đông) được ghép thẳng vào ngôi nhà chính, hai mái gắn liền vuông góc nhau thoát nước tự do xuống sân. Nhà ở trong giai đoạn này chủ Hình I.2: Nhà ông Linh – Phú Hòa – yếu được xây dựng từ sau 1970, vật liệu Phú Yên – xây 1959. Phần hiên bị thu xây dựng chủ yếu là tường xây gạch vôi, hẹp lại, trần hiên đóng bằng làm kho mái ngói, hệ khung vì kèo gỗ được đơn ,trang trí lược giản [Nguồn : Tác giả] giản hóa tối đa, không còn gặp những
  4. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 76 chi tiết trang trí cầu kỳ nữa. Trang trí chuyển ra tiếp cận mặt đường để tận mặt ngoài nhà có sự ảnh hưởng của kiểu dụng lợi thế kinh doanh. Khuôn viên kiến trúc Pháp, thêm vào các gờ chỉ nhà vì thế cũng bị thu hẹp, bố cục ngôi trang trí đầu cột, trên tường, bên hông nhà từ dạng hàng ngang biến thành và mặt trước nhà. hàng dọc, dạng lô phố như ngôi nhà đô 1.3. Giai đoạn từ 1986 đến nay thị. Tổ hợp không gian bên trong cũng Sau khi thoát khỏi giai đoạn kinh tế thay đổi theo, thêm vào các chức năng tập trung bao cấp. Nền kinh tế hàng hóa mới. Số tầng tăng lên hoặc có thêm gác nhiều thành phần đã tác động đến tất cả lửng. Trang trí mặt ngoài cũng bắt các lĩnh vực khác như : kinh tế, kiến trúc, chước theo các kiểu cách của nhà ở đô xây dựng, con người, mức sống, lối sống, thị, vật liệu cũng thay đổi từ ngói hóa nhu cầu tiện nghi,… Mặt trái của đô thị đến bê tông hóa, thành thị hóa. Xuất hóa làm thay đổi nhiều nhất đến bộ mặt hiện các vật liệu như kính, nhôm, tấm xã hội nông thôn, trong đó ảnh hưởng ốp, gạch lát, đá trang trí cao cấp,… nhiều nhất là văn hóa xã hội, phong tục trong trang trí (H I.4). tập quán và kiến trúc nhà ở. Có thể thấy, bắt đầu thời kỳ sau đổi mới đã xuất hiện nhiều điểm dân cư mới tách ra khỏi cấu trúc làng cũ. Ranh giới làng, thậm chí xã không còn rõ rệt. Cấu trúc điểm dân cư theo hướng mở, đa cực. Không gian trung tâm làng xã tiếp tục mở rộng, phát triển, nhất là khu vực các công trình văn hóa, thể thao. Không gian khu vực thương mại, dịch vụ quy mô cấp xã phát triển mang tính tập trung, xuất hiện một số công trình dịch vụ, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công Hình I.4: Nhà dạng lô phố xuất hiện nghiệp tác động đáng kể đến bộ mặt nhiều ở giai đoạn sau 1986. kiến trúc nông thôn. Một số công trình [Nguồn : Tác giả] tín ngưỡng, tôn giáo được khôi phục và Như vậy, dưới tác động của đô thị mở rộng. Xuất hiện nhiều nhà thờ họ, hóa, kiến trúc nhà ở nông thôn giai nhà nghỉ cuối tuần của những gia đình đoạn này ngày càng hỗn độn, tùy tiện, khá giả không còn ở quê nhưng vẫn về mất kiểm soát và đây là giai đoạn bùng xây dựng trên phần đất của tổ tiên. phát mạnh nhất. Vì thế cần có sự quan Hệ thống cơ sở hạ tầng được cải tâm nghiên cứu, định hình hướng phát tạo, đường giao thông được bê tông triển cho loại hình này kịp thời vì mọi hóa nhiều, tạo điều kiện cho lưu thông sự tác động sau này sẽ trở nên vô tác hàng hóa, kinh doanh, dịch vụ phát dụng vì luôn đi sau nhu cầu phát triển triển. Nhà ở nông thôn cũng dịch của quy luật xã hội (Bảng 1.1).
  5. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 77 Bảng 1.1: Tổng kết kiến trúc nhà ở dân gian Nam Trung Bộ qua các thời kỳ ĐẶC ĐIỂM GIAI Kết cấu và Hình thức ĐOẠN Tổ hợp mặt bằng vật liệu kiến trúc - Cấu trúc gian truyền thống - Hệ khung vì kèo - Bố cục đối xứng, (3-5 gian) và hai chái đầu hồi. gồm xuyên, trính, mái thấp với dạng - Nhà chính, nhà phụ vây xung con đội (chày –cối mái chái (khu đĩ) . quanh sân phơi thông qua hiên hay trống –quả), đòn - Trang trí cầu kỳ nhà. dông, mái hai lớp. với các họa tiết hoa Trước - Không gian dịch vụ được đưa - Mái lợp ngói vẩy, lá, long phụng, chim 1945 ra sát đường, tách hẳn khỏi ngói âm dương, mái sóc,... trên hệ kết cấu không gian ở. tranh. Vách mầm trỉ gỗ và bộ cửa bàn trét đất. khoa, chủ yếu là điêu khắc gỗ nội thất. - Cấu trúc mặt bằng hầu như - Hệ khung vì kèo đỡ - Mái nhà chính và không biến đổi nhiều, hai chái mái vẫn bằng gỗ. phụ gộp chung đầu hồi được mở rộng ra phía - Tường xây gạch vuông góc nhau. trước hiên làm cho diện tích vôi bao che, hiên - Đơn giản hóa chi Từ 1945 – hiên thu hẹp lại. nhà được đóng trần tiết trang trí trên hệ 1960 - Nhà phụ ghép chung vuông làm kho chứa đồ. kết cấu gỗ. Trang trí góc vào nhà chính mặt tiền hầu như - Không gian dịch vụ vẫn tách không có. ra khỏi không gian ở. - Vẫn giữ cấu trúc gian nhưng - Tường hai đầu hồi - Trang trí nội thất chái nhà không còn. nhà xông thẳng lên hầu như được lược Từ 1960 – - Hiên nhà biến mất, vách nhà đỡ mái, tường chịu bỏ, trang trí mặt 1986 mặt tiền được đưa ra sát sân lực. Hệ kết cấu gỗ ngoài được chú ý với phơi nhằm mở rộng không đỡ mái hầu như các gờ chỉ, hoa văn gian nhà. không còn đắp nổi. - Không gian dịch vụ mở rộng hơn vào phía nhà chính - Cấu trúc thay đổi từ gian nhà - Hệ kết cấu tường - Trang trí phong theo chiều ngang sang gian nhà chiụ lực hoặc hệ phú với các kiểu theo chiều dọc, hành lang bên. khung bê tông cốt thức phương Tây - Không gian dịch vụ tiếp cận thép. Mái dốc hoặc như đầu cột Hy-la, nhà chính rồi nối luôn vào nhà mái bằng. vòm cuốn, cửa cuốn, chính. gờ chỉ,... phong cách Từ 1986 – Pháp, Hoa, chủ yếu nay trang trí mặt tiền với kiểu dáng cóp nhặt từ kiến trúc đô thị.
  6. Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 78 1.4. Kết luận chứa đựng những giá trị về văn hóa vật Qua thực tế trên cho thấy, chuyển chất và tinh thần của loại hình nhà ở dân đổi trong đời sống dân cư nông thôn từ gian truyền thống xa xưa, từ đó làm phá cơ cấu lao động thuần nông sang lao vỡ cảnh quan kiến trúc nông thôn, không động phi nông nghiệp, đã tác động làm còn sự hài hòa với khung cảnh thôn quê biến đổi kiến trúc nhà ở dân gian truyền như nó vốn có trước kia. Nghiên cứu về thống sang dạng nhà ở kiểu bán thị, và thực trạng này là cần thiết nhằm gìn giữ sau đó là nhà ở kiểu đô thị. Đa phần những giá trị của loại hình kiến trúc nhà những nhà ở mới hình thành hoặc chuyển ở dân gian truyền thống góp phần phát đổi sau này chưa hoàn chỉnh về mặt nội triển nền kiến trúc Việt Nam hiện đại dung lẫn hình thức kiến trúc, không còn nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Sĩ Huệ. 2001. Văn hóa vật chất nông thôn Phú Yên, NXB Xây Dựng. [2] Trần Quốc Vượng. 2002. Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội. [3] Pha Xuân Biên. 1991. Văn hóa Chăm, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội. [4] Nguyễn Duy Hinh. 1997. Kiến trúc cổ Việt Nam (Mười bài giảng của PGS Nguyễn Duy Hinh, tài liệu tham khảo nội bộ), Hồ Chí Minh. [5] Nguyễn Khởi. 1991. Kiến trúc Việt Nam các dòng tiêu biểu, Đại học Kiến Trúc TP.HCM. [6] Nguyễn Đình Toàn. 2002. Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại, NXB Xây Dựng. [7] Chu Quang Trứ. 1996. Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ Thuật. [8] Nguyễn Khắc Tụng. 1996. Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam tập 1&2, NXB Xây Dựng , Hà Nội. [9] Vũ Tuấn Anh. 1990. Sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng giá trị ở nông thôn. Tạp chí Xã hội học số 4/1990. [10] Trần Xuân Diễm. 1991. Nhà ở kết hợp làm kinh tế gia đình, Tạp chí Kiến trúc số 3/1991. [11] Tô Duy Hợp. 1990. Xã hội học nông thôn Việt Nam - Một số thành quả nghiên cứu và khả năng vận dụng, Tạp chí Xã hội học số 4/1990. [12] Nguyễn Trực Luyện. 1991. Kiến trúc nhà ở do dân tự xây, Tạp chí Kiến trúc số 2/1991. [13] Chuyên đề nông thôn mới. Tạp chí Kiến trúc số 5/2009. [14] Trần Lâm và Hồng Kiên. 1999. Những thành phần bao che trong kiến trúc gỗ cổ truyền của người Việt, Tạp chí kiến trúc số 3/1999. [15] Pierre Gourou. 2001. Phác thảo nghiên cứu kiến trúc nhà ở dân gian miền Trung từ Thanh hóa đến Bình Định (Đào Hùng dịch), NXB Trẻ. [16] Viện Nghiên cứu Văn hóa Quốc tế - ĐH Nữ Chiêu Hòa. 2003. Kiến trúc phố cổ Hội An – Việt Nam (Trần Thị Quế Hà dịch), NXB Thế Giới, Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2