JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0085<br />
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6A, pp. 140-147<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG<br />
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
<br />
Trương Thị Bích<br />
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt. Điểm khác biệt giữa trường Đại học sư phạm với các trường đại học khác là hoạt<br />
động đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Thông qua hoạt động này, tay nghề dạy học của sinh viên<br />
được hình thành và được rèn luyện thường xuyên. Đây là điều kiện “cần” để sinh viên bớt<br />
đi sự bỡ ngỡ khi xuống các trường phổ thông thực tập sư phạm. Hoạt động này cũng trang<br />
bị cho sinh viên các kĩ năng dạy học, kĩ năng giáo dục cần thiết, góp phần rút ngắn khoảng<br />
cách “tập sự” của giáo viên trẻ mới ra trường, giúp họ nhanh chóng làm quen, hòa nhập và<br />
có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học - giáo dục, đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên<br />
phổ thông trung học. Xuất phát từ việc nghiên cứu thực trạng chất lượng đào tạo nghiệp<br />
vụ sư phạm cho sinh viên, bài viết đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt<br />
động này trong các trường đại học sư phạm.<br />
Từ khóa: Nghiệp vụ sư phạm, dạy học, giáo dục, giáo viên.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Trong trường sư phạm, hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là hoạt động<br />
chuyên biệt và mang tính đặc thù. Vì vậy, việc quan tâm đầu tư thích đáng cho hoạt động này là<br />
rất quan trọng. Những thành tựu về đào tạo giáo viên của các cơ sở đào tạo đã được khẳng định.<br />
Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi đặt ra và chưa có câu trả lời thấu đáo: Năng lực thích ứng nghề<br />
nghiệp của nhiều sinh viên sư phạm chưa cao. Rất nhiều công trình khoa học đã đề cập đến vấn<br />
đề này. Phạm Văn Chín trong “Thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp<br />
vụ sư phạm cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội” [3], Nguyễn Thành Thi trong “Từ<br />
“Học” đến “Hành” và “Tập” - Khoảng cách cần phải rút ngắn trong đào tạo giáo viên” [14] đã<br />
chỉ ra những bất cập trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở các trường đại học sư phạm.<br />
Nguyễn Thành Thi cho rằng “chương trình, các quy cách dạy học các môn Giáo dục học, Tâm lí<br />
học còn nặng sách vở, kinh viện, giảng viên bộ môn phương pháp không thích dạy phương pháp<br />
mà chỉ thích “lấn sân” dạy lại kiến thức cơ bản, chuyên ngành. Đinh Quang Báo [1], Vũ Thị Sơn<br />
[12], Trương Thị Bích [2], Phạm Xuân Hậu [4], Nguyễn Thu Tuấn [10] đã nghiên cứu đề xuất một<br />
số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong trường đại học sư phạm.<br />
Phạm Trung Thanh trong “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên” [13] đã xây dựng được<br />
một quy trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm rất chặt chẽ. Đây thực sự là tài liệu tham khảo có giá trị<br />
mặc dù được viết cho đối tượng sinh viên trường Cao đẳng sư phạm. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu<br />
<br />
Ngày nhận bài: 1/2/2015. Ngày nhận đăng: 21/5/2015.<br />
Liên hệ: Trương Thị Bích, e-mail: bichnxbgd@gmail.com.<br />
<br />
140<br />
Thực trạng và một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên...<br />
<br />
<br />
đã có, trong bài viết này, tác giả quan tâm đến hai vấn đề: Thứ nhất, tìm hiểu khái quát thực trạng<br />
chất lượng đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên; thứ hai, đề xuất một số biện pháp nhằm nâng<br />
cao hiệu quả hoạt động này trong các trường đại học sư phạm. Để có cơ sở cho việc khái quát bức<br />
tranh thực trạng, tác giả bài viết đã dựa trên kết quả nghiên cứu của Hội thảo Khoa học Nâng cao<br />
chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường đại học sư phạm, tổ chức vào tháng 1 năm<br />
2010 tại Hà Nội và căn cứ vào kết quả khảo sát, điều tra của cán bộ nghiên cứu - Viện Nghiên cứu<br />
Sư phạm đối với cán bộ quản lí, giáo viên hướng dẫn sinh viên thực tập ở trường phổ thông, sinh<br />
viên thực tập năm thứ 4 của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm học 2011-2012.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Khái quát thực trạng hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong trường<br />
đại học sư phạm<br />
Trường đại học sư phạm là cơ sở đào tạo giáo viên, là nơi cung cấp nguồn nhân lực - người<br />
dạy học cho các trường phổ thông. Nói cách khác, trường sư phạm là nơi “tạo ra sản phẩm”, còn<br />
các trường phổ thông là “khách hàng tiêu thụ sản phẩm”. Thế nhưng, nơi đào tạo đã chưa quan<br />
tâm thực sự đến “đơn đặt hàng” của khách hàng, đã cho “ra lò” những sản phẩm được đánh giá là<br />
“giàu tri thức chuyên môn, nghèo kĩ năng sư phạm”. Trong khi, chính nghiệp vụ sư phạm sẽ quyết<br />
định tay nghề giáo viên, làm nên bản lĩnh giáo viên. Thiếu nghiệp vụ sư phạm, giáo viên không<br />
thể thực hiện tốt hoạt động dạy học của mình. Sau đây là một số những bất cập về chất lượng của<br />
hoạt động này trong các trường đại học sư phạm:<br />
1. Chương trình đào tạo giáo viên trong các trường đại học sư phạm hiện nay thiên về trang<br />
bị lí luận, xem nhẹ và thiếu biện pháp rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên.<br />
Quan tâm đến vấn đề này là tác giả Trần Quốc Tuấn - Đại học Quy Nhơn [9], Nguyễn Thu<br />
Tuấn - Đại học Sư phạm Hà Nội [10], Bùi Thị Mùi - Trường Đại học Cần Thơ [6], Nguyễn Thành<br />
Thi [14],... Trần Quốc Tuấn cho rằng: Các học phần Tâm lí học, Giáo dục học, lí luận dạy học,<br />
Phương pháp dạy học bộ môn mới tập trung nhiều ở chỗ cung cấp tri thức lí luận về nghề nghiệp,<br />
chưa tập trung rèn luyện, hình thành cho sinh viên những kĩ năng dạy học cụ thể. Nguyễn Thu<br />
Tuấn cũng khẳng định chương trình đào tạo còn mang tính hàn lâm, nặng về cung cấp lí luận về<br />
phương pháp dạy học và giáo dục, chưa gắn với thực tiễn giáo dục. Bùi Thị Mùi đi sâu vào tìm<br />
hiểu hệ thống tài liệu phục vụ giảng dạy các học phần về nghiệp vụ sư phạm. Tác giả cho rằng từ<br />
sách, giáo trình, bài giảng, tài liệu hướng dẫn thực hành, thực tập sư phạm,. . . hiện nay vẫn mang<br />
tính lí thuyết, chưa đáp ứng được yêu cầu rèn nghề sư phạm. Tỉ lệ số tiết thực hành trên số tiết<br />
lí thuyết còn thấp. Một số báo cáo khác cũng chia sẻ thực trạng này ở những mức độ khác nhau.<br />
Hầu hết đều cho rằng các môn học cung cấp tri thức nghiệp vụ sư phạm như Tâm lí học, Giáo dục<br />
học,. . . chưa chú trọng đến việc trang bị cho sinh viên các tình huống xảy ra trong thực tiễn dạy<br />
học và giáo dục. Như vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào tạo ra sự gắn kết giữa trang bị kiến thức lí<br />
luận với rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp hướng tới hình thành những kĩ năng mẫu, vừa đủ cho sinh<br />
viên trở thành một giáo viên sau khi tốt nghiệp và dần dần sẽ tiến tới dạy giỏi hơn nhằm đảm bảo<br />
và nâng cao chất lượng giáo dục và dạy học ở trường phổ thông.<br />
Sinh viên năm thứ 4, Đại học Sư phạm Hà Nội trong đợt thực tập sư phạm tại các trường<br />
THPT Xuân Đỉnh (Hà Nội), Kinh Môn (Hải Dương), THPT Nguyễn Huệ (Hà Nội) khi được phỏng<br />
vấn đã có ý kiến như sau: Hầu hết SV cho rằng các môn học Tâm lí học, Giáo dục học chưa giúp<br />
được cho các em các kiến thức kĩ năng cần thiết trong dạy học và giáo dục. Một số sinh viên cho<br />
<br />
<br />
141<br />
Trương Thị Bích<br />
<br />
<br />
rằng nên giảm thời lượng học hai môn này. Hỏi về nguyên nhân, các em trả lời đó là do các môn<br />
học này được tổ chức học trước đó khá lâu nên sinh viên quên gần hết. Hơn nữa, chương trình học<br />
thiên về lí thuyết, hàn lâm, các kiến thức xa rời thực tế dạy học nên khó nhớ. Mặt khác, thiếu các<br />
ví dụ cụ thể gắn với thực tế dạy học ở trường phổ thông, tính thực hành chưa được chú trọng. SV<br />
khi học hai học phần này chỉ cốt để lấy điểm cho “đẹp” hồ sơ, còn tính ứng dụng, thực hành của<br />
môn học phục vụ cho nghề nghiệp tương lai không được chú ý.<br />
2. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ giảng dạy các học phần Tâm lí học, Giáo dục<br />
học, lí luận dạy học bộ môn trong việc xây dựng chương trình nghiệp vụ sư phạm thống nhất trong<br />
nhà trường. Vì vậy mà chương trình nghiệp vụ sư phạm của các trường thiếu tính hệ thống [5,9].<br />
3. Đội ngũ giảng viên dạy nghiệp vụ sư phạm chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu là theo<br />
kinh nghiệm công tác. Các năng lực phát triển nghề nghiệp cũng còn rất khiêm tốn [11]. Giảng<br />
viên cung cấp được cho sinh viên các tri thức về nghiệp vụ sư phạm nhưng không phải ai cũng có<br />
thể dạy mẫu được cho sinh viên. Điều này không khó hiểu bởi theo Nguyễn Thu Tuấn [10], có tới<br />
90 % giảng viên các trường sư phạm hầu như chưa tham gia dạy học tại các trường phổ thông nên<br />
họ thiếu kinh nghiệm thực tế phổ thông, không nắm vững môi trường sư phạm ở trường phổ thông<br />
và những đổi mới giáo dục phổ thông, do vậy kiến thức kĩ năng để trang bị cho sinh viên chưa<br />
tương ứng.<br />
4. Các trường sư phạm chưa thực sự gắn kết chặt chẽ thường xuyên với các trường phổ<br />
thông; các trường phổ thông chưa coi nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ giáo sinh là nhiệm vụ bắt buộc<br />
của mình [4].<br />
5. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm chỉ chú trọng tập trung vào những năm cuối, trong khi để<br />
có năng lực nghiệp vụ sư phạm, sinh viên phải được rèn luyện ngay từ khi vào trường, lại rất ít<br />
được quan tâm [4].<br />
6. Các trường còn quá chú trọng đến khoa học cơ bản và chuyên ngành mà ít tập trung cho<br />
nghiệp vụ sư phạm [4], [8].<br />
7. Sinh viên trong học tập nghiệp vụ sư phạm còn tỏ ra nhút nhát, thụ động, giao tiếp kém,<br />
kĩ năng sống yếu và thiếu, chưa sáng tạo trong tiếp thu những kiến thức nghiệp vụ sư phạm, thiếu<br />
kĩ năng quan sát, kĩ năng biểu đạt ngôn ngữ [7],. . .<br />
Khi được phỏng vấn về những điểm còn non, yếu của bản thân khi xuống trường PT thực<br />
tập, Sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội đã cho biết: Điểm yếu nhất của các em là:<br />
- Trình bày bảng xấu, chưa khoa học.<br />
- Việc phối kết hợp giữa nói và viết bảng khó.<br />
- Xử lí tình huống kém.<br />
- Không tạo được hứng thú cỏho học sinh học tập, học sinh không ủng hộ giáo viên.<br />
- Kĩ năng quản lí lớp kém.<br />
- Còn tham kiến thức, chưa biết nhấn mạnh, khắc sâu vào nội dung trọng tâm của bào dạy.<br />
Kết quả phỏng vấn giáo viên phổ thông thu được như sau:<br />
- Sinh viên dạy trên lớp còn tham kiến thức, nói hơi nhiều..<br />
- Sinh viên chưa xác định được kiến thức trọng tâm khi soạn giáo án. Cách đặt câu hỏi chưa<br />
khắc sâu vào kiến thức cơ bản; trình bày bảng yếu, chữ viết xấu. Cách xưng hô còn “trẻ” (gọi học<br />
sinh là bạn xưng “tôi”); còn lệ thuộc vào giáo án.<br />
- Sinh viên chưa phân bố hợp lí thời gian, chưa dành thời gian thích hợp cho kiến thức trọng<br />
<br />
<br />
142<br />
Thực trạng và một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên...<br />
<br />
<br />
tâm, tổ chức hoạt động nhóm chưa tốt.<br />
- Điểm lúng túng nhất của sinh viên là cách đánh giá, cho điểm học sinh, phương pháp<br />
giảng dạy kém.<br />
- Việc vận dụng sách tham khảo, liên hệ thực tế kém.<br />
- Còn căng thẳng, chưa tạo được hứng thú cho học sinh học tập.<br />
- Trường sư phạm chưa dạy sinh viên các kĩ năng quản lí lớp.<br />
- Chưa xử lí đúng học sinh mắc lỗi.<br />
- Chưa biết làm công tác chủ nhiệm là gì.<br />
- Chưa biết lên kế hoạch công tác chủ nhiệm.<br />
- Công tác chủ nhiệm mới chỉ đáp ứng khoảng 20 %.<br />
- Chưa hiểu gì về hồ sơ sổ sách của một giáo viên.<br />
<br />
2.2. Một số nguyên nhân của những bất cập trên<br />
Nguyên nhân khách quan<br />
- Một số trường cao đẳng sư phạm được nâng cấp thành trường đại học đa ngành, một số<br />
trường đại học khoa học kĩ thuật cũng được phép đào tạo giáo viên nhưng đội ngũ cán bộ giảng<br />
dạy, nhất là đội ngũ giảng dạy nghiệp vụ sư phạm còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng [9].<br />
- Cơ sở vật chất còn thiếu: Phòng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm chưa đảm bảo tiêu chuẩn<br />
(diện tích nhỏ, thiếu ánh sáng, thiếu trang thiết bị,. . . ); sinh viên không có điều kiện thường xuyên<br />
thực hành ở trường phổ thông, sinh viên còn phải tập giảng ngay tại phòng ở, thậm chí là hành<br />
lang kí túc xá.<br />
- Chương trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên bị cắt giảm, thời gian thực hành<br />
ít, sinh viên quá đông nên không thể tổ chức đều cho hầu hết sinh viên, nhiều sinh viên chưa được<br />
tham gia thực hành các kĩ năng nghiệp vụ sư phạm.<br />
- Bộ môn Phương pháp dạy học còn bị “coi thường”, còn bị cho là không cần học sinh viên<br />
vẫn dạy được.<br />
Nguyên nhân chủ quan<br />
- Chương trình học các học phần nghiệp vụ sư phạm còn quá nặng về lí thuyết.<br />
- Khâu kiểm tra, đánh giá sinh viên còn lỏng lẻo.<br />
- Chưa chú trọng vào các kĩ năng giáo dục.<br />
- Việc rèn luyện chưa đồng bộ, nhiều sinh viên không tham gia hoặc tham gia đối phó.<br />
- Một số giảng viên chưa tích cực, chưa tạo được sự hấp dẫn của môn học để thu hút SV,<br />
chưa nhiều kinh nghiệm về thực tiễn dạy học ở trường phổ thông để xử lí các tình huống sư phạm<br />
- Sinh viên chưa tích cực, tự giác trong rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, chủ yếu mới tập trung<br />
ở một số em khá, giỏi.<br />
<br />
2.3. Một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm trong trường đại<br />
học sư phạm<br />
* Tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học phải được triển khai và thực hiện ngay từ<br />
chính người thầy dạy đại học<br />
Người thầy ở đây là các giảng viên đại học, bao gồm tất cả các giảng viên của các môn giáo<br />
<br />
143<br />
Trương Thị Bích<br />
<br />
<br />
dục đại cương (Ngoại ngữ, Giáo dục quốc phòng, các môn khoa học Mác - Lê-nin,. . . ); giáo dục<br />
chuyên ngành và nghiệp vụ sư phạm (Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp giảng dạy bộ môn).<br />
Rèn kĩ năng là một quá trình. Người thầy không thể chỉ ngồi nghiên cứu tài liệu Đông, Tây, kim<br />
cổ, tìm ra biết bao phương pháp mới, so sánh, đối chiếu phát hiện ra những ưu điểm so với phương<br />
pháp truyền thống để rồi truyền tải những kiến thức rất mới này cho SV bằng phương pháp. . .<br />
truyền thống. Rõ ràng đây là những “tấm gương” cho SV về cách dạy, cách học. Dạy học hướng<br />
vào người học là luận điểm then chốt của lí luận dạy học hiện đại, là bản chất của đổi mới phương<br />
pháp dạy - học. Người thầy trong trường đại học chưa quán triệt và triển khai tinh thần này trong<br />
các bài giảng của mình tới SV. Tức là chưa ý thức được việc dạy cho SV cách tư duy, cách học<br />
sáng tạo. Người thầy chưa phải là cố vấn, huấn luyện viên, người quản lí, điều khiển quá trình học<br />
tập của SV. SV vẫn là những “bình chứa” thụ động để ông thầy chủ động “rót” kiến thức. Đây là<br />
một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần “đào tạo” ra những SV ngơ ngác, non, yếu,. . .<br />
khi đi kiến tập, thực tập tại các trường PT. Thiết nghĩ, việc đổi mới cách dạy, cách học trong các<br />
trường đại học, nhất là các trường đại học Sư phạm chính là cái gốc, là căn cốt để SV - người giáo<br />
viên tương lai học cách dạy sáng tạo, học cách học sáng tạo và cũng chính là rèn luyện bản lĩnh<br />
nghề nghiệp.<br />
* Phải tạo được sự thống nhất giữa việc trang bị tri thức và kĩ năng nghề dạy học cho<br />
sinh viên<br />
- Về tri thức nghề, trường sư phạm phải trang bị cho sinh viên một vốn tri thức khoa học cơ<br />
bản và khoa học giáo dục, không nên xem nhẹ loại tri thức nào. Vấn đề đặt ra cần chú ý là ở trường<br />
sư phạm việc trang bị tri thức khoa học cơ bản phải được tổ chức dạy và học theo hướng đáp ứng<br />
yêu cầu của việc đào tạo nghề.<br />
Đối với khoa học giáo dục, cần cung cấp cho sinh viên những tri thức như: Tri thức chung<br />
về nghề sư phạm, tri thức về đặc điểm tâm sinh lí học sinh, tri thức về phương pháp - kĩ thuật tổ<br />
chức hoạt động học tập - giáo dục cho học sinh và tri thức tạo tiềm lực cho người học,. . . Những<br />
tri thức này, sinh viên được học tập, nghiên cứu, tiếp thu qua các môn học Tâm lí học, Giáo dục<br />
học, Phương pháp dạy học bộ môn.<br />
- Kĩ năng nghề của sinh viên sư phạm được hình thành trên cơ sở các tri thức nghề, đặc biệt<br />
là hệ thống các tri thức về khoa học giáo dục. Kĩ năng nghề sư phạm, bao gồm nhiều loại khác<br />
nhau tạo thành một hệ thống kĩ năng hoàn chỉnh, trong đó có ba nhóm kĩ năng chủ yếu: Kĩ năng<br />
dạy học, kĩ năng tổ chức và kĩ năng giao tiếp.<br />
Các môn Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học bộ môn được xem là những môn<br />
học cung cấp tri thức sư phạm cho sinh viên. Điều đó có nghĩa là chúng có mối quan hệ mật thiết<br />
với việc hình thành các kĩ năng sư phạm (qua các hoạt động thực hành sư phạm, các đợt kiến tập,<br />
thực tập sư phạm). Sinh viên sẽ vận dụng các kiến thức sư phạm này để xử lí các tình huống giáo<br />
dục cụ thể. Từ đó sẽ làm giàu thêm vốn liếng nghiệp vụ sư phạm của mình. Muốn thực hiện được<br />
nhiệm vụ này, nội dung của các môn học phải rất sát với thực tiễn dạy học - giáo dục ở phổ thông.<br />
Điều quan trọng cần làm để khắc phục tình trạng này là:<br />
+ Thứ nhất, giảng viên các bộ môn Tâm lí học, Giáo dục học cần theo sát nhiệm vụ rèn<br />
luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên để đổi mới nội dung và phương pháp dạy học cho thiết thực<br />
và hiệu quả.<br />
+ Thứ hai, các nhà đào tạo, các nhà nghiên cứu xây dựng khung chương trình đào tạo và<br />
phát triển giáo viên trong trường sư phạm phải sắp xếp thời gian cũng như thời lượng giảng dạy<br />
của các môn học này sao cho phù hợp và hiệu quả với các hoạt động rèn luyện kĩ năng sư phạm<br />
<br />
144<br />
Thực trạng và một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên...<br />
<br />
<br />
(về dung lượng kiến thức, về thời điểm triển khai).<br />
+ Thứ ba, bộ môn Phương pháp dạy học phải căn cứ vào thực tiễn dạy học ở trường PT, để<br />
xây dựng các chuyên đề mang tính thiết thực rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Ví dụ:<br />
Tham khảo mẫu soạn giáo án của giáo viên phổ thông, trình tự lên lớp, cách hướng dẫn học sinh<br />
học bài, thu thập các tình huống giáo dục từ giáo viên chủ nhiệm để hướng dẫn sinh viên tập xử<br />
lí,. . . Nên tăng cường các chuyên đề mang tính thực hành, bớt các chuyên đề nặng tính lí thuyết,<br />
hàn lâm.<br />
Giảng viên bộ môn Phương pháp dạy học nên trực tiếp dự giờ giáo viên phổ thông, và tốt<br />
hơn nữa nếu giảng viên có tham gia giảng dạy tại trường phổ thông.<br />
Thay đổi, chỉnh lí chương trình đào tạo cho thích hợp với mô hình người giáo viên mà<br />
thực tiễn đòi hỏi<br />
Các trường đại học sư phạm cần xác định cấu trúc chương trình và quy cách đào tạo phải<br />
khác với cấu trúc chương trình và quy cách đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học khác. Cụ thể:<br />
- Tăng cường tính chất thực tiễn của chương trình cũng như hiệu quả của đào tạo. Áp sát<br />
hơn nữa chương trình đào tạo ở đại học sư phạm với chương trình đào tạo ở trường phổ thông.<br />
- Hoàn chỉnh chương trình đào tạo trên tinh thần xác định đúng mối quan hệ giữa dạy chữ<br />
với dạy nghề, đồng thời với việc kết hợp mục tiêu dạy chữ với mục tiêu dạy nghề, giải quyết tốt<br />
mối quan hệ giữa học với hành.<br />
Cho sinh viên xuống các trường phổ thông ngay từ năm thứ nhất<br />
Vào năm thứ nhất, cần bố trí cho sinh viên có từ 1 đến 2 tuần tiếp xúc với giáo dục phổ<br />
thông. Mục đích là để sinh viên làm quen với với giáo dục phổ thông với tư cách người giáo viên.<br />
Có thể không cần phải tổ chức quy mô như các đợt kiến tập, thực tập mà định hướng cho các khoa,<br />
từ các khoa triển khai cho các lớp cụ thể về việc đăng kí kết nghĩa với các trường phổ thông gần<br />
trường sư phạm; làm việc với Ban Giám hiệu các trường phổ thông cho sinh viên về trường tham<br />
gia làm công tác chủ nhiệm, tham gia dự giờ, sinh hoạt với nhóm, tổ chuyên môn; tất nhiên là chưa<br />
cho sinh viên tham gia dạy thử trên đối tượng học sinh; không đặt ra vấn đề có giáo viên hướng<br />
dẫn. Các hoạt động này không cần phải nhận xét, đánh giá, cho điểm, chỉ cần sinh viên báo cáo<br />
diễn biến và kết quả công việc hoặc đưa ra các tình huống giáo dục mà mình gặp để nhóm, tổ sinh<br />
viên cùng tham gia xử lí, rút kinh nghiệm. Tất cả các hoạt động này để các nhóm sinh viên chủ<br />
động sắp xếp thời gian, làm sao để không ảnh hưởng đến việc học các môn học khác. Điều này<br />
hoàn toàn có thể thực hiện được vì sinh viên thông thường chỉ phải lên lớp một buổi trong ngày.<br />
Các đợt đi xuống các trường phổ thông như thế có thể không cần quy định ngày kết thúc. Ngày kết<br />
thúc phụ thuộc vào ý định của nhóm sinh viên, phụ thuộc vào thỏa thuận giữa giáo viên chủ nhiệm<br />
và sinh viên, giảng viên phụ trách nắm tình hình thông qua nhóm trưởng sinh viên.<br />
Tại trường sư phạm, nên phân sinh viên thành các nhóm nhỏ hoặc vẫn duy trì các nhóm<br />
tham gia sinh hoạt ở trường phổ thông. Giảng viên tùy vào nội dung môn mình phụ trách để đưa ra<br />
các vấn đề, các tình huống hoặc tổ chức cho sinh viên nghĩ ra các vấn đề, các tình huống khác để<br />
suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết. Các vấn đề, các tình huống có thể là việc khai thác sách<br />
giáo khoa như thế nào cho hợp lí. Là cách trình bày bảng thế nào cho khoa học. Diễn đạt trước<br />
một tập thể làm sao cho khỏi lúng túng, nói năng thế nào cho lưu loát, xử lí một em học sinh có<br />
thái độ vô lễ thì phải như thế nào? v.v. . . Sang đến năm thứ ba, thứ tư có thể tổ chức cho sinh viên<br />
tập giảng, chọn sinh viên ưu tú để giảng mẫu, giảng viên giảng mẫu, nhóm, tổ góp ý xây dựng, rút<br />
kinh nghiệm.<br />
<br />
<br />
145<br />
Trương Thị Bích<br />
<br />
<br />
Chuẩn bị kĩ cho sinh viên ngay từ năm thứ nhất như thế chắc chắn đến các đợt kiến tập, thực<br />
tập ở những năm sau, sinh viên sẽ bớt lúng túng, bỡ ngỡ; thậm chí còn phát huy tính chủ động,<br />
sáng tạo trong công tác giảng dạy cũng như công tác chủ nhiệm và các hoạt động giáo dục khác<br />
tại trường phổ thông.<br />
Đầu tư cơ sở vật chất tốt cho các trường thực hành<br />
Trường sư phạm có sinh viên xuống thực hành cần phải có kinh phí hỗ trợ để có thể xây<br />
dựng, mua sắm trang thiết bị cần thiết phục vụ côngn tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.<br />
Trường thực hành có kế hoạch xây dựng những phòng học chất lượng cao (đa năng) để<br />
sinh viên có thể thực hành tốt, đảm bảo giảng dạy tốt nhưng không làm xáo trộn đến lớp học (đồ<br />
dùng dạy học, phương tiện kĩ thuật hiện đại, phòng kínhh cách li để sinh viên có thể quan sát, học<br />
tập,. . . ); xây dựng những không gian cần thiết để tổ chức hoạt động ngoài giờ.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Vấn đề nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường đại học sư phạm<br />
là một vấn đề lớn, đòi hỏi sự nỗ lực tổng hợp của các nhà quản lí, các nhà khoa học, các giảng viên<br />
trực tiếp đứng lớp, đặc biệt đòi hỏi sự nỗ lực tự thân của sinh viên. Trong bài viết này, chúng tôi<br />
chỉ tập trung đề cập đến năm vấn đề góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm<br />
cho sinh viên. Thứ nhất, người thầy giáo trong trường sư phạm phải là người đi tiên phong trong<br />
việc đổi mới phương pháp dạy học. Thứ hai, Phải tạo được sự thống nhất giữa tri thức với kĩ năng<br />
nghề dạy học. Thứ ba, phải chỉnh lí chương trình đào tạo cho thích hợp với mô hình người giáo<br />
viên mà thực tiễn đòi hỏi. Thứ tư, cần thiết tổ chức cho sinh viên xuống trường phổ thông từ năm<br />
thứ nhất. Thứ năm, cần đầu tư cơ sở vật chất tốt cho các trường thực hành. Thiết nghĩ, nếu các biện<br />
pháp này được triển khai và thực hiện tốt, chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ trong việc thực hiện<br />
thành công nhiệm vụ lớn: Đào tạo sinh viên sư phạm trở thành những giáo viên có trình độ chuyên<br />
môn vững vàng, có vốn liếng tri thức sư phạm, kĩ năng sư phạm phong phú, có tinh thần độc lập,<br />
tự chủ, sáng tạo trong giảng dạy cũng như trong việc xử lí các tình huống giáo dục nói chung. Các<br />
giáo viên được đào tạo với “chất lượng” như vậy sẽ là một nguồn lực mạnh, góp phần không nhỏ<br />
đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà sớm hội nhập với khu vực và quốc tế.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Đinh Quang Báo, 2011. Các giải pháp nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo<br />
viên. Đặc san Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 9-18.<br />
[2] Trương Thị Bích, 2010. Về sự gắn kết giữa trường đại học sư phạm với trường phổ thông<br />
trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, 6/2010, tr. 29 - 31.<br />
[3] Phạm Văn Chín, 2010. Thực trạng và một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ<br />
sư phạm cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường<br />
Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 53.<br />
[4] Phạm Xuân Hậu, 2010. Vài nét về nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các<br />
trường sư phạm trong thời kì hội nhập. Kỉ yếu hội thảo khoa học, Trường Đại học Sư phạm<br />
Hà Nội, tháng 1, tr. 116-120.<br />
[5] Phạm Minh Hùng, 2010. Đổi mới công tác đào tạo nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm. Kỉ yếu<br />
hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 95-98.<br />
[6] Nguyễn Thị Mùi, 2010. Từ chuẩn nghề nghiệp giáo viên đến chương trình đào tạo nghiệp vụ<br />
sư phạm giáo viên Trung học phổ thông. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm<br />
<br />
146<br />
Thực trạng và một số đề xuất nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên...<br />
<br />
<br />
Hà Nội, tháng 1, tr. 289.<br />
[7] Biền Văn Minh, 2010. Thực trạng và giải pháp đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở các trường đại<br />
học sư phạm hiện nay trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường<br />
Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 36-40.<br />
[8] Phan Trọng Luận, 2010. Còn đó nỗi lo chung. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư<br />
phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 22-26.<br />
[9] Trần Quốc Tuấn, 2010. Rèn luyện kĩ năng dạy học cho sinh viên sư phạm ở các trường đại<br />
học nước ta - Thực trạng, định hướng và giải pháp. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học<br />
Sư phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 59-65.<br />
[10] Nguyễn Thu Tuấn, 2010. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ cho<br />
sinh viên các trường đại học sư phạm. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm<br />
Hà Nội, tháng 1, tr. 121-125.<br />
[11] Lê Quang Tân, 2010. Một số giải pháp đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở Trường Cao đẳng Sư<br />
phạm Đồng Nai trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại<br />
học Sư phạm Hà Nội, tháng 1, tr. 278-281.<br />
[12] Vũ Thị Sơn, 2011. Liên kết giữa cơ sở dào tạo giáo viên với trường phổ thông trong đào tạo<br />
giáo viên. Đặc san Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 10, tr. 181-189.<br />
[13] Phạm Trung Thanh, 2006. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. Nxb Đại học Sư<br />
phạm.<br />
[14] Nguyễn Thành Thi, 2010. Từ “học” đến “hành” và “Tập” - Khoảng cách cần phải rút ngắn<br />
trong đào tạo giáo viên. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 1,<br />
tr. 260-263.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Reality and some suggestions to improve quality<br />
of pedagogical students in pedagogical universities<br />
<br />
The differences between Hanoi Pedagogical University and other universities is the<br />
pedagogy-training activities. Through such activities, student’s teaching skills have been formed<br />
and trained frequently. This is “necessary” condition for students to become familiar in the<br />
teaching practice activities in high schools. In addition, this activity also equips students with<br />
vital teaching and other educational skills in a view of shortening the apprentice period of<br />
newly-graduated students and helping them to become familiar and integrated on the new teaching<br />
environment, thus fulfilling educationally entrusted tasks. Starting from the reality of pedagogical<br />
training quality, this following study proposes number of measures in order to improve the<br />
above-mentioned activities in the pedagogical universities.<br />
Keywords: Pedagogic, teaching, educate, the teacher.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
147<br />