22<br />
<br />
THỰC TRẠNG VÀ VƯỚNG MẮC VỀ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC<br />
NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br />
<br />
<br />
NGUYỄN NGUYỆT HUỆ<br />
Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM<br />
<br />
<br />
I. TÌNH HÌNH CHUNG<br />
<br />
1. Về kết hôn<br />
<br />
Từ năm 1993 đến 2004, thành phố Hồ Chí Minh đă đăng ký 46. 914 trường hợp kết<br />
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước<br />
ngoài thuộc trên 55 quốc gia khác nhau. Phần lớn là các trường hợp kết hôn giữa công<br />
dân ở trong nước với người nước ngoài và kết hôn giữa công dân Việt Nam với người<br />
Việt Nam định cư ở nước ngoài (99,61%), cụ thể là:<br />
<br />
Kết hôn giữa công dân Việt Nam trong nước với người nước ngoài chiếm 40,82%<br />
Kết hôn giữa công dân Việt Nam trong nước với người Việt Nam định cư ở nước<br />
ngoài là 58,79%<br />
Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người không quốc tịch đang sinh sông,<br />
thường trú tại thành phố và là công dân của nước có chung biên giới với Việt Nam<br />
có 49 trường hợp (chiếm 0.39%).<br />
<br />
Đặc biệt, trong những năm qua chỉ có 03 trường hợp đăng ký kết hôn giữa người nước<br />
ngoài với nhau đang sinh sống, làm việc tại thành phố.<br />
<br />
Đối tượng đa số là phụ nữ Việt Nam ở trong nước lấy chồng nước ngoài hoặc chồng là<br />
người Việt Nam định cư tại nước ngoài chiếm 92%, trong đó có 13 318 trường hợp kết<br />
hôn với Việt Nam ở trong nước lấy chồng Trung Quốc (Đài Loan) giảm dần, nhưng<br />
ngược lại phụ nữ Việt Nam lấy chồng là người Hàn Quốc có xu hướng tăng lên rõ rệt.<br />
<br />
Về quốc tịch của người nước ngoài, quốc gia mà công dân Việt Nam định cư ở nước<br />
ngoài đang cư trú có 55 quốc gia và vùng lãnh thổ có công dân là chủ thể tham gia<br />
vào quan hệ hôn nhân với công dân Việt Nam, phân bố theo 3 khu vực chính :<br />
<br />
Khu vực các nước có nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm: Hoa Kỳ,<br />
Pháp, Úc, Canada chiếm 51,57%<br />
Kết hôn với nam công dân Trung Quốc (Đài Loan) chiếm 35,63%<br />
Các quốc gia khác chiếm 8,8%.<br />
<br />
Về nhân thân: Độ tuổi kết hôn của phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài không có sự<br />
khác biệt lớn. Tuy nhiên, ở các cặp vợ chồng Đài – Việt tuổi kết hông của phụ nữ Việt<br />
Nam còn rất trẻ, có độ tuổi chênh lệch với chồng từ 10 tuổi đến 20 tuổi chiếm<br />
54,69%. Thành phần dân tộc: Kinh chiếm 61,20%, dân tộc Hoa chiếm 38,58%.<br />
<br />
2. Về ly hôn:<br />
<br />
Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố từ 1998 đến 2001, đã thụ lý 3487 vụ<br />
án ly hôn có yếu tố nước ngoài, năm sau đều cao hơn năm trước. Đa số các việc ly<br />
hôn do công dân Việt Nam trong nước đứng nguyên đơn và việc xét xử thường là vắng<br />
mặt bên phía nước ngoài. Nội dung giải quyết hầu hết giải quyết quan hệ hôn nhân,<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
23<br />
<br />
không yêu cầu giải quyết vấn đề con chung hoặc tài sản, có lẽ do các bên nhận thấy<br />
nếu giải quyết thì cũng khó thi hành nên không yêu cầu.<br />
<br />
Khó khăn khi giải quyết ly hôn là xác định tình trạng hôn nhân có hậu quả mâu thuẫn<br />
trầm trọng để làm căn cứ cho ly hôn vì việc điều tra phía nước ngoài có nhiều hạn chế,<br />
ủy thác tư pháp không có kết quả.<br />
<br />
Nguyên nhân ly hôn thường do cá tính không phù hợp, phong tục, tập quán, ngôn<br />
ngữ, lối sống có sự khác biệt. Đặc biệt với hôn nhân Đài – Việt nguyên nhân xuất phát<br />
từ những cuộc kết hôn vội vã; không tìm hiểu, có mục đích kinh tế, không có con….<br />
Đối với trường hợp bên nguyên đơn ở nước ngoài yêu cầu ly hôn với bị đơn ở trong<br />
nước, có bị đơn không đồng ý ly hôn mà yêu cầu bên nguyên đơn phải có mặt mới<br />
đồng ý giải quyết quan hệ hôn nhân, họ đồng thời có yêu cầu cấp dưỡng khi ly hôn vì<br />
lý do khó khăn về đời sống, yêu cầu này rất khó giải quyết vì không có điều kiện xác<br />
định tình trạng tài chính, mức thu nhập của bên ở nước ngoài. Cũng có không ít<br />
trường hợp ly hôn là do mục đích kết hôn nhằm bảo lãnh xuất cảnh ra nước ngoài,<br />
nhưng sau đó việc bảo lãnh không thực hiện được, họ phải chấm dứt quan hệ hôn<br />
nhân để ổn định cuộc sống.<br />
<br />
3. Về ghi chú ly hôn:<br />
<br />
Liên quan đến hồ sơ thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định<br />
184/CP và sau đó được thay thế bởi Nghị định 68/2002/NĐ-CP có một thực tế gây<br />
nhiều phức tạp là việc công nhân bản án ly hôn của công dân Việt Nam với nhau hoặc<br />
công dân Việt Nam với người nước ngoài do Tòa án nước ngoài xét xử.<br />
<br />
Pháp lệnh công nhận và cho thi hành án ở Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa<br />
án nước ngoài chỉ cho phép công nhận đối với nước đã ký kết với Việt Nam hiệp định<br />
tương trợ tư pháp, về nguyên tắc không được xem xét công nhận tại Việt Nam. Vấn đề<br />
này đã gây cản trở việc kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài, kể cả<br />
với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nếu ràng buộc thủ tục đăng ký kết hôn<br />
mới với việc buộc phải ghi chú bản án ly hôn của nước ngoài là không cần thiết, làm<br />
thời hạn giải quyết hồ sơ kết hôn kéo dài, gây khó khăn cho đương sự.<br />
<br />
4. Về hoạt động “môi giới” hôn nhân có yếu tố nước ngoài:<br />
<br />
4.1. Trước khi Nghị định 68/2002/NĐ-CP được thi hành (ngày 02/01/2003); trên địa<br />
bàn thành phố có 52 doanh nghiệp được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp phép hoạt động<br />
môi giới hôn nhân; môi giới, giới thiệu kết hôn, tư vấn hỗ trợ kêt hôn và dịch vụ tổ<br />
chức lễ cưới. Nhưng chỉ có 5 doanh nghiệp hoạt động được. Khi nghị định<br />
68/2002/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, cơ quan cấp phép đã không kịp thời thông báo<br />
các doanh nghiệp chấm dứt việc hoạt động ở lĩnh vực nêu trên. Do đó, một số doanh<br />
nghiệp vẫn tiếp tục giới thiệu, môi giới các cô gái Việt Nam và người nước ngoài có<br />
nhu cầu tìm hiểu, kết hôn với nhau. Hoạt động này có lúc diễn ra này có lúc diễn ra<br />
công khai trên mạng Internet (như công ty TNHH Tân Việt, Công ty TNHH Việt Phước,<br />
Công ty TNHH Minh Huy Hoa Sen…).<br />
<br />
Tháng 8/2003, sau đợt kiểm tra các doanh nghiệp về hoạt động môi giới hôn nhân,<br />
các doanh nghiệp đã giảm ngành nghề kinh doanh, một số chuyển sang hoạt động<br />
lĩnh vực khác hoặc giải thể, chỉ còn lại 24 doanh nghiệp đăng ký tổ chức nghi lễ tiệc<br />
cưới, tư vấn hôn nhân.<br />
<br />
Tháng 10/2003 Trung tâm hỗ trợ kết hôn thành phố được thành lập. Bước đầu, được<br />
giới phụ nữ thành phố quan tâm tìm đến tư vấn, đăng ký tìm bạn, thực hiện dịch vụ<br />
hướng dẫn thủ tục hồ sơ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến chưa đồng tình về hoạt động giới<br />
thiệu hôn nhân, nhất là đối với cán bộ Hội phụ nữ lớn tuổi.<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
24<br />
<br />
Vừa qua, tháng 6/2004 các cơ quan chức năng thành phố (Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch<br />
Đầu tư, Công an thành phố, Hội liên hiệp Phụ nữ …) đã phối hợp kiểm tra trong hoạt<br />
động của 24 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ngành dịch vụ tổ chức lễ cưới, tư vấn<br />
hôn nhân…. cho công dân Việt Nam trong nước, thì có 17 doanh nghiệp có mặt, 7<br />
doanh nghiệp không có trụ sở tại địa điểm đăng ký hoạt động, còn các doanh nghiệp<br />
khác thì chỉ “đăng ký để có” chứ không có hoạt động<br />
<br />
4.2. Ngoài một số ít trường hợp phụ nữ Việt Nam đi hợp tác lao động ở Đài Loan, làm<br />
nghề hướng dẫn du lịch, có dịp du lịch sang Đài Loan…. trực tiếp gặp gỡ, tìm hiểu và<br />
tự nguyện tiến đến hôn nhân, thì có đến 85% các trường kết hôn của phụ nữ Việt<br />
Nam trong nước lấy chồng Đài Loan là xuất phát từ sự giới thiệu của người thân (anh,<br />
chị, em ruột, họ hàng, bạn bè, láng giềng hàng xóm…) đã lấy chồng Đài Loan và xuất<br />
cảnh theo chồng dẫn nam giới Đài Loan có nhu cầu lấy vợ Việt Nam về nước để giới<br />
thiệu, môi giới. Có nhiều trường hợp không chỉ giới thiệu, môi giới mà còn làm dịch vụ<br />
hồ sơ thủ tục đăng ký kết hôn sau khi hai bên đã “xem mặt” và đồng ý kết hôn. Sở Tư<br />
pháp tổ chức phỏng vấn để tìm hiểu và từ năm 2003 đến nay, đã đề xuất Ủy ban nhân<br />
dân Thành phố từ chối 39 trường hợp đăng ký kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với nam<br />
giới Đài Loan, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số hồ sơ thụ lý (0,90%). Qua thực<br />
tiễn cho thấy việc xác định các dấu hiệu, hiện tượng của kết hôn giả, kết hôn với mục<br />
đích vụ lợi, …. để làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký kết hôn là rất khó và không đảm<br />
bảo về yếu tố pháp lý. Công tác phỏng vấn đến nay vẫn chưa rút ra được bài học kinh<br />
nghiệm để áp dụng.<br />
<br />
4.3. Ngoài ra, có một vài tụ điểm hoạt động môi giới hôn nhân trên địa bàn quận 10,<br />
quận 11 diễn ra khá sôi động và công khai mà báo chí đi sâu tìm hiểu điều tra cho<br />
thấy phương pháp hoạt động của các tổ chức này gây nhiều khó khăn cho các cơ<br />
quan chức năng (Công an chính quyền các cấp…) trong việc ngăn chặn, xử lý. Họ đưa<br />
khách (Đài Loan) đến các nơi công cộng như quán nước, công viên, khu vui chơi du<br />
lịch Đầm Sen… và sắp xếp cho các cô gái đến để tiếp xúc, có thế xem mặt. Nhìn hiện<br />
tượng bên ngoài, không có dấu hiệu nào để cơ quan Công an truy bắt được.<br />
<br />
Sở Tư pháp Thành phố đã phát hiện 04 cá nhân có hiện tượng môi giới hôn nhân bất<br />
hợp pháp bằng hình thức tổ chức đường dây môi giới từ Đài Loan về Việt Nam và<br />
không những thực hiện việc môi giới còn “lo” luôn cả việc làm hồ sơ đăng ký kết hôn<br />
và xuất cảnh. Sở đã chuyển ¾ hồ sơ sang cơ quan điều tra Công an Thành phố để tiếp<br />
tục điều tra xử lý.<br />
<br />
II. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC:<br />
<br />
Ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết<br />
thi hành một số Điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình<br />
có yếu tố nước ngoài, có hiệu lực thi hành từ ngày 02/01/2003. Nghị định 68 đã giải<br />
quyết được phần lớn một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết hồ sơ kết hôn với<br />
người nước ngoài so với khi áp dụng Nghị định 184.<br />
<br />
Tuy nhiên, một số vấn đề lớn còn vướng mắc liên quan đến việc xây dựng hoàn chỉnh<br />
hệ thống pháp luật điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài, cụ thể:<br />
<br />
1. Giải quyết xung đột pháp lý:<br />
Điều kiện kết hôn và năng lực kết hôn:<br />
Tuổi kết hôn: quy định về độ tuổi kết hôn của một số nứoc thấp hơn so với Việt Nam<br />
(như Anh, Mỹ, Úc, Đài Loan; Nhật Bản, Hàn Quốc là trên 16 tuổi đối với nữ, đối với<br />
Pháp là từ 15 tuổi) trong khi đó quy định của ta chỉ thừa nhận tuổi kết hôn là từ 18<br />
tuổi. Trong trường hợp này ta sẽ gặp khó khăn khi thụ lý các hồ sơ xin công nhận việc<br />
kết hôn ở nước ngoài, vì ngoài việc xem xét cuộc hôn nhân đó có phù hợp với pháp<br />
<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
25<br />
<br />
luật Việt Nam không còn phải tính đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, chưa kể phải<br />
xem xét đến yếu tố vi phạm pháp luật Hình sự (giao cấu với người vị thành niên).<br />
<br />
Năng lực, nhận thức kết hôn: thực tiễn hiện nay cho thấy có nhiều cuộc hôn nhân nằm<br />
ngoài mục đích đích thực của hôn nhân, chủ yếu vì lý do kinh tế hoặc để được xuất<br />
cảnh. Mặc dù một số trường hợp đã được Nhà nước Việt Nam cấp giấy đăng ký kết hôn<br />
hợp lệ nhưng nếu không chứng minh được quan hệ trước hôn nhân thì không được cấp<br />
thị thực nhập cảnh để đoàn tụ với gia đình ở nước ngoài. Do đó tạo nhiều hậu quả rất<br />
thiệt thòi cho phía công dân Việt Nam (khác với các trường hợp kết hôn với người Đài<br />
Loan chỉ cần có giấy đăng ký kết hôn hợp lệ là được cấp thị thực nhập cảnh Đài Loan).<br />
<br />
2. Về xác định việc kết hôn không vi phạm các điều cấm:<br />
<br />
Hiện nay, chưa có các quy định cụ thể nào, nhằm bảo đảm việc đăng ký kết hôn,<br />
không vi phạm các điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.<br />
Thời gian qua, cơ quan công an chịu trách nhiệm xác minh về an ninh không chịu<br />
trách nhiệm xác minh về vi phạm các điều cấm, Nghị định 68 quy định việc phỏng vấn<br />
để xác định phỏng vấn để xác định các dấu hiệu, hiện tượng của việc kết hôn giả, kết<br />
hôn vì mục đích vụ lợi …làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký kết hôn. Phương pháp này<br />
hiện chỉ mới áp dụng đối với một số trường hợp phụ nữ Việt Nam với người Đài Loan,<br />
chưa thể rút ra được điều gì làm bài học kinh nghiệm thực tế, qua các cuộc phỏng vấn<br />
đều cho thấy các bên quyết định đăng ký kết hôn rất vội vã, chỉ sau 1 lần gặp gỡ.<br />
Nhưng các bên đưa ra một số lý do vì muốn xây dựng mái ấm gia đình hoặc thậm chí<br />
họ đã tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau, nay chỉ việc hợp thức hóa việc kết hôn.<br />
Do đó, kết luận về một vụ việc vi phạm các điều cấm của Luật Hôn nhân và Gia đình<br />
làm cơ sở cho việc từ chối đăng ký kết hôn là rất khó và không thuyết phục.<br />
<br />
3. Về việc từ chối đăng ký kết hôn theo điểm b Khoản 1 Điều 16 Nghị định<br />
68/2002/NĐ-CP chưa có văn bản hướng dẫn xác định các căn cứ kết luận hôn nhân vi<br />
phạm các điều cấm, vi phạm nguyên tắc tự nguyện.<br />
4. Về việc hủy kết hôn trái phép<br />
<br />
Theo quy định tại Điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000, dẫn chiếu<br />
tại Điều 15, khoản 1 Điều 9 và Điều 10 thì không đề cập đến việc hủy kết hôn trái<br />
pháp luật khi việc kết hôn thực chất được xác định không nhằm mục đích xây dựng gia<br />
đình hạnh phúc, mà được coi là việc kết hôn giả tạo nhằm mục đích trục lợi. Ví dụ như<br />
hai bên đăng ký kết hôn để đi xuất cảnh và trả tiền.<br />
Tại khoản 2 Điều 4 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 có quy định: “…<br />
cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn”.<br />
Tại khoản 2 Điều 103 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 cũng có quy<br />
định: “nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ,<br />
xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác. Như vậy, việc kết<br />
hôn giả tạo vì mục đích trục lợi đều bị cấm, nếu ai thực hiện là trái với quy định của<br />
pháp luật, có bị hủy không? Hay chỉ cho ly hôn như hiện nay, do quy định về việc hủy<br />
kết hôn trái pháp luật không có quy định nội dung này.<br />
5. Các nước quản lý tình trạng hôn nhân của cá nhân theo cách riêng: Nhật Bản,<br />
Anh, Trung Quốc (Đài Loan) đều ghi chú vào hộ khẩu; Hàn Quốc không cấp bản án ly<br />
hôn, sau khi ly hôn, việc ly hôn được ghi vào sổ hộ tịch và căn cứ ghi chú đó xác định<br />
tình trạng hôn nhân.<br />
6. Việc ủy thác tư pháp quốc tế:<br />
<br />
Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp thì việc ủy thác tư pháp, tùy theo đối tượng là người<br />
nước ngoài, hoặc công dân Việt Nam ở nước ngoài mà việc ủy thác tư pháp được thực<br />
hiện thông qua Đại sứ quán, lãnh sự quán Việt Nam ở nước ngoài hoặc là do cơ quan<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />
26<br />
<br />
có thẩm quyền của nước ngoài, thông thường là tòa án nước ngoài thực hiện. Hồ sơ ủy<br />
thác được gửi ủy thác 2 lần, bao gồm các tài liệu chứng từ cả bản dịch ra tiếng nước<br />
ngoài sở tại, tốn kém chi phí khá nhiều của các đương sự ở trong nước. Nhưng thực tế<br />
cho thấy kết quả ủy thác tư pháp trong mấy năm qua thật là khiêm tốn, không có kết<br />
quả trả lời cho các nơi thực hiện ủy thác tư pháp theo yêu cầu của Tòa án nhân dân<br />
thành phố Hồ Chí Minh, trong khi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm<br />
đều có thực hiện và gửi trả hồ sơ cho các yêu cầu ủy thác của tòa án nước ngoài. Đối<br />
với những nước, lãnh thổ chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam về các<br />
công việc nói trên cũng cần được quy định, hướng dẫn và yêu cầu theo nguyên tắc có<br />
đi, có lại.<br />
<br />
7. Luật pháp Đài Loan công nhận việc ly hôn bằng hai hình thức văn bản: Bản thỏa<br />
thuận ly hôn giữa vợ chồng được đăng ký tại Phòng Hộ tịch hoặc bản án của Tòa án.<br />
Tuy nhiên, các tòa án địa phương rất lúng túng khi giải quyết loại án này do chưa có<br />
văn bản hướng dẫn nào của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục giải quyết việc ly hôn<br />
với một bên là người Trung Quốc (Đài Loan)<br />
III. KIẾN NGHỊ<br />
1. Các cơ quan chức năng của nhà nước ở trong nước cần tăng cường vai trò quản lý,<br />
ngăn chặn các hoạt động lừa đảo, bóc lột của những người môi giới kết hôn, thành lập<br />
các Trung tâm hỗ trợ kết hôn do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam quản lý và hoạt động<br />
theo nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận. Nội dung hoạt động nhằm xác định phương<br />
thức tiếp cận, tư vấn giới thiệu hôn nhân, hỗ trợ thủ tục đăng ký kết hôn, mở các lớp<br />
học về ngoại ngữ, phong tục,tập quán nước ngoài…<br />
Ngoài ra, cần đẩy mạnh các biện pháp hành chính, hình sự, nhằm đấu tranh với các<br />
mặt tiêu cực của các mặt xã hội phát sinh trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước<br />
ngoài.<br />
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình tại các<br />
địa bàn dân cư. Công tác tuyên truyền cần có sự phối hợp giữa chính quyền cơ sở, các<br />
tổ chức đoàn thể và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, thực hiện việc tư vấn, hỗ trợ hôn<br />
nhân, khảo sát nắm tình hình gia đình có phụ nữ lấy chồng nước ngoài, tuyên truyền<br />
pháp luật về bảo vệ quyền lợi, danh dự và nhân phẩm của phụ nữ.<br />
2. Có văn bản hướng dẫn về cơ sở pháp lý căn cứ từ chối đăng ký kết hông theo<br />
điểm b Khoản 1 Điều 16 Nghị định 68/2002/NĐ-CP.<br />
3. Cải tiến thủ tục đăng ký kết hôn, công nhận việc kết hôn ở nước ngoài, giải quyết<br />
ly hôn có yếu tố nước ngoài (như bổ sung mẫu lý lịch cá nhân về anh chi em ruột của<br />
cha mẹ đôi bên; việc ghi quốc tịch cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập<br />
quốc tịch nước ngoài trong giấy chứng nhận kết hôn, không thực hiện ghi chú ly hôn,<br />
trừ trường hợp bản án do tòa án nước ngoài xét xử vắng mặt phía công dân Việt Nam<br />
trong nước…)<br />
4. Tăng cường cơ chế phối hợp trong thẩm tra xác minh giữa các cơ quan Công an,<br />
Sở Tư pháp và các ngành có liên quan khác nhằm phát hiện, ngăn chặn các trường<br />
hợp không đủ điều kiện kết hôn hoặc vi phạm pháp luật.<br />
5. Tăng cường công tác đấu tranh xử lý các trường hợp vi phạm Luật hôn nhân và<br />
gia đình như chung sống không đăng ký kết hôn, vi phạm chế độ một vợ một chồng.<br />
Nghiêm khắc xử lý các đường dây tổ chức môi giới hôn nhân bất hợp pháp.<br />
6. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân Việt Nam trong các quan hệ<br />
hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Việt Nam cần mở rộng quan hệ hợp tác song phương;<br />
ký kết hiệp định tương trợ tư pháp các nước; đặc biệt là đối với các quốc gia có nhiều<br />
người Việt Nam đang định cư, sinh sống. Trước mắt, nếu chưa ký được các hiệp định<br />
tương trợ tư pháp, cần có thỏa thuận cấp quốc gia thực hiện nguyên tắc có đi có lại<br />
trong quan hệ đối ngoại, nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho công dân Việt Nam trong<br />
các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.<br />
<br />
<br />
Bản dịch của Nhà Pháp luật Việt - Pháp<br />