Nguyễn Thị Kim Phương<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
188(12/3): 65 - 70<br />
<br />
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM<br />
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN THÔNG QUA PHÁT TRIỂN KINH TẾ<br />
CỦA HUYỆN VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN<br />
Nguyễn Thị Kim Phương*<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía đông bắc của tỉnh Thái Nguyên, điều kiện tự nhiên khó<br />
khăn, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, trình độ lao động không cao nhưng trong những năm qua,<br />
Võ Nhai đã xác định lợi thế của mình so với hiều địa bàn khác của tỉnh trong phát triển kinh tế đó<br />
là: tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp theo vùng (Tiểu vùng 1 gồm 6 xã vùng<br />
cao: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn; Tiểu vùng 2 (vùng<br />
gò đồi) gồm 5 xã: Tràng Xá, Liên Minh, Dân Tiến, Bình Long và Phương Giao; Tiểu vùng 3 (vùng<br />
thấp) gồm 3 xã và 1 thị trấn dọc đường quốc lộ 1B là: La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng và thị trấn<br />
Đình Cả) từng bước phát triển công nghiệp và dịch vụ. Chính điều này đã góp phần thúc đẩy phát triển<br />
kinh tế của huyện, từ đó, giải quyết được việc làm cho người lao động (trên 85% người lao động có việc<br />
làm thường xuyên, tỷ lệ tạo và giải quyết việc làm mới đạt từ 112,1% - trên 179,5%), nhất là việc làm<br />
tại chỗ, mang lại sự thay đổi khá lớn trong đời sống kinh tế - xã hội địa phương.<br />
Từ khóa: Lao động, việc làm, giải quyết việc làm, lao động nông thôn, phát triển kinh tế<br />
<br />
MỞ ĐẦU*<br />
Khu vực nông thôn nước ta hiện có khoảng 61<br />
triệu người, chiếm 66,9% dân số cả nước;<br />
trong đó khu vực trung du và miền núi phía<br />
Bắc có 9,6 triệu người, chiếm 10,7% dân số cả<br />
nước. Số người trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên<br />
sống tại khu vực nông thôn là khoảng 46 triệu<br />
người, chiếm 65,7% so với cả nước. Theo báo<br />
cáo điều tra lao động việc làm quý 3 năm<br />
2016, số người đang làm việc ở khu vực nông<br />
thôn là khoảng 36,3 triệu người, chiếm 82,7%<br />
số người trong độ tuổi lao động ở khu vực này,<br />
tỷ lệ thất nghiệp là 17,3%.<br />
Như vậy, giải quyết việc làm cho cư dân nông<br />
thôn vốn là vấn đề cần quan tâm, nếu không<br />
được giải quyết tốt sẽ cản trở đến sự phát<br />
triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước,<br />
tác động trực tiếp đến việc giữ gìn an ninh<br />
chính trị, trật tự, an toàn xã hội.<br />
Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở phía đông<br />
bắc của tỉnh Thái Nguyên, cách thành phố<br />
37km. Toàn huyện có 14 xã và 01 thị trấn.<br />
Năm 2017, Võ Nhai có 67.637 nhân khẩu [1],<br />
số người trong độ tuổi lao động là 44.200<br />
người, chiếm 65,35% dân số toàn huyện. Là<br />
huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, 11/15<br />
*<br />
<br />
Tel: 0985 350919, Email: kimphuong48khql@gmail.com<br />
<br />
xã, thị trấn thuộc diện đặc biệt khó khăn nên<br />
nhiều lao động nông thôn, đặc biệt là đồng<br />
bào dân tộc thiểu số của huyện Võ Nhai còn<br />
hạn chế trong việc tiếp cận thông tin về các<br />
sàn giao dịch việc làm trong, ngoài tỉnh.<br />
Với bài viết “Thực trạng việc làm và giải quyết<br />
việc làm cho lao động nông thôn thông qua<br />
phát triển kinh tế của Võ Nhai, tỉnh Thái<br />
Nguyên”, tác giả muốn chỉ ra thực trạng việc<br />
làm, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn<br />
thông qua phát triển kinh tế của huyện Võ Nhai<br />
và đưa ra giải pháp góp phần giải quyết việc<br />
làm cho lao động của địa phương.<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Bài viết sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chính:<br />
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu<br />
các tài liệu về việc làm, giải quyết việc làm,<br />
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn;<br />
các văn bản pháp quy về việc làm và các tài<br />
liệu thực tế để đánh giá thực trạng giải quyết<br />
việc làm của địa phương.<br />
Phương pháp phỏng vấn sâu:<br />
+ Thực hiện phỏng vấn sâu đối với đại diện<br />
cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa<br />
phương để thu thập thông tin khái quát về lao<br />
động, việc làm, các kết quả chính, những<br />
thuận lợi khó khăn cơ bản cũng như định<br />
hướng giải quyết việc làm của địa phương.<br />
65<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Phương<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
KẾT QUẢVÀ BÀN LUẬN<br />
Khái quát thực trạng việc làm của lao động<br />
nông thôn huyện Võ Nhai<br />
Võ Nhai có tỷ lệ lực lượng lao động trên dân<br />
số tương đối cao. Tính đến thời điểm năm<br />
2017, lực lượng lao động trên toàn huyện có<br />
44.200 người, chiếm 65,35% dân số toàn<br />
huyện. Trong đó số lao động có việc làm là<br />
39.338 người (chiếm 89% tổng số lực lượng<br />
lao động trong độ tuổi). Giai đoạn 2013 –<br />
2015, trung bình mỗi năm, Võ Nhai tổ chức 10<br />
lớp đào tạo nghề cho khoảng 300 lao động địa<br />
phương. Các lớp đào tạo nghề chủ yếu là nghề<br />
nông nghiệp (sử dụng thuốc thu y trong chăn<br />
nuôi, chế biến chè, chăn nuôi gà…) và phi<br />
nông nghiệp trình độ sơ cấp (dưới 3 tháng) [2].<br />
Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên bình<br />
quân đạt từ 85% trở lên.<br />
Tại thời điểm năm 2017, lực lượng lao động<br />
làm việc trong các cơ sở kinh tế cá thể phi<br />
nông, lâm nghiệp và thủy sản là 10.484 người<br />
(chiếm 23,72%), đa số lao động hoạt động<br />
trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp với tỷ lệ<br />
76,28% tổng số lao động. Điều này cho thấy<br />
cơ cấu lao động tại Võ Nhai hiện nay chủ yếu<br />
là lĩnh vực nông, lâm nghiệp. Tỷ trọng lao<br />
động hoạt động trong lĩnh vực phi nông<br />
nghiệp còn thấp. Tuy nhiên so sánh qua các<br />
năm từ 2013 đến 2017 cho thấy Võ Nhai đã<br />
có những chuyển biến nhất định trong việc<br />
chuyển dịch cơ cấu lao động tại địa phương<br />
theo hướng phi nông nghiệp nhằm cải thiện<br />
tình trạng kinh tế cho các hộ gia đình.<br />
Mặc dù tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công<br />
nghiệp, thương mại và dịch vụ không cao, chỉ<br />
<br />
188(12/3): 65 - 70<br />
<br />
chiếm khoảng trên 20% tổng số lao động trên<br />
địa bàn huyện nhưng theo thống kê năm<br />
2017, giá trị sản phẩm (đạt 987,8 tỷ đồng)<br />
bằng 131,7% so với giá trị sản phẩm thu được<br />
từ sản xuất nông nghiệp (750 tỷ đồng).<br />
Nội dung giải quyết việc làm cho lao động<br />
nông thôn thông qua phát triển kinh tế của<br />
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên<br />
Vốn là một trong những huyện miền núi của<br />
tỉnh Thái Nguyên, xuất phát điểm kinh tế<br />
thấp, điều kiện tự nhiên khó khăn, địa hình<br />
chia cắt, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém,<br />
trình độ lao động không cao nhưng Võ Nhai<br />
đã xác định lợi thế của mình so với nhiều địa<br />
bàn khác của tỉnh trong phát triển kinh tế đó<br />
là: tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp,<br />
lâm nghiệp theo vùng, từng bước phát triển<br />
công nghiệp và dịch vụ.<br />
Về nông – lâm nghiệp<br />
Võ Nhai có 561,7/845,1km2 là đất lâm<br />
nghiệp; 77,24/845,1km2 là đất nông nghiệp.<br />
Địa hình phân bố thành 3 vùng rõ rệt là vùng<br />
núi cao, vùng gò đồi và vùng thấp. Do vậy,<br />
Võ Nhai đã tập trung sản xuất nông nghiệp<br />
theo từng tiểu vùng. Cụ thể như sau:<br />
Tiểu vùng 1 gồm 6 xã vùng cao: Nghinh<br />
Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Cúc<br />
Đường, Thần Sa, Vũ Chấn thích hợp cho<br />
trồng cây đặc sản và cây lâm nghiệp (chủ yếu<br />
là rừng keo hoặc rừng khoanh nuôi bảo vệ).<br />
Tiểu vùng 2 (vùng gò đồi) gồm 5 xã: Tràng<br />
Xá, Liên Minh, Dân Tiến, Bình Long và<br />
Phương Giao thích hợp trồng các loại cây ăn<br />
quả như bưởi diễn, bưởi hoàng, nhãn, cam.<br />
<br />
Bảng 1. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế huyện Võ Nhai giai đoạn 2013 – 2017<br />
Ngành<br />
<br />
Nông, lâm<br />
nghiệp<br />
Công<br />
nghiệp, xây<br />
dựng<br />
Thương<br />
mại, dịch vụ<br />
Tổng cộng<br />
<br />
66<br />
<br />
2013<br />
Số lao<br />
Tỷ<br />
động<br />
trọng<br />
(người)<br />
(%)<br />
<br />
2014<br />
Số lao<br />
Tỷ<br />
động<br />
trọng<br />
(người) (%)<br />
<br />
2015<br />
Số lao<br />
Tỷ<br />
động<br />
trọng<br />
(người) (%)<br />
<br />
2016<br />
Số lao<br />
Tỷ<br />
động<br />
trọng<br />
(người) (%)<br />
<br />
2017<br />
Số lao<br />
Tỷ<br />
động<br />
trọng<br />
(người)<br />
(%)<br />
<br />
35137<br />
<br />
82,29<br />
<br />
35254<br />
<br />
81,85<br />
<br />
35049<br />
<br />
80,63<br />
<br />
34423<br />
<br />
78,46<br />
<br />
33716<br />
<br />
76,28<br />
<br />
1518<br />
<br />
3,56<br />
<br />
1607<br />
<br />
3,73<br />
<br />
1959<br />
<br />
4,51<br />
<br />
2887<br />
<br />
6,58<br />
<br />
3408<br />
<br />
7,71<br />
<br />
6040<br />
<br />
14,15<br />
<br />
6212<br />
<br />
14,42<br />
<br />
6461<br />
<br />
14,86<br />
<br />
6566<br />
<br />
14,96<br />
<br />
7076<br />
<br />
16,01<br />
<br />
42695<br />
<br />
100<br />
<br />
43073<br />
100<br />
43469<br />
100<br />
43876<br />
100<br />
44200<br />
100<br />
Nguồn: Kết xuất từ cơ sở cung cấp lao động – Cục Lao động và Việc làm<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Phương<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Tiểu vùng 3 (vùng thấp) gồm 3 xã và 1 thị<br />
trấn dọc đường quốc lộ 1B là: La Hiên, Lâu<br />
Thượng, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả,<br />
thích hợp trồng các loại cây ăn quả như na, ổi,<br />
nhãn. Đặc biệt, Võ Nhai đã có cơ chế hỗ trợ<br />
về vốn và kĩ thuật sản xuất, cây giống, phân<br />
bón phù hợp với từng tiểu vùng đối với các<br />
hộ nông dân để hình thành các vùng trồng cây<br />
lâm nghiệp và cây ăn quả, cây đặc sản theo<br />
quy mô gia trại và hướng dần đến quy mô<br />
trang trại theo hướng sản phẩm an toàn.<br />
Võ Nhai cũng đã hỗ trợ các hộ gia đình phát<br />
triển ngành chăn nuôi ở quy mô gia trại như<br />
các mô hình nuôi vịt trời, bò thịt, bò cao sản,<br />
trồng cỏ để phục vụ chăn nuôi gia súc tại các<br />
xã Tràng Xá, La Liên.<br />
Một lãnh đạo địa phương cho biết, “Nắm rõ<br />
đặc điểm từng loại đất của địa phương, Võ<br />
Nhai đã đưa vào các loại cây con giống thích<br />
hợp với từng địa bàn, hỗ trợ bà con vốn, kỹ<br />
thuật sản xuất để phát triển kinh tế hộ theo<br />
hướng sản xuất hàng hóa quy mô gia trại.<br />
Sắp tới, Võ Nhai sẽ tiếp tục phát huy những<br />
kết quả đạt được, vận động các hộ tiếp tục<br />
chuyển đổi cơ cấu cây trồng,vật nuôi phù<br />
hợp; đồng thời hỗ trợ một số hộ đang sản<br />
xuất quy mô gia trại mở rộng sang quy mô<br />
trang trại ”.<br />
Các mô hình sản xuất nông nghiệp này đã góp<br />
phần đáng kể trong việc giải quyết lao động<br />
nông thôn tại chỗ của Võ Nhai và mang lại<br />
thu nhập tương đối cao cho các hộ gia đình.<br />
Về công nghiệp và dịch vụ<br />
Võ Nhai hiện có khoảng 50 doanh nghiệp và<br />
hợp tác xã, 450 hộ cá thể hoạt động trong lĩnh<br />
vực công nghiệp – dịch vụ gồm: sản xuất<br />
nông cụ và sửa chữa cơ khí, khai thác khoáng<br />
sản vật liệu xây dựng tại La Hiên, Cúc<br />
Đường, sản xuất chế biến nông sản, thực<br />
<br />
188(12/3): 65 - 70<br />
<br />
phẩm và một số ngành nghề tiểu thủ công<br />
nghiệp nhỏ khác song quy mô doanh nghiệp<br />
nhỏ, chất lượng và sức cạnh tranh của sản<br />
phẩm chưa cao, môi trường đầu tư chưa thực<br />
sự hấp dẫn.<br />
Riêng về dịch vụ du lịch, tuy có lợi thế địa<br />
hình có dãy núi đá vôi xen lẫn núi đất trùng<br />
điệp tạo nên những thắng cảnh đẹp tự nhiên<br />
như quần thể hang động Phượng Hoàng, Suối<br />
Mỏ Gà và hang động Nà Kháo, Hang<br />
Huyền,... và nhiều di tích văn hóa, lịch sử như<br />
Mái Đá Ngườm ở xã Thần Sa là cái nôi ra đời<br />
sớm nhất của người Âu Lạc, rừng Khuôn<br />
Mánh xã Tràng Xá là nơi thành lập đội cứu<br />
quốc quân II nhưng hạ tầng phục vụ du lịch<br />
còn yếu kém, công tác quảng bá và đầu tư cho<br />
du lịch còn hạn chế nên kết quả thu được<br />
chưa nhiều, chưa đóng góp nhiều vào việc<br />
giải quyết việc làm cho lao động địa phương<br />
cũng như phát triển kinh tế.<br />
Theo đánh giá, năm 2017, nhiều chỉ tiêu phát<br />
triển KT-XH của Võ Nhai đạt và vượt so với<br />
kế hoạch đề ra, như: Giá trị sản xuất công<br />
nghiệp - xây dựng đạt 987,8 tỷ đồng (tăng<br />
122,5% so với năm 2016); giá trị sản xuất<br />
nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt 750 tỷ đồng<br />
(tăng 4,1% so với năm 2016); Thu nhập bình<br />
quân đầu người ước đạt 15 triệu<br />
đồng/người/năm. Tại các xã đạt chuẩn nông<br />
thôn mới trên 20 triệu đồng/người/năm.<br />
Tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ<br />
hàng năm và phương hướng, mục tiêu năm<br />
tiếp theo từ 2013 – 2017 [2,3,4,5,6] của<br />
Phòng LĐ-TB&XH huyện Võ Nhai cho thấy,<br />
trong giai đoạn này, Võ Nhai đều đạt và vượt<br />
các chỉ tiêu đề ra về tạo việc làm mới và giải<br />
quyết việc làm cho lao động địa phương. Cụ<br />
thể như sau:<br />
<br />
Bảng 2. Chỉ tiêu tạo việc làm mới và kết quả giải quyết việc làm từ 2013 – 2017 của huyện Võ Nhai.<br />
Năm<br />
2013<br />
2014<br />
2015<br />
2016<br />
2017<br />
<br />
Chỉ tiêu tạo việc làm mới (việc làm)<br />
950<br />
1050<br />
1000<br />
1000<br />
1000<br />
<br />
Kết quả tạo việc làm mới (việc làm)<br />
1065<br />
1318<br />
1516<br />
1795<br />
1335<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
112,1<br />
125,5<br />
151,6<br />
179,5<br />
133,5<br />
<br />
Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh & Xã hội huyện Võ Nhai (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo<br />
kết quả thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ và phương hướng công tác Lao động, Thương binh và Xã hội.<br />
<br />
67<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Phương<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Võ Nhai luôn đạt từ 112,1% đến 179,5% so<br />
với mục tiêu đề ra. Đây là kết quả của thể<br />
hiện sự chú trọng vào hoạt động tạo việc làm<br />
mới và thực hiện chính sách giải quyết việc<br />
làm cho lao động nông thôn của địa phương.<br />
Từ thực trạng trên, ta thấy việc giải quyết việc<br />
làm cho lao động nông thôn Võ Nhai đã đạt<br />
được những ưu điểm như sau:<br />
Thứ nhất, Võ Nhai có tỷ lệ lực lượng lao<br />
động trên dân số tương đối cao (chiếm<br />
khoảng 65% dân số toàn huyện). Đây là<br />
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế<br />
nhất là đối với một huyện miền núi, chủ yếu<br />
sản xuất nông – lâm nghiệp như Võ Nhai.<br />
Thứ hai, tỷ lệ lao động có việc làm khá lớn<br />
(chiếm trên 90% tổng số lực lượng lao động<br />
trong độ tuổi). Tỷ lệ lao động có việc làm<br />
thường xuyên trên địa bàn huyện bình quân các<br />
xã đạt trên 85% đã đảm bảo đời sống nhân dân<br />
và góp phần phát triển kinh tế địa phương.<br />
Thứ ba, cơ cấu việc làm của lao động Võ<br />
Nhai đã có sự chuyển dịch dần từ khu vực<br />
nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây<br />
dựng, dịch vụ. Sự dịch chuyển này là tất yếu,<br />
góp phần đa dạng nguồn thu nhập cho hộ gia<br />
đình nông thôn và theo đúng xu hướng phát<br />
triển chung. Điều này cũng phản ánh sự thay<br />
đổi trong cơ cấu kinh tế Võ Nhai trong thời<br />
gian qua. Đã xuất hiện các mô hình kinh tế<br />
nông nghiệp hiệu quả, hình thành các vùng<br />
sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất<br />
hàng hóa chất lượng đáp ứng nhu cầu người<br />
tiêu dùng và nâng cao giá trị sản xuất.<br />
Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần<br />
nhận thấy rằng, giải quyết việc làm cho lao<br />
động nông thôn huyện Võ Nhai, tỉnh Thái<br />
Nguyên còn có những hạn chế cần khắc<br />
phục. Cụ thể như sau:<br />
Thứ nhất, sự chuyển dịch trong cơ cấu việc<br />
làm còn chậm. Điều này có nghĩa, sự chuyển<br />
dịch cơ cấu kinh tế địa phương tuy có nhưng<br />
còn chậm, nông nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ<br />
trọng lao động rất cao (gần 80% cơ cấu lao<br />
động toàn huyện) và cao hơn mặt bằng chung<br />
cả nước khoảng 13% (lao động nông thôn<br />
nước ta chiếm 66,6% số người trong độ tuổi<br />
lao động). Trong thời gian tới, Võ Nhai cần<br />
68<br />
<br />
188(12/3): 65 - 70<br />
<br />
phấn đấu giá tăng giá trị sản lượng nhưng cần<br />
giảm số lao động trong nông nghiệp để nâng<br />
cao thu nhập cho người dân.<br />
Thứ hai, chất lượng việc làm chưa cao, thiếu<br />
tính bền vững. Theo kết quả khảo sát, số lao<br />
động đang làm việc cho các doanh nghiệp<br />
trong và ngoài tỉnh khá đông nhưng đa phần<br />
là công nhân, lao động phổ thông và tập trung<br />
trong lĩnh vực điện tử, công nghiệp phụ trợ,<br />
may mặc. Do đặc thù công việc của các đơn<br />
vị này nên thường người lao động chỉ làm<br />
việc trong một thời gian ngắn vài năm hoặc<br />
cho đến khi 35-40 tuổi. Những lao động này<br />
khi không làm việc ở các doanh nghiệp, trở về<br />
địa phương sẽ tạo ra những áp lực lớn cho<br />
huyện trong vấn đề đảm bảo việc làm, thu<br />
nhập và các điều kiện sống khác.<br />
Thảo luận<br />
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả đề<br />
xuất một số giải pháp nhằm giải quyết việc<br />
làm cho lao động nông thôn của huyện Võ<br />
Nhai thông qua phát triển kinh tế như sau:<br />
Về nông, lâm nghiệp<br />
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất<br />
với chế biến và thị trường. Phát triển sản xuất<br />
với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hoá<br />
có lợi thế.<br />
Với Võ Nhai, mặc dù đất được đánh giá là<br />
xấu, không phù hợp với sản xuất cây lương<br />
thực nhưng lại khá phù hợp để phát triển cây<br />
ăn quả, cây lâm nghiệp hoặc các mô hình chăn<br />
nuôi. Do vậy, mô hình nông lâm kết hợp đã<br />
được lựa chọn vì phù hợp với điều kiện địa<br />
phương cũng như khả năng sản xuất của các hộ<br />
thì trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh.<br />
Hiện nay, tại Võ Nhai, mô hình cây căn quả<br />
(cây hồng, cam, quýt, nhãn, na) được trồng<br />
thành vườn với quy mô từ vài trăm đến vài<br />
nghìn gốc; mô hình cây lâm nghiệp – cây ăn<br />
quả - cây lương thực (đỉnh đồi có độ dốc lớn<br />
trồng cây lâm nghiệp (chủ yếu là rừng keo<br />
hoặc rừng khoanh nuôi bảo vệ), dưới tán rừng<br />
chăn nuôi dê, phần lưng đồi trồng cây ăn quả<br />
(chủ yếu là cây na ở phía trên, cây nhãn, bưởi,<br />
cam, ổi phía dưới), chân núi, thung lũng trồng<br />
cây lương thực cho thu nhập vài trăm<br />
triệu/năm khá phổ biến.<br />
<br />
Nguyễn Thị Kim Phương<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Đặc biệt, mô hình này được phổ rộng trên<br />
nhiều xã của Võ Nhai trên cơ sở xác định thế<br />
mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trường của<br />
các sản phẩm. Cụ thể như sau: xã Nghinh<br />
Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Cúc<br />
Đường, Thần Sa, Vũ Chấn trồng cây lâm<br />
nghiệp (chủ yếu là rừng keo hoặc rừng<br />
khoanh nuôi bảo vệ); xã Tràng Xá, Liên<br />
Minh, Dân Tiến, Bình Long và Phương Giao<br />
thích hợp trồng cây ăn quả như bưởi diễn,<br />
bưởi hoàng, nhãn, cam; La Hiên, Lâu<br />
Thượng, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả<br />
trồng các loại cây ăn quả như na, ổi, nhãn.<br />
Ngoài ra, còn có các mô hình phát triển kinh<br />
tế hộ theo hướng chăn nuôi những giống có<br />
giá trị kinh tế cao như mô hình nuôi bò thịt<br />
(quy mô vài chục con), nuôi vịt trời (quy mô<br />
vài nghìn con), nuôi lợn rừng (quy mô vài<br />
chục con)...<br />
Hỗ trợ nông dân tiếp cận sản xuất theo chuỗi<br />
từ cây – con giống, kỹ thuật sản xuất đến bao<br />
tiêu sản phẩm.<br />
Trong thời gian vừa qua, một số địa phương ở<br />
khu vực miền núi phía Bắc như Hòa Bình,<br />
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang... đã tiếp<br />
cận sản xuất theo chuỗi tương đối tốt. Võ<br />
Nhai hiện có rất nhiều sản phẩm nông nghiệp<br />
được đánh giá cao, được thị trường đón nhận<br />
nhưng đa phần việc thiêu thụ sản phẩm vẫn<br />
chủ yếu là các hộ tự tìm thị trường hoặc<br />
thương lái tới địa phương thu mua. Mặc dù,<br />
Võ Nhai đã định hướng được người dân trong<br />
sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn nhưng<br />
gần như chưa có hợp đồng bao tiêu sản phẩm<br />
với các doanh nghiệp. Điều này dẫn tới hệ<br />
quả bếp bênh trong sản xuất, được mùa mất<br />
giá hoặc bị ép giá. Điển hình cho hiện tượng<br />
này là vừa qua, tại Tràng Xá, bí đỏ bị mất giá,<br />
không tiêu thụ được, người dân bị thua lỗ.<br />
Võ Nhai cũng chưa chú ý tới việc đăng ký<br />
bảo hộ sở hữu cho các sản phẩm nông, lâm<br />
nghiệp của địa phương. Tính tới thời điểm<br />
hiện tai, Võ Nhai chỉ có 1 sản phẩm được bảo<br />
hộ dưới nhãn hiệu tập thể là “Na La Hiên”,<br />
chưa có sản phẩm nào bảo hộ dưới dạng chỉ<br />
dẫn địa lý trong khi tiềm năng bảo hộ các sản<br />
phẩm nông sản của địa phương dưới dạng này<br />
<br />
188(12/3): 65 - 70<br />
<br />
hoặc nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận<br />
là khá lớn.<br />
Do vậy, thời gian tới, bên cạnh việc phát triển<br />
quy mô sản xuất nông, lâm nghiệp, Võ Nhai<br />
cần chú ý tiếp cận sản xuất theo chuỗi, tìm<br />
kiếm thị trường hoặc hỗ trợ người dân tiếp<br />
cận thông tin thị trường, hỗ trợ bảo hộ đối với<br />
các đặc sản địa phương.<br />
Về công nghiệp và dịch vụ, thương mại<br />
Nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất công<br />
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu<br />
kinh tế. Lập quy hoạch các cụm công nghiệp,<br />
làng nghề; đầu tư xây dựng hệ thống chợ và<br />
trung tâm thương mại trên địa bàn, phát triển<br />
đa dạng các loại hình dịch vụ; khai thác có<br />
hiệu quả và nâng cao chất lượng các hoạt<br />
động tài chính tín dụng, quan tâm đầu tư phát<br />
triển các khu du lịch sinh thái đã được quy<br />
hoạch, tổ chức các hoạt động quảng bá, giới<br />
thiệu các sản phẩm có lợi thế trên địa bàn<br />
huyện, thực hiện tốt công tác quản lý nhà<br />
nước về thương mại, dịch vụ bảo vệ quyền lợi<br />
người tiêu dùng.<br />
Phát triển bền vững các doanh nghiệp vừa và<br />
nhỏ trên địa bàn huyện, tiếp tục tạo cơ chế<br />
thông thoáng, cải cách thủ tục hành chính, hỗ<br />
trợ các doanh nghiệp tiếp cận về vốn và thị<br />
trường từ đó góp phần tạo thêm việc làm mới<br />
cho người lao động nông thôn tại các doanh<br />
nghiệp vừa và nhỏ.<br />
Hàng năm tổ chức các cuộc gặp mặt, đối thoại<br />
giữa UBND huyện, các cấp các ngành với<br />
doanh nghiệp nhằm trao đổi thông tin, tháo gỡ<br />
vướng mắc, khó khăn trong hoạt động sản<br />
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và<br />
vừa; tuyên dương, khen thưởng các doanh<br />
nghiệp có thành tích xuất sắc trong kinh<br />
doanh, có sáng tạo trong thiết kế mẫu mã và<br />
truyền dạy nghề.<br />
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước cấp<br />
huyện: cần tạo điều kiện để các nhà đầu tư<br />
trong và ngoài nước tìm hiểu cơ hội đầu tư<br />
thông qua việc giới thiệu định hướng phát<br />
triển kinh tế xã hội, quy hoạch các khu công<br />
nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các<br />
nhà đầu tư vào các khu công nghiệp trong<br />
khuôn khổ pháp luật như giảm tối đa giá thuê<br />
69<br />
<br />