TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 19, 2003<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM <br />
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH CÔNG BẰNG XÃ HỘI <br />
Phan Thị Minh Lý, Lại Xuân Thủy<br />
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br />
<br />
<br />
Luật thuế GTGT ở Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 10 tháng 5 <br />
năm 1997 và chính thức áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Ngoài các mục tiêu đảm <br />
bảo nguồn thu cho NSNN và đảm bảo ổn định thị trường, đảm bảo tính công bằng <br />
và góp phần phân phối lại thu nhập là một trong những mục tiêu cơ bản của Luật <br />
thuế GTGT. Vấn đề thuế GTGT và công bằng xã hội đã được nhiều chuyên gia và <br />
quản lý thuế trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu của họ đã đi đến <br />
những kết luận khá đồng nhất. Họ cho rằng thuế GTGT có tác dụng phân phối lại <br />
thu nhập nhưng rất hạn chế. Ở Việt Nam cũng đã có một số nghiên cứu về chủ đề <br />
này, tuy nhiên chủ yếu là các nghiên cứu định tính mà chưa có cơ sở số liệu cụ thể. <br />
Vì vậy, trong bài viết này, dựa trên số liệu điều tra thu nhập và ngân sách chi tiêu của <br />
530 hộ gia đình ở tỉnh Thừa Thiên Huế chúng tôi muốn tập trung trả lời câu hỏi sau <br />
đây: <br />
Phải chăng thuế GTGT ở Việt Nam là một sắc thuế công bằng, nó có tác <br />
dụng đáng kể vào phân phối lại thu nhập hay không? <br />
1. Khái niệm công bằng xã hội: <br />
Công bằng xã hội là một khái niệm rộng lớn và có thể được nghiên cứu dưới <br />
nhiều góc độ khác nhau. Trong mối quan hệ với thuế, công bằng có thể được hiểu là <br />
gánh nặng thuế đối với các hộ gia đình thay đổi tỷ lệ với vị trí xã hội, kinh tế và quy <br />
mô nhân khẩu của họ. Tuy nhiên trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn xem xét sự <br />
thay đổi của gánh nặng thuế GTGT trong quan hệ với ngân sách chi tiêu của các hộ <br />
gia đình. Để có sự thay đổi tỷ lệ nói trên, về mặt lý thuyết, thuế GTGT cần có các <br />
mức thuế suất khác nhau (tất nhiên không quá nhiều để tránh gây chồng chéo, khó <br />
hiểu trong quá trình thực hiện), trong đó mức thuế suất thấp áp dụng cho các mặt <br />
hàng tiêu dùng thiết yếu và mức thuế suất cao áp dụng cho các mặt hàng xa xỉ. Kết <br />
<br />
13<br />
quả là những hộ có ngân sách chi tiêu thấp sẽ chịu thuế GTGT ít hơn những hộ có <br />
ngân sách chi tiêu cao, từ đó mà tiêu dùng thực tế của họ sẽ xích lại gần nhau hơn, <br />
hay nói cách khác phân phối ngân sách chi tiêu của họ công bằng hơn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
14<br />
2.Phương pháp tiếp cận: <br />
Khi nghiên cứu về công bằng xã hội và đánh giá tác dụng phân phối lại thu <br />
nhập của thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng, các nhà kinh tế thường áp dụng hai <br />
cách tiếp cận: tiếp cận vĩ mô và tiếp cận vi mô. Với phương pháp thứ nhất các <br />
nghiên cứu phân tích tổng quát ảnh hưởng của các sắc thuế hoặc chính sách thuế <br />
trong mối tương quan của toàn bộ nền kinh tế thông qua sử dụng chủ yếu các dữ <br />
liệu kinh tế vĩ mô, do vậy tác dụng phân phối lại thu nhập của thuế ở đây được xem <br />
xét ở mức độ rất chung. Đại diện cho nhóm này là Bloch & Maurel, Darmon & Hardy <br />
(1989). Phương pháp thứ hai được sử dụng rất rộng rãi với đại diện là King (1983), <br />
Bacouche & Laisney, Barker & cộng tác viên (1990), Nichèle & Robin (1993)… lại sử <br />
dụng các dữ liệu vi mô, tức là sử dụng các thông tin cá nhân để đánh giá ảnh hưởng <br />
của các chính sách thuế và tác dụng phân phối lại thu nhập của nó dựa trên lý thuyết <br />
kinh tế vi mô về thái độ người tiêu dùng. Trong nghiên cứu này, để phù hợp với mục <br />
đích nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận thứ hai, tức là dựa trên <br />
thông tin cá nhân từ điều tra thu nhập và ngân sách chi tiêu dùng của các hộ gia đình <br />
để từ đó đánh giá tác động của thuế GTGT đến phân phối lại thu nhập. <br />
3. Một số nghiên cứu điển hình về thuế GTGT và công bằng xã hội:<br />
Chúng tôi trích dẫn hai nghiên cứu mà chúng tôi cho rằng rất có ý nghĩa về <br />
chủ đề này. Thứ nhất, đó là nghiên cứu của Baslé về “Thuế GTGT: Tăng trưởng và <br />
công bằng” năm 1974, Cộng hòa Pháp. Trong nghiên cứu này tác giả đánh giá tác <br />
động của thuế GTGT ở Pháp đối với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, đặc <br />
biệt là tác động của cải cách thuế GTGT năm 1968. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng <br />
thuế GTGT ở Pháp trong giai đoạn nghiên cứu đã có tác dụng phân phối lại thu nhập. <br />
Mới đây, trong báo cáo gửi lên Tổng Thống Pháp năm 2001, Hội đồng Thuế của <br />
Cộng hòa Pháp kết luận rằng thuế GTGT ở Pháp có tác dụng phân phối lại thu nhập <br />
vì trên thực tế nếu tính theo ngân sách chi tiêu nó là một loại thuế lũy tiến mặc dù <br />
trước đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nó là loại thuế lũy thoái. Tuy nhiên tác <br />
động của thuế GTGT không rõ nét như tác động của thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt <br />
là trong điều kiện các nước phát triển.<br />
4. Các chỉ tiêu đo lường và đánh giá công bằng xã hội và tác dụng phân <br />
phối lại thu nhập của thuế GTGT: <br />
Với khái niệm về công bằng nêu trên, để đo được mức độ tỷ lệ của thuế <br />
GTGT và thu nhập cũng như mức độ đóng góp của thuế GTGT vào phân phối lại thu <br />
nhập, chúng tôi sử dụng các chỉ tiêu và phương pháp sau đây:<br />
1) Độ lệch chuẩn của ngân sách chi tiêu có thuế GTGT và sau khi đã trừ đi <br />
thuế cho tổng số hộ điều tra. Chỉ tiêu này đo mức độ phân tán của ngân sách chi tiêu <br />
15<br />
của các hộ có thuế và không có thuế GTGT. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện độ phân <br />
tán, hay nói cách khác là mức độ bất bình đẳng trong phân phối ngân sách chi tiêu <br />
giữa các hộ càng lớn. <br />
2) Tỷ lệ đánh thuế GTGT trong tiêu dùng trung bình theo 5 nhóm chi tiêu với <br />
trật tự tăng dần từ nhóm 1 đến nhóm 5, mỗi nhóm chiếm 20% số hộ trong mẫu điều <br />
tra. Chỉ tiêu này phản ánh gánh nặng thuế GTGT đối với từng nhóm chi tiêu, tính <br />
bằng phần trăm so với ngân sách tiêu dùng trung bình của từng nhóm. Tỷ lệ này càng <br />
lớn thể hiện gánh nặng thuế GTGT càng cao.<br />
3) Tỷ trọng đóng góp thuế GTGT của mỗi nhóm tính bằng phần trăm của số <br />
thuế GTGT của mỗi nhóm so với tổng số thuế GTGT của tất cả 5 nhóm. <br />
4) Đường cong Lorenz biểu hiện mức độ tập trung phân phối ngân sách chi <br />
tiêu trước và sau thuế GTGT. Đường cong này càng cách xa đường 450 (đường công <br />
bằng tuyệt đối) thể hiện ngân sách chi tiêu dùng của nhóm người nghèo càng cách xa <br />
ngân sách chi tiêu dùng của nhóm người giàu, tức là mức độ bất công bằng càng cao.<br />
Tại sao chúng tôi sử dụng chỉ tiêu ngân sách chi tiêu mà không sử dụng chỉ <br />
tiêu thu nhập ? Bởi vì hai lý do sau đây. Thứ nhất, thường các hộ gia đình đánh giá <br />
thu nhập của họ thấp hơn mức thu nhập thực tế, như vậy s ử d ụng ch ỉ tiêu ngân sách <br />
chi tiêu sẽ chính xác hơn. Thứ hai, phần để dành tiết kiệm cũng sẽ được đưa ra tiêu <br />
dùng trong tương lai khi họ mua hàng hóa, dịch vụ, lúc đó phần tiết kiệm này cũng sẽ <br />
phải chịu thuế GTGT và sẽ được tính vào ngân sách chi tiêu ở thời điểm đó.<br />
5. Kết quả nghiên cứu:<br />
Với thông tin từ điều tra, chúng tôi thu được kết quả sau đây:<br />
1) Độ lệch chuẩn của ngân sách chi tiêu giảm đi đáng kể giữa trạng thái có <br />
thuế GTGT và sau khi đã trừ đi thuế GTGT , tương ứng giảm từ 7.11 xuống 6.52, <br />
chứng tỏ mức độ phân tán của ngân sách chi tiêu của các hộ ở trạng thái có thuế <br />
GTGT cao hơn so với trạng thái không có thuế GTGT. Hay nói cách khác là mức độ <br />
bất bình đẳng trong phân bổ chi tiêu của các hộ gia đình ở trạng thái sau thấp hơn <br />
trạng thái đầu, điều này cũng có nghĩa là ngân sách chi tiêu thực của các hộ gia đình <br />
đã được cải thiện hơn và trở nên công bằng hơn so với ngân sách chi tiêu danh nghĩa.<br />
Bảng 1: Độ lệch chuẩn của ngân sách chi tiêu có và không có thuế GTGT<br />
<br />
Chỉ tiêu Tối thiểu Tối đa Trung bình Độ lệch chuẩn<br />
Ngân sách chi tiêu có thuế <br />
6.00 45.00 18.23 7.11<br />
GTGT<br />
Ngân sách chi tiêu không có <br />
5.68 41.55 16.97 6.52<br />
thuế GTGT<br />
<br />
16<br />
Tuy nhiên theo các chuyên gia thống kê, chúng ta cần thận trọng khi sử dụng <br />
chỉ tiêu này vì nó thường có những sai lệch nhất định, do vậy, chúng tôi sử dụng phối <br />
hợp với các chỉ tiêu khác để có thể đi đến được kết luận chính xác hơn.<br />
2) Tỷ lệ đánh thuế GTGT trong tiêu dùng trung bình tăng dần theo 5 nhóm chi <br />
tiêu. Nhóm 1 có thu nhập và ngân sách chi tiêu dùng thấp nhất, tương ứng trung bình <br />
13.53 triệu và 12.35 triệu đồng/hộ/năm chịu mức thuế GTGT trung bình thấp nhất <br />
(6.65%), nhóm 3 với mức thu nhập và ngân sách chi tiêu dùng trung bình, tương ứng <br />
là 17.13 triệu và 15.42 triệu đồng/hộ/năm chịu mức thuế GTGT trung bình là 7.23% <br />
và nhóm 5 có mức thu nhập và ngân sách chi tiêu dùng cao nhất, tương ứng là 35.64 <br />
triệu và 30.44 triệu đồng/hộ/năm chịu mức thuế GTGT cao nhất, tương ứng là <br />
8.41%. Như vậy khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ đánh thuế GTGT trong tiêu dùng <br />
của nhóm chi tiêu thấp nhất và cao nhất là 1,76%, cao hơn mức chênh lệch này ở <br />
Pháp (1,5%) vào thời điểm cải cách thuế GTGT năm 1968 (Baslé. Thuế GTGT : Tăng <br />
trưởng và công bằng. Luận văn tiến sỹ năm 1974, trang 402). Nếu so sánh mức <br />
chênh lệch này với mức thuế suất thuế GTGT phổ biến hiện nay ở Việt Nam thì đây <br />
là một con số đáng kể. <br />
Bảng 2: Tỷ lệ đánh thuế trong tiêu dùng <br />
và đóng góp thuế GTGT theo các nhóm chi tiêu<br />
<br />
Chỉ tiêu Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5<br />
Thu nhập bình quân (triệu 13.53 15.19 17.13 22.82 35.64<br />
đồng/hộ/năm)<br />
Ngân sách chi tiêu bình quân 12.35 13.88 15.42 19.08 30.44<br />
(triệu đồng/hộ/năm)<br />
Tỷ lệ đánh thuế GTGT bình 6.65 6.88 7.23 7.24 8.41<br />
quân (%)<br />
Tỷ lệ đóng góp thuế GTGT 12.51 14.25 16.34 21.60 35.45<br />
(%)<br />
<br />
3) Tỷ trọng đóng góp thuế GTGT của các nhóm cũng tăng dần từ nhóm 1 đến <br />
nhóm 5, trong đó 20% hộ có ngân sách chi tiêu dùng thấp nhất chỉ chịu 12.51% tổng <br />
thuế GTGT và 20% hộ với ngân sách tiêu dùng cao nhất gánh chịu tới 35.45% tổng <br />
thuế GTGT. Chênh lệch giữa hai tỷ trọng này thật sự là không nhỏ (22,94%), tuy có <br />
thấp hơn so với mức chênh lệch ở Pháp (26.4%) vào năm 1968 (Baslé. Thuế GTGT: <br />
Tăng trưởng và công bằng. Luận văn tiến sỹ năm 1974.Trang 413). Kết quả là tiêu <br />
<br />
17<br />
dùng thực của các nhóm hộ sẽ xích lại gần nhau hơn dưới tác động của thuế GTGT, <br />
tức là làm cho phân phối ngân sách chi tiêu giữa các nhóm hộ trở nên công bằng hơn. <br />
4) Đường cong Lorenz cho thấy, tiêu dùng thực trạng thái đã loại trừ thuế <br />
GTGT gần đường công bằng tuyệt đối hơn, chứng tỏ mức độ bình đẳng của nó cao <br />
hơn phân phối tiêu dùng danh nghĩa – bao gồm cả thuế GTGT. <br />
Phan tr am cong don ti eu dung/ti eu dung thuc<br />
<br />
<br />
<br />
100<br />
Phần trăm cộng dồn tiêu dùng/tiêu dùng thực<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
80<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
60<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
40<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
T I EU DUNG<br />
20<br />
<br />
T I EU DUNG T HUC<br />
<br />
<br />
0 DUONG 4 5°<br />
Tiêu<br />
0 dùng 20 40 60 80 100<br />
Tiêu dùng thực<br />
Phan tr am ho cong don<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Như vậy, với ba chỉ tiêu phân tích và biểu đồ đường cong Lorenz biểu diễn <br />
trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay có tác <br />
động đáng kể vào phân phối lại thu nhập. Thực tế, thuế thu nhập cá nhân với các <br />
mức thuế suất cao hơn và chênh lệch nhau nhiều về lý thuyết sẽ có tác dụng phân <br />
phối lại thu nhập cao hơn thuế GTGT. Tuy nhiên, điều này theo chúng tôi chỉ đúng <br />
với điều kiện ở các n ước phát triển khi mà thu nhập của dân cư cao, diện chịu thuế <br />
Phần trăm hộ cộng dồn<br />
<br />
rộng, phạm vi điều chỉnh và tác động phân phối lại thu nhập của thuế thu nhập cá <br />
nhân mới phát huy được. Đối với các nước thu nhập dân cư thấp như Việt Nam, <br />
diện chịu thuế hẹp thì tác dụng phân phối lại thu nhập của loại thuế này chắc chắn <br />
còn rất hạn chế. Trong điều kiện như vậy, thuế GTGT sẽ còn đóng vai trò đáng kể <br />
không chỉ cho số thu NSNN mà còn có tác dụng phân phối lại thu nhập, thể hiện tính <br />
công bằng xã hội của loại thuế tiến bộ này. Chúng tôi xin lưu ý một điều là kết luận <br />
trong nghiên cứu này chỉ dựa trên số liệu điều tra ở phạm vi một tỉnh nên mức độ đại <br />
diện còn hạn chế. Các mức thuế suất thuế GTGT chúng tôi sử dụng trong nghiên <br />
cứu này được điều chỉnh theo Nghị quyết 240/2000/NQUBTVQH10 ngày <br />
27/10/2000 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, do vậy các kết luận trên đây chỉ đúng <br />
trong điều kiện đó. <br />
<br />
<br />
18<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Basle M. Taxe sur la TVA françaiseCroissance et équite. Thèse 1974<br />
2. Bourguignon F. Fiscalité et Redistribution Rapport du Conseil d’Analyse <br />
Economique . La Documentation française (1998)<br />
3. Laisney F., Muhleisen M., Staat M., Vogele S. Simulation de réformes de la fiscalité <br />
directe et indirecte des ménages en France. Economie et Prévision, no 110111 (1993) <br />
4/5, 129145<br />
4. Brashares E., Speyrer J.F., Carlson g.n. Distributional Aspects of a Federal Value<br />
Added Tax. National Tax Journal. Vol. XLI, no 2 (June 1988)155 174<br />
5. Conseil des Impôts. La Taxe sur la Valeur Ajoutée. Dixneuvième rapport au Président <br />
de la République. Les éditions des Journaux Officiels (2001)<br />
6. Bộ Tài chính, Tổng Cục Thuế. Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về thuế giá trị <br />
gia tăng đã được sửa đổi bổ sung. Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội (12001).<br />
<br />
<br />
VALUE ADDED TAX IN VIETNAM<br />
SOME ASPECTS RELATED TO EQUITY<br />
<br />
Phan Thi Minh Ly, Lai Xuan Thuy<br />
College of Economics, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
Based on the survey data on income and expenditure budget of 530 households in 2001 <br />
in Thua Thien Hue and micro economic approach, this study found that in the current <br />
conditions in Vietnam, as the people’s income is low, VAT is apparently effective in income <br />
redistribution, which indicates social equity characteristics of this modern tax. This conclusion, <br />
however, should be tested in a larger sample and updated by the most recently amended Law <br />
on VAT in Vietnam. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />