Tham khảo tài liệu 'thương hàn dễ gây nhiều biến chứng, vì sao?', y tế - sức khoẻ, y học thường thức phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Thương hàn dễ gây nhiều biến chứng, vì sao?
- Thương hàn dễ gây nhiều biến chứng, vì sao?
Thương hàn là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây bằng
đường tiêu hóa, do trực khuẩn Salmonella typhi và
Salmonella paratyphi gây nên. Biểu hiện lâm sàng là hội
chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc toàn thân, kèm theo tổn
thương đặc hiệu tại đường tiêu hóa. Nếu không được điều trị
kịp thời, bệnh có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều biến chứng
có thể xảy ra, thậm chí dẫn đến tử vong.
Sốt là biểu hiện thường gặp trong bệnh thương hàn. Ảnh minh
họa.
Mầm bệnh từ đâu?
Salmonella là loại trực khuẩn gram âm, có lông, có sức đề kháng
tốt ở ngoại cảnh; trong đất sống được vài tháng; trong nước và
phân sống được vài tuần; trong thực phẩm đông lạnh được 2 - 3
- tháng và sống cả ở những thực phẩm có nồng độ muối cao; ở
1000C phải hơn 5 phút mới diệt được.
Nguồn bệnh trước hết là bệnh nhân, ở đối tượng này vi khuẩn
chủ yếu ra ngoài theo phân, ngoài ra còn theo đường nước tiểu,
đờm, chất nôn. Trực khuẩn thải theo từng đợt, thải qua phân ở
tất cả các giai đoạn của bệnh, nhiều nhất là vào giai đoạn nung
bệnh.
Ngoài ra nguồn bệnh quan trọng nhất người mang khuẩn không
triệu chứng, vì đây là đối tượng khó kiểm soát (do không có biểu
hiện lâm sàng làm chúng ta chủ quan) và người mang bệnh sau
khi khỏi; có khoảng 3 - 5% bệnh nhân khỏi về lâm sàng nhưng
vẫn tiếp tục mang vi khuẩn đến hàng tháng, hàng năm sau do vi
khuẩn khu trú trong đường mật, đường ruột.
Salmonella xâm nhập cơ thể qua đường miệng và hầu hết là do
ăn phải thức ăn bị nhiễm như thực phẩm, sữa, nước uống... Sau
khi xuyên qua hàng rào axít dạ dày, vi khuẩn di động về phía
ruột non và sinh sản ở đó, tiếp tục chui qua màng nhầy vào
thành ruột và đi vào máu. Vi khuẩn sẽ được chuyên chở bởi
những tế bào bạch cầu ở gan, lách và tủy xương. Khi đó vi
khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở trong tế bào của những cơ quan này và
quay lại dòng máu.
Vi khuẩn xâm nhập vào túi mật, hệ thống ống mật và mô limpho
trong ruột. Tại đây, chúng sinh sôi nảy nở với số lượng lớn. Khi
vi khuẩn vào trong ruột, nó có thể được chẩn đoán bằng cách
cấy phân để xét nghiệm. Một xét nghiệm khác là xét nghiệm
Widal giúp phát hiện và lượng giá kháng thể của vi khuẩn
thương hàn trong máu và trong nước tiểu.
- Bệnh thương hàn là do lây truyền qua đường ăn uống bởi nước
hay thức ăn bị nhiễm. Bệnh nhân bị bệnh cấp tính có thể lây ra
môi trường nước xung quanh qua phân. Ở giai đoạn cấp, các
chất thải (phân) có chứa nồng độ vi khuẩn rất cao.
Biểu hiện của bệnh
Trung bình sau khi nhiễm bệnh 7-15 ngày, ở giai đoạn này
không có biểu hiện gì, sẽ xuất hiện các triệu chứng quan trọng
- Sốt: đây là triệu chứng quan trọng và hằng định, sốt cao liên
tục 39-400C, sốt hình cao nguyên và sốt nóng là chủ yếu. Tùy
theo trường hợp, biểu hiện thần kinh ở các mức độ khác nhau từ
nhức đầu, mất ngủ, ù tai, nói ngọng, đến tình trạng nằm bất động
thờ ơ với ngoại cảnh, rồi có thể li bì, mê sảng hoặc hôn mê (ít
gặp).
- Xuất hiện các ban dát nhỏ 2- 3mm, màu hồng thường mọc ở
bụng, mạng sườn, ngực - còn gọi là hồng ban.
- Gan to mềm, bụng trướng nhẹ, đau dọc hố chậu phải, đi ngoài
khoảng 5-6 lần/ngày, phân màu vàng nâu, đặc biệt mùi rất khắm.
- Hình ảnh rìa lưỡi đỏ, giữa lưỡi phủ một lớp rêu màu trắng hoặc
xám.
- Mạch chậm tương đối so với huyết áp, huyết áp thấp.
Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào lâm sàng, kết hợp với xét
nghiệm máu, cấy phân và dựa vào yếu tố dịch tễ.
Bệnh phó thương hàn (paratyphoid fever) cũng có hình ảnh lâm
sàng tương tự như bệnh thương hàn nhưng nhẹ hơn và tỷ lệ tử
- không có biểu hiện toàn thân mà chỉ có biểu hiện viêm dạ dày -
ruột do vi khuẩn Salmonella typhimurium hoặc Salmonella
enteritidis từ động vật nhiễm vào thực phẩm thì gọi là bệnh
nhiễm khuẩn thức ăn do vi khuẩn Salmonella hoặc bệnh
Salmonella.
Biến chứng
Có thể nói đây là một trong các bệnh có nhiều biến chứng nguy
hiểm nhất trong số các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa. Biến
chứng có thể do nhiều nguyên nhân: do độc tố, do bội nhiễm vi
khuẩn khác, do tai biến của kháng sinh.
Hiện nay mặc dù đã có kháng sinh tốt, tỷ lệ biến chứng đã giảm
nhưng vẫn có thể gặp các biến chứng sau: Xuất huyết tiêu hóa:
gặp khoảng 15%, tùy mức độ mất máu mà có các biểu hiện khác
nhau như vã mồ hôi, da xanh niêm mạc nhợt, đi ngoài phân đen,
mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt; thủng ruột: gặp khoảng 1-3%;
viêm cơ tim; trụy tim mạch; viêm túi mật, viêm gan; viêm não
màng não, viêm cầu thận, viêm đài bể thận.
Điều trị và dự phòng
Kháng sinh là thuốc đầu tay, hiện nay có rất nhiều kháng sinh có
thể lựa chọn với ưu tiên là các thuốc thuộc nhóm quinolon thế
hệ hai, ngoài ra có thể sử dụng các nhóm thuốc cũ như
cefalosporin, choloramphenicol. Tùy theo tình trạng, tùy theo
mức độ và tùy theo điều kiện thực tế mà bác sĩ sẽ cho chỉ định
điều trị hợp lý.
Bên cạnh dùng kháng sinh thì các vấn đề khác cũng cần được
chú ý như bù nước và điện giải, trợ tim mạch, sinh tố an thần.
- Để dự phòng cần cải thiện tình trạng vệ sinh môi trường, kiểm
soát nước, chất thải, cống rãnh, khử trùng nguồn nước; cách ly
và xử lý chất thải của bệnh nhân, kiểm soát chặt chẽ và điều trị
người lành mang trùng.
Trong vùng có nhiều người mắc bệnh hoặc vùng bị lũ lụt, ô
nhiễm môi trường nặng cần được sát khuẩn bằng dung dịch
cloramin B, vôi bột. Ở những nơi bệnh thương hàn thường
xuyên xảy ra nên tiêm phòng bằng vaccin, tùy từng hiệu lực của
từng loại vaccin có thể tiêm nhắc lại sau 2-5 năm