intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận cá nhân: Hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:31

28
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cá nhân "Hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận" có nội dung tìm hiểu chung về tuyến thượng thận; Các hormone tuyến thượng thận; Rối loạn hormone tuyến thượng thận;... Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết bài tiểu luận tại đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận cá nhân: Hãy trình bày các hiểu biết của em về các hormone tuyến thượng thận

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI VIỆN KỸ THUẬT HÓA HỌC ­­­­­­­­­­­­­­­ o0o ­­­­­­­­­­­­­­­ Đề tài: Hãy trình bày các hiểu biết của em về  các hormone tuyến thượng thận. Giáo viên hướng dẫn:  TS. Giang Phương Ly Sinh viên thực hiện:                                      MSSV: Nguyễn Đức Thắng                                 20175163 Hà Nội, 5/2020
  2. Mục Lục Lời mở đầu Thượng thận là tuyến nội tiết nhỏ nằm ngay phía trên 2 quả thận, nó  có vai trò đặc biệt quan trọng là tiết ra những hormone đem lại sự cân  bằng cho mọi hoạt động của cơ thể. Tuyến thượng thận tiết ra adrenalin và cortisol, hai hormone đóng vai  trò quan trọng trong việc làm giảm stress của con người. Tuyến  thượng thận cũng tiết ra hormone DHEA (dihydroepiandrosterone)  2
  3. vàaldosterone. DHEA có vai trò trong điều tiết cơ thể như góp phần  tăng cường và sửa chữa các phân tử protein trong mô tế bào, đặc biệt  là trong cơ. Còn aldosterone là hormone tham gia điều khiển các chất  khoáng trong cơ thể, góp phần giúp duy trì lượng chất lỏng và huyết  áp. Có thể nói,tuyến thượng thận là một tuyến rất quan trọng, nơi tiết ra  những hormone giúp điều tiết hoạt động của cơ thể, việc rối loạn  chuyển hóa các hormone tuyến thượng thận có thể gây nên những căn  bệnh nghiêm trọng đối với cơ thể con người. Vậy, hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về các hormone tuyến  thượng thận nhé. 3
  4. I,Tìm hiểu chung về tuyến thượng thận 1, Tuyến thượng thận là gì? Tuyến thượng thận là phần nhỏ  nằm trên mỗi thận, nó được chia   thành 2 phần chính là phần vỏ thượng thận và tủy thượng thận. Cấu tạo tuyến thượng thận +Vỏ thượng thận: Lớp cầu (lớp ngoài), lớp sợi (phần giữa), lớp lưới   (phần trong). +Tủy   thượng   thận: là   một   bộ   phận   thuộc hệ   thần   kinh   giao   cảm,  được coi như hạch giao cảm, bao gồm các noron sau hạch đã bị  biến  đổi, chỉ  có thân mà không có sợi nhánh và sợi trục được chi phối bởi  các sợi trước hạch của hệ giao cảm. 2,Tuyến thượng thận nằm ở đâu?    Có hai tuyến thượng thận nằm  ở  phía trên mỗi thận. Kích thước  khoảng bằng quả  óc chó, mỗi tuyến thượng thận có một phần bên  2
  5. ngoài (vỏ thượng thận) và một phần bên trong (tủy thượng thận). Tế  bào trong những vùng khác nhau của tuyến thượng thận tạo những   hormone khác nhau. 3, Cấu tạo và chức năng của các hormone tuyến thượng thận Tuyến này chia làm hai miền: miền tủy và miền vỏ có nguồn gốc  khác nhau và chức năng khác nhau. Miền vỏ: gồm ba lớp: lớp cầu, lớp sợi, lớp lưới. +Lớp ngoài (lớp cầu) tiết hormone điều hòa các muối khoáng (các  chất điện giải), trong đó, quan trọng nhất là hormon aldosteron, có tác  dụng giữ các ion Na+ và thải K+ trong máu, giúp điều hòa huyết áp. +Lớp giữa (lớp sợi) tiết hormon điều hòa đường huyết, trong đó  có Cortisol là hormon có tác dụng chuyển  hóa glucozo từ protein và lipit). Khi cơ thể cần, dưới tác dụng  của Cortisol, glucose có thể được tổng hợp từ axit amin và axit béo do  sự phân giải của protein và lipit. +Lớp trong (lớp lưới) tiết hormone điều hòa sinh dục nam tính, trong  đó chủ yếu là androgen, ngoài ra còn có một lượng không đáng  kể ostrogen. Androgen có tác dụng lên sự phát triển các đặc tính nam.  Trong quá trình phát triển phôi, sự phân hóa giới tính nam chủ yếu là  do tác dụng của androgen. Đến tuổi dậy thì, anđrôgen cùng  với hormon tinh hoàn (testosteron) kích thích cơ quan sinh dục phát  triển. Tuyến trên thận ở nữ cũng tiết loại hormon này, nếu tiết nhiều  trong thời kì còn là thai nhi, có thể phát triển tính nam (thể hiện ở cơ  quan sinh sản về bề ngoài hơi giống nam giới). +Miền tủy: là một bộ phận thuộc hệ thần kinh giao cảm, được coi  như hạch giao cảm, bao gồm các noron sau hạch đã bị biến đổi, chỉ có  thân mà không có sợi nhánh và sợi trục được chi phối bởi các sợi  trước hạch của hệ giao cảm. Khi bị kích thích, các tế bào tuyến tiết  ra adrenalin và noradenalin có tác dụng giống với thần kinh giao cảm,  nhưng hiệu quả có tác dụng kéo dài hơn khoảng mười lần vì chúng bị  phân hủy chậm hơn chất truyền tin thần kinh (chất môi giới thần  kinh).  5
  6. Tác dụng của hormon tủy tuyến trên thận là làm tăng nhịp tim, tăng  lực co tim, tăng nhịp thở, dãn phế quản, tăng huyết áp, tăng đường  huyết. 4, Vai trò của tuyến thượng thận Tuyến thượng thận là nơi tiết ra những hormone cân bằng cơ  thể, ví  như   những   hormone   chống   lại   stress,   điều   tiết   huyết   áp...   Tuyến  thượng thận tiết ra adrenalin và cortisol, hai hormone đóng vai trò quan  trọng trong làm giảm stress của con người. Nếu như  adrenalin hoạt  động tương đối ngắn thì cortisol đóng vai trò kiểm soát stress lâu dài.  Ban đầu, tuyến thượng thận tiết ra adrenalin làm giảm căng thẳng  ngay tức thời, làm tăng nhịp tim và huyết áp. Sau đó, tuyến thượng  thận tiết ra khá nhiều cortisol để  kiểm soát stress lâu dài. Giống như  adrenalin, cortisol có xu hương tăng lượng đường, một phần thông qua  khả năng điều khiển quá trình chuyển các nhiên liệu không có đường  như acid amin (nguyên liệu chính tạo protein) thành glucose. Hormone  này cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều khiển hoạt động  của hệ miễn dịch... 2
  7. Tuyến   thượng   thận   cũng   tiết   ra   hormonedihydroepiandrosterone   và  aldosterone. DHEA có vai trò trong điều tiết cơ thể như góp phần tăng  cường và sửa chữa các phân tử  protein trong mô tế  bào, đặc biệt là  trong cơ. Hormone này tham gia vào quá trình hàn gắn các mô tế  bào  sau khi chúng bị chấn thương hoặc viêm nhiễm. Thêm vào đó DHEA  còn có thể  được chuyển hoá thành các hormone khác như  testoterone  và oestrogen. Còn aldosterone là hormone tham gia điều khiển các chất  khoáng trong cơ thể. Nó góp phần bảo vệ lượng sodium trong cơ thể  và kích thích suy giảm potassium, những hoạt động giúp duy trì lượng  chất lỏng và huyết áp. II, Các hormone tuyến thượng thận 1, Giới thiệu chung *Hormone là gì?   "Hormone" là một từ tiếng Anh. Theo từ điển Anh ­ Việt có nghĩa là  "nội tiết tố" là "một chất hóa học được tiết ra bởi một hoặc nhiều tế  bào và chúng tác động lên các tế bào trong các bộ phận khác nhau của  sinh vật".    Chỉ  một lượng nhỏ  hormon được dùng trong quá trình trao đổi chất  của tế  bào. Nó là công cụ  hóa học truyền các tín hiệu từ  tế  bào này  7
  8. đến tế  bào khác. Tất cả  các sinh vật đa bào đều sản xuất hormone,   hormone   thực   vật   được   gọi   là   phytohormon.   Cơ   chế   các   hormone  trong cơ thể động vật thường được truyền trong máu.   Các tế bào phản  ứng lại với hormone khi chúng tiếp nhận hormone   đó. Hormone gắn chặt với protein tiếp nhận, tạo ra sự  kích hoạt cơ  chế chuyển đổi tín hiệu và cuối cùng dẫn đến các phản ứng riêng biệt   trên từng loại tế bào. *Hormone tuyến thượng thận     Ở   người   và   các   động   vật   khác,   hormone   tuyến   thượng   thận   là  hormone do vỏ  thượng thận, vùng ngoài của tuyến thượng thận sản  xuất. Các hoocmon steroid đa vòng này có nhiều vai trò quan trọng đối  với phản  ứng của cơ thể đối với căng thẳng (ví dụ: phản  ứng chiến  đấu hoặc bỏ chạy) và chúng cũng điều chỉnh các chức năng khác trong  cơ  thể. Các mối đe dọa đối với cân bằng nội môi, chẳng hạn như  chấn thương, mất cân bằng hóa học, nhiễm trùng hoặc căng thẳng  tâm   lý,   có   thể   bắt   đầu   một   phản   ứng   căng   thẳng.   Ví   dụ   về   các   hormon vỏ  thượng thận có  liên quan  đến phản  ứng căng thẳng là  aldosterone và cortisol. Những hormone này cũng có chức năng điều  chỉnh sự  bảo tồn nước của thận và chuyển hóa carbonhydrat, tương  ứng. 1.1, Phân loại hormone tuyến thượng thận    Hormone vỏ  thượng thận được chia thành ba loại theo chức năng:  mineralocorticoid, glucocorticoid và androgen. ­Các hormon khoáng bào được tổng hợp ở lớp ngoài cùng của vỏ  thượng thận được gọi là zona glomerulosa. Chức năng của chúng là  điều chỉnh nồng độ các chất điện giải lưu thông trong máu.Ví dụ,  aldosterone có chức năng tăng nồng độ natri trong máu và giảm mức  kali trong máu bằng cách nhắm mục tiêu đến thận. Cụ thể, nó liên kết  các thụ thể của các tế bào bao gồm các ống thận ở xa, sau đó kích  thích các kênh ion để bảo tồn natri và bài tiết kali. Ngoài ra, gradient  ion bắt đầu bảo tồn nước. 2
  9. ­Họ nội tiết tố glucocorticoid được tổng hợp ở lớp giữa của vỏ  thượng thận được gọi là zona fasciculata. Những hormone này điều  chỉnh quá trình xử lý protein, chất béo và carbohydrate của cơ thể con  người. Họ cũng đóng một vai trò trong việc duy trì một chu kỳ phản  ứng căng thẳng bình thường. ­Androgens, hay hoóc môn giới tính, được tổng hợp trong lớp trong  cùng của vỏ thượng thận được gọi là zona reticularis. Những hormone  này, chẳng hạn như estrogen ở nữ và testosterone ở nam, thường được  biết đến với việc thúc đẩy các đặc tính tình dục và sự trưởng thành  của các cơ quan sinh sản của giới tính tương ứng.   Tóm tắt lại Hormone vỏ thượng thận có nguồn gốc từ cholesterol  tạo thành các steroid. Cholesterol qua các giai đoạn, hình thành 3 loại: Glucocorticoid (Gc): Cortisol, corticosterone. Mineralocorticoid (Gm): Aldosteron, 11­desoxycorticosterone. Nhóm hormon sinh dục: Androgen, estrogen (vết). Khoảng 30 loại steroid khác nhau được phân lập từ vỏ thượng thận,  nhưng chỉ có 2 hormon có chức năng quan trọng là cortisol và  aldosteron. Tất cả hormon vỏ thượng thận được tổng hợp từ những  mẫu acetat theo con đường cholesterol (sơ đồ). 9
  10. Trong máu 94% cortisol ở dạng kết hợp, chủ yếu gắn với globulin,  được gọi là transcortin. 50% aldosteron ở dạng kết hợp lỏng lẻo với  protein huyết tương. Ở mô đích, cortisol tác dụng và bị phá huỷ trong vòng 1­2 giờ còn  aldosteron thì trong khoảng 30 phút. Các hormon vỏ thượng thận bị  phá huỷ ở gan, 25% thải qua đường mật và 75% theo đường thận. Nồng độ cortisol bình thường khoảng 12 (g/dl), bài tiết mỗi ngày 15­ 20 mg. Nồng độ aldosteron khoảng 6 ng/dl, bài tiết 150­250 (g/ngày). 1.2, Kết cấu Hormone vỏ  thượng thận được coi là hormone steroid vì đặc điểm  chung với một xương sống cholesterol. Cấu trúc của các steroid khác  nhau khác nhau bởi các loại và vị  trí của các nguyên tử  bổ  sung trên  xương sống cholesterol. Xương sống cholesterol bao gồm bốn vòng  hydrocarbon, ba vòng cyclohexane và một cyclopentane, góp phần vào  tính không hòa tan của nó trong môi trường nước. Tuy nhiên, bản chất  kỵ nước cho phép chúng dễ dàng khuếch tán qua màng plasma của tế  bào. Điều này rất quan trọng đối với chức năng của hormone steroid vì   chúng dựa vào con đường phản  ứng của tế bào để  khôi phục sự mất  cân bằng cân bằng nội môi bắt đầu giải phóng hormone. 2
  11. 1.3, Tổng hợp Sự  tổng hợp của hoocmon steroid vỏ thượng thận liên quan đến một  chuỗi các phản  ứng oxy hóa ­ khử  được xúc tác bởi một loạt các   enzyme. Tổng hợp bắt đầu với một phân tử cholesterol. Thông qua các  chất trung gian được chia sẻ  và con đường phân nhánh từ  các chất  trung gian được chia sẻ này, các loại steroid khác nhau được tổng hợp.  Steroid được tổng hợp từ cholesterol trong khu vực tương ứng của vỏ  thượng thận. Quá trình này được kiểm soát bởi protein điều hòa cấp  tính steroidogen (StAR) nằm trong màng ty thể và điều chỉnh sự đi qua  của cholesterol.Đây là bước giới hạn tỷ lệ của sinh tổng hợp steroid.  Khi StAR đã vận chuyển cholesterol vào ty thể, phân tử  cholesterol  trải qua một chuỗi các phản ứng oxy hóa ­ khử được xúc tác bởi một  loạt   các   enzyme   từ   họ   enzyme   cytochrom   P450.   Một   hệ   thống   coenzyme   có   tên   adrenodoxin   reductase   chuyển   các   electron   sang  enzyme P450, khởi đầu các phản  ứng oxy hóa ­ khử  làm biến đổi   cholesterol   thành   các   hoocmon   steroid.   Mặc   dù   quá   trình   tổng   hợp  được bắt đầu bên trong ty thể, tiền chất được đưa vào mạng lưới nội  chất để  xử  lý bởi các enzyme có trong mạng lưới nội chất. Các tiền  chất được đưa trở  lại ty thể  trong khu vực vỏ  thượng thận trong đó   quá trình tổng hợp ban đầu bắt đầu và tại đó quá trình tổng hợp được  hoàn thành. 2, Các loại hormone tuyến thượng thận 2.1, Loại Mineralocorticoids Mineralocorticoids là một nhóm corticosteroid, lần lượt là một loại  hormone steroid. Mineralocorticoids được sản xuất  ở  vỏ  thượng thận   và ảnh hưởng đến cân bằng muối và nước (cân bằng điện giải và cân  bằng chất lỏng). Khoáng chất chính là aldosterone.    Aldosterone, hormone khoáng chất chính, là một hoocmon steroid  được sản xuất bởi zona glomerulosa của vỏ  thượng thận  ở  tuyến   thượng thận. Aldosterone rất cần thiết cho việc bảo tồn natri  ở thận,   tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi và ruột kết. Nó đóng một vai trò trung   11
  12. tâm trong các hằng định nội môi quy định của huyết áp, huyết tương  natri (Na +) và kali (K +) các cấp. Aldosterone làm như vậy chủ yếu bằng cách tác động lên các thụ thể  mineralocorticoid trongống lượn xa và ống thu thập của nephron.  Nó  ảnh hưởng đến sự  tái hấp thu natri và bài tiết kali (từ và vào   dịch  ống tương  ứng) của thận, do đó  ảnh hưởng gián tiếp đến  việc giữ  hoặc mất nước, huyết áp và thể  tích máu. Khi bị  điều  hòa, aldosterone gây bệnh và góp phần vào sự  phát triển và tiến  triển của bệnh tim mạch và thận. Aldosterone có chức năng hoàn  toàn ngược lại với hormone natriuretic nhĩ do trái tim. Aldosterone là một phần của hệ  thống aldosterone anginensinin của   renin. Nó có thời gian bán hủy trong huyết tương dưới 20 phút. Vai Trò: Tăng tái hấp thu ion Na và tăng bài tiết ion K, Cl ở ống thận, kéo theo  sự  tái hấp thu nước (chủ  yếu qua trung gian ADH), gây tăng thể  tích ngoại bào. Nồng độ  aldosteron tăng cao có thể  làm tăng thể  tích dịch ngoại bào  lên từ 5­15% và dẫn đến tăng huyết áp động mạch lên 15­25%. Ngược lại, sự giảm aldosteron gây mất natri, giảm thể tích dịch ngoại  bào, đồng thời tăng ion K+ có thể gây độc cơ tim. Tác dụng tương tự như trên xảy ra ở tuyến nước bọt, tuyến mồ hôi. Tác dụng này đặc biệt quan trọng khi cơ  thể  hoạt động trong môi  trường nóng, nhờ  aldosteron mà việc mất muối qua da theo mồ  hôi sẽ giảm bớt. Điều hòa bài tiết: Liên   quan   với   chuyển   hóa   natri,   khi   natri   máu   cao,   thì   sẽ   giảm  aldosteron máu, natri được bài tiết ra ngoài, và ngược lại. Nồng độ K+ cao trong dịch ngoại bào sẽ làm tăng tiết aldosteron. 2
  13. Bên cạnh đó sự  điều hòa còn thông qua hệ  thống Renin­angiotensin­ aldosteron. 2.2, Loại Glucocorticoid Glucocorticoid là một loại corticosteroid, cũng là một loại hormone  steroid.Glucocorticoid   làcorticosteroid   liên   kết   với   thụ   thể  glucocorticoid.Chúng có mặt  ở  hầu hết các tế  bào động vật có  xương sống. Cái tên glucocorticoid (glucose + cortex + steroid)  được lấy từ  vai trò của nó trong điều hòa chuyển hóa glucose,  được tổng hợp trong vỏ  tuyến thượng thận và cấu trúc steroid  của nó. Một từ đồng nghĩa ít phổ biến hơn là glucocorticosteroid. Glucocorticoid là một phần của cơ  chế  phản hồi trong hệ miễn dịch   giúp làm giảm một số khía cạnh của chức năng miễn dịch, chẳng   hạn như  viêm. Glucocorticoid cũng can thiệp vào một số  cơ  chế  bất thường trong tế bào ung thư, vì vậy chúng cũng có thể  được  sử  dụng với liều cao để  điều trị  ung thư. Điều này bao gồm các  tác dụng  ức chế sự tăng sinh tế bào lympho, như trong điều trị  u  lymphoma và ung thư  bạch cầu, cũng như  giảm thiểu tác dụng  phụ của thuốc chống ung thư. Glucocorticoid  ảnh hưởng đến tế  bào bằng cách gắn kết với thụ  thể  glucocorticoid.   Phức   hợp   glucocorticoid­thụ   thể   glucocorticoid  hoạt hóa tăng cường sự sự biểu hiện của các protein chống viêm  trong nhân (một quá trình được gọi là hoạt hóa chéo) và ức chế sự  biểu hiện của các protein tiền viêm trong bào tương bằng cách  ngăn chặn sự dịch chuyển các yếu tố phiên mã khác từ bào tương  sang nhân (bất hoạt chéo). Glucocorticoid  được phân biệt  với mineralocorticoid  và steroid giới  tính bởi các thụ thể đặc hiệu, tế bào đích và tác dụng của chúng.   Về mặt kỹ thuật, "corticosteroid" dùng để chỉ cả glucocorticoid và  mineralocorticoid (vì cả hai đều giống như các hormone được tạo  ra bởi vỏ  thượng thận), nhưng "corticosteroid" thường được sử  dụng   như   một   từ   đồng   nghĩa   với   "glucocorticoid"   hơn.  Glucocorticoid chủ  yếu được sản xuất trong zona fasciculata của  13
  14. vỏ  thượng thận, trong khi mineralocorticoid được tổng hợp trong  zona glomerulosa. Cortisol (hoặc hydrocortisone) là glucocorticoid quan trọng nhất của  con người. Hormone này là thiết yếu cho sự  sống, chúng điều  chỉnh hoặc hỗ trợ một loạt các chức năng tim mạch, trao đổi chất,  miễn   dịch   học   và   cân   bằng   nội   môi   quan   trọng.   Nhiều   glucocorticoid tổng hợp có sẵn; chúng được sử  dụng rộng rãi và  phổ  biến trong y tế  bình thường cũng nhiều biện pháp đặc biệt,  chẳng   hạn   như   làm   liệu   pháp   thay   thế   trong   thiếu   hụt  glucocorticoid, hoặc để ức chế hệ miễn dịch. Cortisol là một loại hooc môn corticosteroid (corticosteroid là một loại  hooc môn loại steroid – tức là loại hợp chất hữu cơ tự nhiên được  tổng hợp bởi các tuyến nội tiết trong cơ thể) được sản sinh bởi bộ  phận tên là Zona fasciculata trên vỏ thượng thận (thuộc tuyến thượng  thận). Đây là hooc môn vô cùng quan trọng và được xem là hormon  chống stress. Nó làm tăng huyết áp, tăng đường huyết, có tác động ức  chế miễn dịch (chống viêm), chống dị ứng.  Trong y học, cortisol tổng hợp (Hydrocortisone) được dùng như là  thuốc để điều trị bệnh dị ứng (đặc biệt trong cấp cứu sốc phản vệ)  và chống viêm cũng như dùng làm chất thay thế bổ sung trong các  chứng thiếu hụt cortisol bẩm sinh. Khi lần đầu được giới thiệu như là  thuốc điều trị bệnh thấp khớp nó được gọi là hợp chấp E. Cortisol  thuộc loại Glucocorticoid. Ngoài ra, cortisol kiểm soát quá trình giáng  hóa hydrat­cacbon, chất béo và trao đổi protein và là chất kháng viêm  với tác dụng ngăn cản sự giải phóng phospholipid, giảm hoạt động  bạch cầu ưa toan và hàng loạt các cơ chế khác. Vai trò: Tác dụng trên chuyển hóa: 2
  15. Glucid: tăng tạo đường mới ở gan; giảm sử dụng glucose ở tế bào;  làm tăng glucose máu, có thể gây đái đường, tương tự đái đường yên. Protein: tăng thoái hóa protein ở hầu hết tế bào cơ thể, trừ tế bào gan.  Tăng chuyển acid amin vào tế bào gan, tăng tổng hợp protein ở gan,  tăng chuyển acid amin thành glucose. Tăng nồng độ acid amin, làm  giảm vận chuyển acid amin vào tế bào trừ gan. Lipid: tăng thoái hóa lipid ở mô mỡ gây tăng nồng độ acid béo tự do  huyết tương và tăng sử dụng để cho năng lượng; tăng oxid hóa acid  béo ở mô. Tác dụng chống stress: Khi bị stress, cơ thể lập tức tăng lượng ACTH, sau vài phút, một  lượng lớn cortisol được bài tiết bởi vỏ thượng thận, có thể tăng đến  300mg/24giờ. Có lẽ do Cortisol huy động nhanh acid amin và mỡ dự trữ, cung cấp  năng lượng cho tố chức; đồng thời các acid amin này được dùng để  tổng hợp các chất cần duy trì cho sự sống tế bào như purines,  pyrimidines và creatine phosphate. Tác dụng chống viêm: Cortisol làm giảm tất cả các giai đoạn của quá trình viêm, đặc biệt ở  liều cao, tác dụng này được sử dụng trên lâm sàng. Do cortisol làm ổn định màng lysosom trong tế bào và ức chế men  phospholipaza A2, ngăn cản hình thành các chất gây viêm như  leukotrien, prostaglandins, đây là hai chất gây dãn mạch, tăng nhiệt độ,  tăng tính thấm mao mạch trong các phản ứng viêm. Tác dụng chống dị ứng: Cortisol ức chế sự giải phóng histamin trong các phản ứng kháng  nguyên­kháng thể, do đó làm giảm hiện tượng dị ứng. 15
  16. Tác dụng lên tế bào máu: Làm giảm số lượng bạch cầu ưa acid, bạch cầu lympho, giảm kích  thước hạch và tuyến ức. Tác dụng lên hệ thống miễn dịch: Gây giảm kháng thể, do đó sử dụng cortisol dài ngày dễ nhiễm khuẩn,  nhưng được dùng để ngăn sự loại bỏ mảnh ghép. Tác dụng lên các tuyến nội tiết khác: Nồng độ cortisol tăng cao sẽ giảm chuyển T4 thành T3 và tăng chuyển  T3 thành T4, làm giảm nồng độ hormon sinh dục. Tác dụng khác: Tăng bài tiết dịch vị nên nếu dùng cortisol kéo dài có thể gây loét dạ  dày, đối với hệ xương, có thể ức chế hình thành xương, giảm tăng  sinh tế bào, giảm lắng đọng tổng hợp protein của xương. Điều hòa bài tiết: Cortisol được điều hòa bởi ACTH của tiền yên theo cơ chế điều hoà  ngược. Nhịp bài tiết cortisol tương ứng với nhịp bài tiết ACTH. *Hàm lượng cortisol trong máu ­Nồng độ của Cortisol từ 8h sáng đến 12h trưa: 5,0 ­ 25,0 µ/dL hay 138  ­ 690 nmol/L.  ­Nồng độ của Cortisol từ 12h trưa đến 20h tối: 5,0 ­15,0 µg/dL hay  138­410 nmol/L ­Nồng độ của Cortisol từ 20h tối đến 8h sáng: 0,0 ­10,0 µg/dL hay 0 ­  276 nmol/L. 2
  17. 2.3, Loại Androgen Androgen (từ tiếng Hy Lạp andr­, gốc của từ có nghĩa là "người đàn  ông") là bất kỳ hoocmon steroid tự nhiên hoặc tổng hợp nào điều  chỉnh sự phát triển và duy trì các đặc tính nam ở động vật có xương  sống bằng cách liên kết với các thụ thể androgen.Điều này bao gồm  sự phát triển phôi thai của các cơ quan sinh dục nam chính và sự phát  triển của các đặc điểm giới tính thứ cấp nam ở tuổi dậy thì. Các  androgen được tổng hợp trong tinh hoàn, buồng trứng và tuyến thượng  thận. Androgens tăng ở cả bé trai và bé gái trong giai đoạn dậy thì.  Androgen chủ yếu ở nam giới là testosterone. Ở loài người, testosterone đóng một vai trò quan trọng trong sự phát  triển của các mô sinh sản của nam như tinh hoàn và tuyến tiền liệt  cũng như thúc đẩy các đặc tính sinh dục phụ như làm tăng cơ bắp,  xương và sự phát triển tóc. Ngoài ra, testosterone là cần thiết cho sức  khỏe và hạnh phúc cũng như phòng ngừa bệnh loãng xương. Vai trò của testosterone ở nam giới 17
  18. Testosterone có vai trò quan trọng đối với hầu hết mọi chức năng của  nam giới, từ hệ thống sinh sản và tình dục đến khối cơ và mật độ  xương. Hệ thống nội tiết Hệ thống nội tiết của cơ thể bao gồm các tuyến sản xuất hormone.  Vùng dưới đồi trong não có nhiệm vụ báo hiệu cho tuyến yên biết cơ  thể cần bao nhiêu Testosterone. Tuyến yên sau đó gửi tín hiệu đến  tinh hoàn để kích thích sự sản xuất Testosterone. Hầu hết Testosterone  được sản xuất trong tinh hoàn, nhưng một lượng nhỏ đến từ tuyến  thượng thận, nằm ngay phía trên thận. Testosterone bắt đầu hoạt động ngay cả khi cơ thể chưa được sinh ra  đời. Lúc này, Testosterone có vai trò trong sự hình thành bộ phận sinh  dục nam. Ở tuổi dậy thì, Testosterone chịu trách nhiệm cho sự phát  triển của các thuộc tính nam như giọng nói trầm hơn, kích thích mọc  râu và lông trên cơ thể. Ngoài ra, Testosterone cũng thúc đẩy sự phát  triển của cơ bắp và hình thành cảm giác “ham muốn tình dục”. Hệ thống sinh sản Bộ phận sinh dục nam được hình thành vào khoảng tuần thai thứ bảy  với sự tác động của Testosterone. Ở tuổi dậy thì, khi nồng độ  Testosterone tăng lên, tinh hoàn và dương vật phát triển mạnh mẽ.  Tinh hoàn tạo ra một lượng testosterone ổn định và cung cấp tinh trùng  mới mỗi ngày. Nếu lượng Testosterone thấp có nguy cơ bị rối loạn chức năng cương  dương. Bên cạnh đó, nếu sử dụng liệu pháp Testosterone dài hạn có  thể gây giảm sản xuất tinh trùng. Liệu pháp Testosterone cũng có thể  gây phì đại tuyến tiền liệt và khiến tinh hoàn nhỏ hơn, mềm hơn.  Ngoài ra, nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư vú không  nên thực hiện liệu pháp thay thế Testosterone. 2
  19. Khả năng tình dục Ở độ tuổi dậy thì, nồng độ Testosterone ở nam giới tăng cao, kích  thích sự phát triển và hoàn thiện của tinh hoàn, dương vật và lông mu.  Giọng nói trở nên trầm hơn, cơ bắp và lông trên cơ thể phát triển.  Cùng với đó, ham muốn tình dục ngày càng tăng cao. Nam giới có lượng Testosterone thấp có khả năng bị mất ham muốn  tình dục. Sự kích thích tình dục hay hoạt động tình dục khiến nồng độ  Testosterone tăng cao. Testosterone có thể giảm trong một thời gian dài  không hoạt động tình dục. Hệ thần kinh trung ương Cơ thể chúng ta có một hệ thống kiểm soát Testosterone, gửi tín hiệu  thông qua các hormone và chất hóa học đặc hiệu trong máu. Vùng  dưới đồi trong não là nơi cho tuyến yên biết cần bao nhiêu  Testosterone và tuyến yên sẽ chuyển thông tin đó đến tinh hoàn. Testosterone có một vai trò cần thiết trong một số hành vi nhất định,  bao gồm sự hung hăng và khả năng lãnh đạo. Bên cạnh đó,  Testosterone cũng là thước đo khả năng cạnh tranh và giúp tăng cường  lòng tự trọng. Tương tự như cơ chế hoạt động tình dục có thể ảnh  hưởng đến nồng độ testosterone, việc tham gia vào các hoạt động  cạnh tranh có khả năng khiến mức độ testosterone của người đàn ông  tăng, hoặc giảm. Testosterone thấp dẫn đến mất tự tin, gây rối loạn  giấc ngủ, thiếu năng lượng và giảm động lực. Chưa hết, tình trạng  này còn làm giảm khả năng tập trung và gây ra cảm giác buồn bã. Da và tóc Khi đến độ tuổi trưởng thành, Testosterone thúc đẩy sự phát triển của  tóc trên đầu, cũng như lông ở nách và xung quanh bộ phận sinh dục.  Lông cũng xuất hiện trên cánh tay, chân và ngực. 19
  20. Testosterone thấp có thể khiến đàn ông mất đi một phần lông trên cơ  thể. Cơ bắp, chất béo và xương Testosterone là một trong những yếu tố liên quan đến sự phát triển  của các khối cơ và sức mạnh của chúng. Testosterone làm tăng dẫn  truyền thần kinh, kích thích sự tăng trưởng mô. Ngoài ra, nó cũng  tương tác với các thụ thể trong gen, dẫn đến sự tổng hợp protein.  Testosterone làm tăng nồng độ của hormone tăng trưởng, giúp cho  việc luyện tập ở nam giới có nhiều khả năng cải thiện cơ bắp. Bên cạnh đó, Testosterone còn làm tăng mật độ xương và có vai trò  quan trọng trong việc sản xuất các tế bào hồng cầu từ tủy xương.  Những quý ông có lượng testosterone đạt mức rất thấp có nhiều khả  năng bị chấn thương và gãy xương. Testosterone cũng đóng vai trò cần thiết trong chuyển hóa chất béo,  giúp nam giới tiêu thụ chất béo hiệu quả hơn. Giảm nồng độ  Testosterone dẫn đến tình trạng tăng mỡ thừa trong cơ thể. Hệ thống tuần hoàn Một số nghiên cứu cho rằng Testosterone có thể có tác động tích cực  đến tim. Tuy nhiên, một vài nghiên cứu khác lại cho thấy Testosterone  có tác động không tốt đến lượng cholesterol, chỉ số huyết áp và khả  năng đông máu. Vì vậy, khi đề cập đến tác dụng của Testosterone đối  với tim, các nghiên cứu gần đây cho kết quả mâu thuẫn nhau và chưa  thống nhất. 2
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2