intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Giá trị và hạn chế của Triết học Ấn Độ

Chia sẻ: Le Van Trung Truc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

552
lượt xem
97
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Triết học Ấn Độ được phát triển từ hơn ba ngàn năm trước, chúng gồm các ý tưởng, các thực hành và các phong tục xã hội. Tại Ấn, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học Ấn Ðộ cũng như tôn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm. Mời các bạn tham khảo bài tiểu luận để hiểu rõ những giá trị và hạn chế của triết học Ấn Độ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Giá trị và hạn chế của Triết học Ấn Độ

  1. Tiểu luận Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ
  2. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài : Triết học Ấn Độ được phát triển từ hơn ba ngàn năm trước, chúng gồm các ý tưởng, các thực hành và các phong tục xã hội. Tại Ấn, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học Ấn Ðộ cũng như tôn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả ngàn năm. Trước hết, Ấn Ðộ không là một quốc gia thuần túy; nó chịu ảnh hưởng của nhiều dân tộc đã lần lượt xâm chiếm nó. Ấn Độ là một tiểu lục địa mênh mông, ngày xưa bị chia thành nhiều tiểu quốc. Ngày nay, sau khi hai nước Pakistan (Tây Hồi) và Bangladesh (Tây Hồi) tách rời, diện tích còn lại là năm triệu cây số vuông - rộng gấp hơn 15 lần nước Việt Nam. Ấn Ðộ là vùng đất hòa trộn cả Ðông lẫn Tây do bởi kết quả tự nhiên của sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa, giao lưu thương mại và những cuộc ngoại xâm. Theo công trình khảo cổ khai quật và các bức tranh trong hang động, nền Văn minh Thung lũng Indus có ít nhất là 5.000 năm trước Công nguyên (TCN), trước cả Babylon, Ai Cập và Hi Lạp. Từ mấy ngàn năm nay, tôn giáo và hệ thống đẳng cấp xã hội là những nguyên nhân xung đột chính, chi phối mạnh mẽ sinh hoạt văn hóa và xã hội. Ấn Ðộ là thiên đường của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín sâu sắc, với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền giả và người vô tín ngưỡng. Theo thống kê năm 2001, người Ấn theo Ấn giáo 80.5%, Hồi giáo 13.4 %, Kitô giáo 2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%, không xác định 0.1%. Ngược dòng lịch sử, khoảng năm 1.500 TCN, người Aryan nói tiếng Sanskrit, xâm lăng Ấn Ðộ từ ngã Tây Bắc, đã tìm thấy ở đó có dân chúng Dravidian bản địa, với một nền văn minh tiến bộ. Người Aryan đưa vào Ấn tiếng Sanskrit và tôn giáo theo kinh Veda, kết hợp với tín ngưỡng bản địa làm thành Ấn giáo. Phật giáo xuất hiện vào thế kỷ 6 TCN, lan rộng khắp miền bắc Ấn và được đẩy mạnh qua công lao của một trong các vị vua cổ đại vĩ đại nhất, đó là hoàng đế Asoka (k.269-232 TCN), kẻ cũng đã thống nhất hầu hết tiểu lục địa Ấn lần đầu tiên HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 2
  3. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Vì thế, việc nghiên cứu các tôn giáo, trường phái triết học lớn và lâu đời nhất thế giới được hình thành trong thời cổ, trung đại của Ấn Độ, nhằm tìm ra những giá trị và hạn chế của nó là việc rất cần thiết. 1.2 Tình hình nghiên cứu của đề tài Phân tích những giá trị và hạn chế của triết học Ấn Độ cổ, trung đại là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên, dưới góc độ nhìn nhận của cá nhân về những giá trị và hạn chế của triết học Ấn Độ cổ, trung đại có giá trị hết sức quan trọng trong đời sống xã hội của người Việt hiện nay, nhất là trong giai đoạn xây dựng hình ảnh con người mới con người xã hội chủ nghĩa của nước ta. Vì vậy, trong giới hạn của tiểu luận, sẽ kế thừa và phát huy những công trình đi trước để nhìn nhận, phân tích và đưa ra những giá trị và hạn chế của Triết học Ấn Độ cổ, trung đại, qua đó, cá nhân có liên hệ đến thực tiễn tại Việt Nam. 1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1.3.1 Mục đích Mục đích của tiểu luận sẽ lần lượt đi vào lịch sử triết học Ấn Độ cổ, trung đại góp nhìn nhận cá nhân, sẽ phân tích và đưa ra những giá trị và hạn chế của Triết học Ấn Độ cổ, trung đại, qua đó, cá nhân có liên hệ đến thực tiễn Việt Nam. 1.3.2 Nhiệm vụ Nêu bật những giá trị và hạn chế nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại, qua đó, cá nhân liên hệ đến tình hình thực tế tại Việt Nam, đưa ra vài giải pháp phát huy những giá trị tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại. 1.4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.4.1 Cơ sở lý luận Trên quan điểm, lập trường của Triết học, Tư tưởng của Hồ Chí Minh về triết học, tôn giáo cổ, trung đại Ấn Độ; Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về con người và xây dựng hình ảnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới. 1.4.2 Phương pháp nghiên cứu HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 3
  4. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Sử dụng các phương thu thập thông tin và tài liệu; phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh theo chuỗi thời gian lịch sử; kết hợp các phương pháp khái quát hóa các dữ liệu thu thập được trên cơ sở đánh giá thực tiễn phổ biến. 1.5 Những đóng góp của tiểu luận Tiểu luận góp phần nêu bật những giá trị và hạn chế của nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại một cách đầy đủ hơn. Liên hệ thực tiễn trong đời sống kinh tế xã hội, đồng thời nêu giải pháp phát huy tính tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của triết học Ấn Độ cổ, trung đại trong quá trình đổi mới của nước ta. 1.6 Kết cấu của Tiểu luận được viết thành 3 chương : Chương 1 : Phần mở đầu : nêu lên lý do nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của đề tài; trình bày sơ bộ về phương pháp nghiên cứu, những đóng góp của đề tài. Chương 2 : Khái quát về điều kiện ra đời, hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Nội dung cơ bản của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ, trung đại, các tôn giáo lớn thời kỳ này. Nêu lên những giá trị và hạn chế của nền triết học Ấn Độ cổ trung đại. Chương 3 : Ảnh hưởng của nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại đến đời sống kinh tế xã hội nước ta. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng hình ảnh con người mới. Đưa ra một vài giải pháp cơ bản nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. CHƯƠNG 2 : TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI KỲ CỔ, TRUNG ĐẠI - NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ. 2.1 Điều kiện ra đời, hình thành và phát triển triết học Ấn Độ cổ, trung đại 2.1.1 Điều kiện ra đời 2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú; có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ. HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 4
  5. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang 2.1.1.2 Điều kiện xã hội Vào khoảng giữa thiên niên kỷ III đầu thiên niên kỷ II tr. CN. Qua các di chỉ khảo cổ cho thấy đây là một nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của một xã hội đã vượt qua trình độ nguyên thủy, đang tiến vào giai đoạn đầu của xã hội chiếm hữu nô lệ. Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình độ nhất định. Thời kỳ này cũng đã có chữ viết, được thấy trên các quả ấn bằng đồng hay đất nung. Tôn giáo cũng đã xuất hiện biểu hiện qua các hình nổi điêu khắc trên các quả ấn. Trước khi xảy ra cuộc xâm lăng của người Aryan, chúng ta có bằng chứng về nền văn minh bản địa trong khoảng từ năm 2.500 tới năm 1.700 TCN. Người ta khó đánh giá mức độ ảnh hưởng của Văn minh Thung lũng Indus lên sự phát triển của tư tưởng Ấn Ðộ, nhưng có những bức tượng nhỏ về các thần nam và thần nữ, trong đó có một bức giống các hình ảnh về sau của thần Shiva và một tư thế tập luyện Yoga, gợi cho thấy những người dân thượng cổ ấy đã có những đóng góp trực tiếp vào nền triết học và tôn giáo về sau. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Arya trên lưu vực sông Hằng và sông Ấn đã xuất hiện chế độ đẳng cấp (varna - màu sắc, chủng tính) góp phần quy định cơ cấu xã hội và ảnh hưởng đến hình thái tư tưởng Ấn Độ cổ đại. Hình thành chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân... Các quốc gia chiếm hữu nô lệ phát triển, thường xuyên thôn tính lẫn nhau dẫn đến sự hình thành các quốc gia lớn, các vương triều Ấn Độ như Magadha , Maurya. Trong thời kỳ này nền kinh tế, xã hội và văn hóa Ấn Độ có những bước phát triển tiến bộ vượt bậc. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn chiếm ưu thế, nhưng thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển hình thành một tầng lớp mới trong cơ cấu giai cấp xã hội - tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền kim loại xuất hiện, nhiều thành phố trở thành trung tâm công thương nghiệp quan trọng. Nhiều con đường thương mại thủy bộ nối liền các thành thị với nhau và thông từ Ấn Độ qua Trung Hoa, Ai Cập và miền Trung á... dần dần xuất hiện. Với bối cảnh xã hội nêu trên, Ấn Độ đã hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng và tín ngưỡng của nó ảnh hưởng đậm nét tới đời sống tinh thần xã hội Ấn Độ thời kỳ cổ đại. 2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của triết học tôn giáo HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 5
  6. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Lịch sử phát sinh và phát triển của triết học Ấn Độ cổ, trung đại được chia thành hai thời kỳ: thời kỳ Véđa ( khoảng cuối thế kỷ II đến thế kỷ VII tr.CN) và thời kỳ cổ điển : Phật giáo, Bàlamôn giáo (từ thế kỷ VI đến thế kỷ I tr.CN). 2.1.2.1 Triết học thời kỳ Véđa Kinh Véđa là những bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và của nhân loại. Đó là một bộ sách thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng, quan điểm, những tập tục, lễ nghi...của nhiều bộ lạc người Arya. Chữ Véđa bắt nguồn từ căn tự "vid", nghĩa đen là "tri thức", "hiểu biết". Nó cũng được dùng chung với nghĩa là "thánh kinh", là "sự sáng suốt cao nhất". Có thể nói Véđa là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia. Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr. CN : Tập trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia súc...; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ. Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr. CN đến thế kỷ V tr. CN : Thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự. Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad : Đây là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa, được biên soạn qua nhiều thế kỷ (khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ V tr.CN) bởi các tông phái, các đạo sĩ trong những hoàn cảnh và địa phương khác nhau. Khái niệm Upanishad có nghĩa là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết cao siêu, huyền bí với thầy. Upanishad không phải là một tác phẩm trình bày có hệ thống, chặt chẽ những quan điểm của một trường phái triết học, mà được viết dưới hình thức hội thoại giữa thầy và trò. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là "bước nhảy" hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học. 2.1.2.2 . Triết học thời kỳ cổ điển (Hay thời kỳ Phật giáo, Bàlamôn giáo) Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn Độ đã phát triển cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 6
  7. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo. Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai phái chính: + Phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh Véđa, đạo Bàlamôn, bao gồm 6 trường phái chính là 1)Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4) Mimamsa, 5) Yoga và 6) Védanta. + Phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh Véđa, đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô thần, duy vật trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông Ấn và trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina. Trừ trường phái Lokayata là trường phái triệt để duy vật, vô thần, còn tất cả các trường phái khác đều mang tính chất nhị nguyên luận hay thiếu triệt để. 2.2.1. Các trường phái triết học chính thống 2.2.1.1. Trường phái Samkhya (Số luận) Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa. Lý luận về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này. Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi". Từ đó, trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên nhân cũng phải là vật chất; đó là "vật chất đầu tiên"(Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng cảm giác mà có thể biết được. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, vui tươi); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 7
  8. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ. Trái lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở con người, khi tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì sinh ra trí tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì sinh ra hình thể. Về bản chất con người, phái Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình. Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến cái "tôi". Do đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi, khổ não. Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga. 2.2.1.2. Trường phái Mimansa Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của trường phái này là Sabara. Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Véđa, nhưng coi Véđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần. Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại của thần. Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra từ các nguyên tử (Anu) Phái Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy. Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh". Họ cho rằng cần phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có hai con đường để tạo kiến thức là bằng giác quan và bằng suy luận. HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 8
  9. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi. 2.2.1.3. Trường phái Vêđanta Các nhà tư tưởng Vêđanta hệ thống các tư tưởng của Upanishad - tác phẩm được coi là kết thúc của Véđa (Vêđanta nghĩa là "kết thúc Véđa"). Tác phẩm Brahman - Sutra được coi là kinh điển của Vêđanta, nhưng nội dung không rõ ràng, khá mơ hồ nên có nhiều cách giải thích khác nhau. Cách luận giải có ảnh hưởng lớn nhất là " thuyết Vêđanta nhất nguyên". Đó là triết học nhất nguyên luận duy tâm chủ quan cho rằng chỉ có Brahman, tức ý thức thuần túy là tồn tại duy nhất, mà Brahman lại được đồng nhất với "Cái tôi" (Atman). Thế giới vật chất không tồn tại hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh do "Vô minh" sinh ra. Đại biểu cho thuyết này là Sankara, người viết chú giải cho Brahman - Sutra. Các phái Vêđanta sau này lại giải thích Brahman - Sutra theo quan điểm hữu thần, hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng; còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tưc Thượng đế Brahman. 2.2.1.4. Trường phái Yoga Yoga xuất hiện rất sớm, từ nền văn minh Indus. Cuốn Yoga - Sutra được coi là của Patanjali (Thế kỷ II tr. CN). Tư tưởng cốt lõi của trường phái này là sự thừa nhận nguyên lý hợp nhất vũ trụ nơi mỗi cá thể. Trường phái Yoga kết hợp tư tưởng triết học của phái Samkhya với sự thừa nhận sự tồn tại của thần (Yoga = Sakhya + Thượng đế). Nhưng sự thừa nhận Thượng đế của phái Yoga không có ý nghĩa nhiều lắm về phương diện triết học. Tư tưởng về Thượng đế không ăn nhập với hệ thống Yoga. Thượng đế hay thần chỉ là một loại linh hồn không khác gì mấy với linh hồn cá thể. Vì vậy, bằng phương pháp luyện tập và tu luyện nhất định, con người có thể điều khiển và tự làm chủ được bản thân mình, tiến đến làm chủ được vạn vật và cao hơn nữa là đạt tới sự "giải thoát", "tự do tuyệt đối". Yoga còn là phương pháp dưỡng sinh được xây dựng trên cơ sở nhận thức về thế giới và con người. Nó cho rằng cuộc đời con người chỉ là ảo ảnh, không có thực và luôn thay đổi. Hình thể con người được coi là cái vỏ và không tồn tại vĩnh hằng. Nó sẽ bị mất đi và chỉ còn lại linh hồn (Atman) là tồn tại. Linh hồn con người là HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 9
  10. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang một bộ phận của Brahman nên nó phải thoát ra khỏi cái vỏ của mình (tức hình thể) để nhập với Brahman, làm cho con người siêu thoát. 2.2.1.5. Trường phái Nyaya - Vaisesika Đây là hai trường phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học tương đồng, nhất là vào giai đoạn hậu kỳ. Đại biểu cho phái Nyaya là Gantana, tác giả của "Nyaya - Sutra". Đại biểu cho phái Vaisesika là Kananda, tác giả của "Vaisesika - Sutra". Tư tưởng triết học cơ bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lý luận nhận thức và logic học. Thuyết nguyên tử : Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn cho rằng có sự tồn tại của những linh hồn ở những trạng thái phụ thuộc hoặc ở ngoài những nguyên tử vật chất, gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui, buồn, giận hờn...Để thấu triệt nguyên lý thống nhất của những cái hiện hữu, hai phái này đã tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên, giữ vai trò phối hợp, điều phối sự tác động của các linh hồn giải thoát ra khỏi các nguyên tử. Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật và đã có những đóng góp vào lý luận nhận thức như : thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong nhận thức v.v... Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp với bản chất của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy nhất để kiểm tra nhận thức. Thuyết biện luận của phái Nyaya có đóng góp quan trọng về lôgic hình thức. Họ đưa ra hình thức biện luận gọi là "Ngũ đoạn luận" gồm năm mệnh đề: 1. Luận đề: Đồi có lửa cháy 2. Nguyên nhân: Vì đồi bốc khói 3. Thí dụ: Có khói thì có lửa, giống như ở trong bếp lò. 4. Suy đoán: Đồi bốc khói thì không thể không có lửa cháy 5. Kết luận: Do đó đồi có lửa cháy. Các phái này ban đầu có tư tưởng vô thần và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm triết học. Song ở giai đoạn cuối, họ lại thừa nhận có thần và cho rằng thần đã dùng nguyên tử để tạo nên thế giới. 2.2.2. Các trường phái triết học không chính thống 2.2.2.1. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng ở Đông Ấn HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 10
  11. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Đây là trường phái tư tưởng triết học mà họ cố gắng giải thích thế giới bằng các sự vật, hiện tượng của tự nhiên như nước, lửa, không khí, đất..., phủ nhận linh hồn bất tử và đưa ra các khái niệm, phạm trù của triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường phái triết học duy vật Lokayata. Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các nguyên tử. Ý thức, lý tính và các giác quan cũng xuất hiện do sự kết hợp của các nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã. Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì người ta không thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về "cái tôi" cũng hết. Về nhận thức luận và lôgic học, phái Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác biết được thì mới tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các giác quan cũng gồm các nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay những chứng minh của kinh Véđa đều là những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ đó, họ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn. Về đạo đức học, họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia sau khi chết. Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động, hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời nên đạo đức học của họ được gọi là "chủ nghĩa khoái lạc". 2.2.2.2. Triết học Phật giáo Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI tr. CN ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ với Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 11
  12. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đườn giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó. Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn thể hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: 1) Tạng kinh (Sutra - pitaka) ghi lời Phật dạy; 2) Tạng luật (Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật; 3) Tạng luận (Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau. 2.2.2.3. Trường phái triết học Jaina Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với Phật giáo. Người sáng lập ra trường phái này là là Maharvira, có hiệu là Jaina (nghĩa là Chiến thắng). Triết học cơ bản của Jaina là học thuyết và "cái tương đối". Theo thuyết nay, tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến đổi của vạn vật là không cùng; thế giới vạn vật là sự thống nhất của cái biến đổi và cái bất biến. Cái vĩnh hằng là vật chất; cái không vĩnh hằng là các dạng của vật chất. 2.3 Những giá trị tích cực và hạn chế của triết học Ấn Độ cổ, trung đại 2.3.1 Những giá trị : 2.3.1.1 Thế giới quan Hệ tư tưởng triết học ngoài Phật Giáo Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế giới, coi Brahman - "Tinh thần vũ trụ tối cao" - là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Atman - Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của "Tinh thần vũ trụ tối cao". Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn, là hiện thân của "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ vũ trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với "Linh hồn tối cao". Hệ tư tưởng triết học Phật Giáo Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố duy vật và biện chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận"Cái tôi" (Atman) và dưa ra quan niệm "Vô ngã" (Anatman) và "Vô thường"; HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 12
  13. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Phạm trù "Vô ngã" bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người cũng do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần là thể xác (Rupa - sắc) và tinh thần (Nâma - danh), do sự hợp tan của ngũ uẩn( sắc - thụ - tưởng - hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, duyên tan ngũ uẩn ra thì không còn là ta, là diệt, nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn. Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn biến hóa theo luật nhân quả không ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt mất, vụt còn, không có sự vật riêng biệt tồn tại mãi mãi, không có cái tôi thường định (An - Atman). Phạm trù "Vô thường" gắn liền với phạm trù "vô ngã". "Vô thường" nghĩa là vũ trụ là vô thủy, vô chung; vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hóa vô thường, vô định không do một vị thần nào tạo nên cả; tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả, theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không) và chỉ có sự biến hóa ấy là thường hữu. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật nhân duyên. Cái nhân (Hetu) nhờ có cái duyên (pratitya) mới sinh ra được mà thành quả (phla). Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới...và cứ biến đổi mãi mãi. Vì không nhận thức được sự biến ảo vô thường đó nên người ta nhầm tưởng là cái tôi tồn tại mãi, cái gì cũng là của ta nên con người cứ khát ái, tham dục, hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó tạo ra những kết quả, gây nên nghiệp báo (karma), mắc vào bể khổ triền miên (sam - sara) tức là mắc vào kiếp luân hồi. 2.3.1.2 Nhận thức luận Hệ tư tưởng triết học ngoài Phật Giáo Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ khác nhau là hạ trí (aparâvidây) và thượng trí (parâvidây). Hạ trí là tri thức phản ánh những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc đa dạng của hiện thực gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật. Thượng trí là trình độ vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), thường hằng, vô hình và là bản chất của tất cả những cái đang tồn tại (Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò và công dụng của nó đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết để đưa con người tới hiểu biết thượng trí. Hệ tư tưởng triết học Phật Giáo HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 13
  14. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp" trong Upanishad, Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật. "Tứ diệu đế" là bốn chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, gồm: + Khổ đế: Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng có 8 nỗi khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly ( Yêu thương mà phải chia lìa), Oán tăng hội ( Oán ghét nhau mà phải sống với nhau), sở cầu bất đắc ( Cầu mong mà không được), ngũ thụ uẩn ( năm yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ). + Nhân đế (hay Tập đế): Giải thích những nguyên nhân gây nên đau khổ cho chúng sinh. Đó là 12 nguyên nhân ( Thập nhị nhân duyên): 1. Vô minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9. Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão, tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì Vô minh tức là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên. + Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi khổ, tiêu diệt nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới cảnh trí Niết bàn. + Đạo đế: Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thoát. Đó là con đường "tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm tám nguyên tắc có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn luyện là: Giới - Định - Tuệ (tức là: giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí tuệ bát nhã). 2.3.1.3 Nhân sinh quan Tư tưởng triết học ngoài Phật Giáo : Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần tục đã HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 14
  15. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là "nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là Brahman được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu thoát" (moksa). Tư tưởng triết học ngoài Phật Giáo : Trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch cuộc đời, khuyên người ta sống đạo đức, từ bi bác ái. Đó là những ưu điểm của triết lý Phật giáo. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn còn hạn chế, mang nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc sống, chủ trương "xuất thế", "siêu thoát" có tính duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội. 2.3.1.4 Giá trị giáo dục của Phật Giáo : Mục đích của sự giáo dục không phải để thích ứng chúng ta với hoàn cảnh xã hội mà là để giúp ta chiến đấu chống lại tội ác để xây dựng một xã hội hoàn thiện hơn. Con người phải hoạt động để thay đổi những giá trị và hồi phục tâm linh. Giáo dục là sự sinh trưởng liên tục của con người trong tâm linh, nó là con đường đưa đến thế giới nội tâm. Tất cả vẻ huy hoàng bên ngoài chỉ là sự phản ánh ánh sáng nội tâm. Giáo dục dự liệu sự lựa chọn và kiên trì với những giá trị cao và bảo vệ các giá trị của một xã hội. Trong đó, giáo dục ý thức được bản ngã thật của xã hội, giúp bồi bổ tâm linh và làm cho tinh thần phong phú, giúp phát triển tình thân hữu và tình đồng loại giữa các dân tộc trên thế giới. Phật giáo quan niệm nhân loại, với chúng ta có cùng một phản ứng đối với hạnh phúc và khổ đau và đích đến phải tìm lại sự an tĩnh và thanh thản. “Có một tinh thần mà chúng ta cảm thấy, đó là sự sung sướng không làm ác, cũng không trả thù, nhưng vui vẻ chịu đựng tất cả trong niềm hy vọng cuối cùng sẽ an úy tất cả. Hy vọng ấy vượt lên tất cả sự vui, buồn, thiện, ác. HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 15
  16. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Nó thấy suốt tất cả mọi cám dỗ. Vì nó không dính dấp một chút tội ác nên trong tâm tưởng nó cũng không gây tội ác cho ai. Nếu nó bị phản bội, nó sẵn sàng gánh chịu… Nó sinh ra trong khổ đau và lớn lên không một tình thương, nhưng nó không phàn nàn, mà cũng không thốt lời oán trách trách sự thảm sầu và áp bức. Không bao giờ nó sung sướng nhưng luôn luôn đau khổ vì nó bị giết chết cùng với niềm hoan lạc của thế giới. Tôi thấy nó cô độc và bị bỏ rơi, tôi kết tình đồng loại với những người sống trong những chỗ hoang liêu và tăm tối”. Tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần khoan dung kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt từ hòa, góp phần hình thành nên nền đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái “ta” rộng lớn của toàn thể vũ trụ vô biên. Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh Ấn Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng những ngăn cách xã hội giữa các đẳng cấp. Ngay từ khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã mang trong mình những giá trị nhân bản chung toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp. Trong đó lòng Từ bi – Bình đẳng – Vô ngã cùng sự hướng thiện mà đạo Phật muốn giáo dục con người với mục đích “cứu khổ” là quan trọng nhất. Theo đạo Phật, chính “chấp ngã” đã gây ra cho loài người những cuộc chiến tranh núi xương sông máu, chiến tranh tội ác và bạo lực đã và đang là điều nhức nhối của toàn nhân loại. Trong tình hình này Phật giáo kêu gọi mọi người hãy dứt các việc làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ trụ vào lòng và đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển nhân đạo và từ bi quên đi những cái “ta” ích kỷ, nhỏ hẹp. Vì thế tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần khoan dung kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt từ hòa, góp phần hình thành nên đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái “ta rộng lớn” của toàn thể vũ trụ vô biên, Đức Phật đã từng dạy: “Một hạnh phúc vĩnh cửu chỉ sống mạnh trong một tâm hồn giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể thực hiện một khi cá nhân chịu nhường bước”. Đó là mục đích giáo dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức trong một xã hội văn minh. [11] Nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng khác gì lời kêu gọi hòa bình - một nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi nhà, và là tài sản quý báu nhất của nhân loại. Đây là giá trị nhân đạo nhất, khác với mọi tôn giáo khác, trong suốt lịch sử tồn tại và phát triển Phật giáo luôn xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như sứ giả của hòa bình, an lạc. HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 16
  17. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Từ đó ta thấy giá trị tinh thần đạo đức toàn diện của giáo dục Phật giáo là trình bày sự thật về những mối tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời để giúp con người có được chính kiến để tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hoàn cảnh, để có thể chinh phục và cảm hóa được mọi người xung quanh. 2.3.1.5 Giá trị khoa học của Phật giáo: Từ 2.500 năm trước, quan niệm của Phật giáo về đời sống và vô ngã, cũng như có khái niệm về vật chất và tin chắc rằng cần phải giải phóng bản thân chúng ta khỏi ngục tù của các phân tử vật chất. Khẳng định giá trị thực tiễn của nhân sinh quan. Phật giáo không phải là tôn giáo thuần tín ngưỡng, mà là tôn giáo của lý trí. Trên lập trường khoa học, có thể soi sáng cho nhân loại trên hành trình tìm chân lý. Đạo Phật đến với con người qua những lời dạy thiết thực gắn liền với những hành vi cử chỉ của mỗi người, những mối quan hệ giữa con người với con người và con người với xã hội. Nhưng trong bất cứ tình huống nào thì con người cũng phải “làm chủ”, không bị nô lệ bất cứ một đối tượng hay một sự vật nào cả. “Làm chủ không có nghĩa là nêu cao bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã hay độc quyền, độc đoán. Mà làm chủ có nghĩa là tự làm chủ mình trước mọi hoàn cảnh, trước những đột biến của nội tâm và ngoại cảnh”. Để giáo dục, đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố biện chứng, kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của khổ đau là do thâm, sân, si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định con đường diệt khổ đó là “trung đạo”,“bát chính đạo”... chứa đựng sự lý đầy thuyết phục và hướng con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thông, hỷ xả với nhau. Vị tha dạy con người sống vì người khác, bao dung độ lượng đó là phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy sinh mọi điều tốt lành. 2.3.2 Tư tưởng giải thoát Tư tưởng giải thoát là tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của Ấn Độ giáo và Phật giáo. Các trường phái triết học tôn giáo Ấn Độ nói chung tuy muôn màu muôn vẻ với những khuynh hướng khác nhau, nhưng hầu như đều tập trung vào lý giải một vấn đề then chốt nhất, đó là vấn đề bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ đau của con người và con đường, cách thức giải thoát cho con người khỏi bể trầm luân của cuộc đời. Trong logique triết lý của mình, nhắm đến việc giải thoát luôn là mục đích, nhiệm vụ tối cao của các trường phái triết học tôn giáo Ấn độ. Mỗi một môn phái có những nẻo đường HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 17
  18. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang riêng nhưng mục đích vẫn chỉ là một, hay nói cách khác “sự giải thoát là mục đích tối hậu trong Ấn độ giáo và Phật giáo”. 2.3.2.1 Tư tưởng giải thoát trong Ấn độ giáo Ấn giáo là một tôn giáo truyền thống của Ấn độ mà các tín đồ tuyên xưng sự trung thành của họ với kinh Vệ đà và sự trung thành ấy được diễn dịch thành nhiều giáo phái mà thần Vishnu, Shiva, Durga hoặc các vị thần khác được đồng hóa với nguyên lý thần linh tuyệt đối là Đại ngã, chiếm vị trí thứ nhất trong việc tôn sùng và suy lý. Nền tảng các tín điều chung cho tôn giáo này là một cái nhìn bao hàm về vũ trụ như sự lưu xuất và biểu hiện của một nguyên lý tuyệt đối và vô hình, đó là Brahman – cái đặc biệt nội tại nơi mỗi sinh vật, nguyên lý tối cao và tuyệt đối, căn nguyên vĩnh cửu của mọi thực tại trong vũ trụ. Tất cả những hành vi tương đối khác của kiếp nhân sinh và vạn vật đều nhằm biểu lộ trật tự của Brahman nội tại trong Atman và do những tác dụng của định luật về Nghiệp mà tạo nên những điều kiện hậu lai của những vòng luân hồi có tính cách thưởng phạt. Những vòng luân hồi này giữ cái “thân” làm tù nhân cho sự bất tất của bánh xe định mệnh và ngăn cản nó thực hiện tính đồng nhất theo bản tính với Brahman, tức là chưa đạt đến được sự giác ngộ và thực hiện sự đồng nhất Atman-Brahman, và còn bị ràng buộc trong vòng sinh tử luân hồi bất tận, bị điều động và chi phối bởi nghiệp báo. Nghiệp báo là định luật giam hãm con người trong vòng luân hồi cho tới khi nào con người đạt được chân tri, đạt đến giải thoát, đạt đến trạng thái đồng nhất với thiêng liêng, với tự ngã tuyệt đối và bất diệt. Nhưng, trạng thái đồng nhất với thiêng liêng được thực hiện như thế nào? Phải chăng đó là cuộc đời bất diệt cùng với Thượng đế trong cõi Phạm Thiên? Phải chăng đó là một sự tan biến hoàn toàn vào trong thiêng liêng vô ngã? Ấn giáo có các bộ kinh chính là Vedas (Vệ đà), Upanishad (Áo nghĩa thư), Bhagavad Gita (Chí tôn ca), viết bằng tiếng Sanskrit… Thời Vệ Đà Thiên Thư dân chúng sùng bái cúng tế để cầu xin sự trợ giúp của các thần linh mong cầu sự giải thoát khỏi biển khổ trầm luân của cuộc đời trong kiếp nhân sinh. Nghĩa là cách thức và con đường giải thoát được đề ra trong kinh Vệ Đà là thông qua việc tế tự, tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của các đấng thần linh biểu tượng cho sức mạnh của tự nhiên và xã hội. Qua thời kỳ Áo Nghĩa Thư việc nối kết với đấng thiêng liêng tuyệt đối không chỉ giới hạn trong nghi thức tế tự, mà bao gồm những luận giải triết học cao siêu. Áo Nghĩa Thư là những bộ kinh luận được các giáo sĩ Bà La Môn trước tác nhằm HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 18
  19. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang khai triển nền giáo lý Vệ Đà trên phương diện triết học. Trong khi các kinh Vệ Đà chú trọng về nghi thức thờ phụng thì Áo Nghĩa Thư muốn tìm hiểu thêm về tự ngã và tự thể của con người và mối liên hệ của chúng với bản thể tuyệt đối của vũ trụ vạn vật. Nội dung căn bản của Áo Nghĩa Thư cho rằng con người, cũng như mọi chúng sinh đều có một tự thể bất sinh, bất diệt, thường tịch và vô trụ như Bản thể tuyệt đối, thường được gọi là Atman hay Tiểu ngã (một linh hồn bất diệt). Khi tự ngã của con người hay của chúng sinh chưa hoà nhập với Bản thể tuyệt đối (Brahman, đấng Phạm Thiên hay Đại Ngã), thì Tự ngã của con người vẫn còn phải luân hồi trong vòng sinh tử. Họ chủ trương “Brahma-Atman đồng nhất” và con người giải thoát là con người hoà đồng vào bản thể của vũ trụ. Tiểu Ngã hoà đồng với Đại Ngã vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu. Theo Upanishad thì Thiên đàng hay “nẻo đường của tố phụ” (Patri Yana) chỉ là cõi yên vui có hạn định cho những người lúc sinh thời chăm lo tế tự và làm việc thiện nhưng cốt để hưởng thụ ân phúc ở kiếp này hay kiếp sau, nghĩa là còn hành động chỉ vì kết quả của hành động. Đó là hành động tạo nghiệp, vì hành động tự nó có tính cách ràng buộc, và bất cứ một hành động nào cũng gây ra một phản ứng tương xứng. Hành động công đức có thể đưa con người tới cõi Thiên đàng hưởng phúc, nhưng dù cho tốt đẹp đến đâu những hành động ấy cũng không thể giải thoát con người ra khỏi vòng sinh tử luân hồi để đưa đến cõi bất diệt. Vì thế, sau một thời gian hưởng phúc trên thiên đàng, linh hồn con người lại phải trở về đầu thai nơi trần thế. Vậy chỉ có hành động vô chấp, vô cầu không do dục vọng thúc đẩy, nghĩa là hành động với tính cách vô tư hồn nhiên, không quyến luyến đam mê mới là hành động đưa ta đến cõi bất diệt hay “nẻo đường thần linh” (Deva Yana), là chốn hạnh phúc viên mãn đời đời, chỉ dành riêng cho những người chọn cuộc đời thoát tục và thiền định. Đó chính là cõi bất diệt, là cứu cánh của đời người, là giải thoát thực sự. Nơi đây linh hồn trở nên hợp nhất với Thượng đế, với Đại ngã siêu việt và tự tại, hoàn toàn đoạn tuyệt với khổ não luân hồi. Linh mục Anthony De Mello SJ trong cuốn Cuối cùng ta cũng tự do đã ví hành động vô cầu, vô chấp để đưa đến giải thoát triệt để trong Ấn giáo như người thi bắn súng. Nếu anh chỉ chăm chú vào phần thưởng treo lơ lửng trên đầu đích nhắm thì chính cái phần thưởng ấy sẽ chi phối tâm trí anh và anh sẽ không đủ bình tĩnh để thực hiện công việc trong trạng thái an nhiên tự tại[7]. Upanishad còn nhấn mạnh đến nẻo đường giải thoát qua pháp môn tri thức: “Những người đi tìm chân lý có thể được giác ngộ bằng hai con đường khác nhau: con đường tri thức của những người suy tưởng và con đường hành động vô tư của những người hoạt động”. HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 19
  20. Giá trị & Hạn chế của triết học Ấn Độ GVHD: TS. Phạm Lê Quang Tri thức ở đây là tri thức về Brahman, thực tại tuyệt đối. Shvetashvatara Upanishad nói: “Những ai biết được Ngài (Brahman) sẽ trở thành bất tử”. Tri thức này không phải do giác quan hay suy luận đem lại mà là một tri thức trực giác do công phu thiền định hay thực nghiệm tâm linh. Khả năng của giác quan có những giới hạn rõ rệt, trí tuệ hay tư duy cũng chỉ là những giao động của khối óc, một khoảng vật chất bé nhỏ trong cơ thể. Những cái hữu hạn ấy không thể dùng để đo lường và nhận thức được thực tại tối cao, vô hạn, vô cùng. Katha Upanishad nói: “Atman chẳng thể nhận biết được bởi học vấn, bởi sức mạnh của trí óc”; “Atman không thể nhận biết được bằng giác quan. Tự ngã mở các giác quan ra phía ngoài, bởi thế người ta chỉ trông ra thế giới bên ngoài mà không nhìn về bản ngã. Nhưng có những nhà hiền triết đi tìm đời sống vĩnh cửu đã hướng mắt vào nội tâm và nhận ra chân ngã Atman”. Chỉ có trực giác là một cảm ứng với thiêng liêng, thực hiện sự đồng nhất giữa Atman và Brahman mới là cái biết thực sự, giải thoát con người ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Như thế, cái biết thật sự này còn khác với những tri thức do trí tuệ tư duy và giác quan ở chỗ không có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể, giữa năng tri với sở tri. Chính óc phân biệt là nguồn gốc của mọi sự sai lầm, càng ngày càng đẩy xa con người vào vòng luẩn quẩn của những ý niệm lưỡng nguyên đối đãi. Nói giải thoát vạn vật và chúng sinh, nhưng đúng ra ý tưởng giải thoát chỉ đặt ra với con người có lý trí, có tự do lựa chọn và quyết định khi hành động. Thật vậy, chúng ta không thể kết án và buộc tội thói hung dữ của con sư tử hoặc ca ngợi tính hiền lành của con cừu, vì chúng chỉ ước muốn, quyết định và hành động theo bản năng di truyền và nhu cầu tự nhiên. Chúng không có ý niệm đạo đức và không hành động lừa dối một cách có ý thức. Những hành động của chúng chỉ hoàn toàn theo bản năng và có tính cách máy móc, vô trách nhiệm, do đó không tạo nên những nghiệp quả tốt hay xấu có ảnh hưởng đến vận mệnh tương lai của chúng. Bhagavad Gita (Chí tôn ca) đề nghị chúng ta ba nẻo đường giải thoát. Đây là một pháp môn linh động và đa diện, nó chỉ dẫn cho con người ba nẻo đường khác nhau nhưng cùng đưa tới một mục đích là giải thoát linh hồn, thực hiện sự hợp nhất với thực tại tối hậu, với Thượng đế. Ba nẻo đường này tùy theo những khuynh hướng hoặc thiên hướng suy tưởng khác nhau, hoặc thiên về tình cảm, hoặc thiên về hoạt động… của mỗi người mà thực hiện phù hợp với mình. Nẻo đường tri thức. Gita phân biệt hai loại tri thức: Một là do lý trí hướng ngoại tìm hiểu những hiện tượng của đời sống, và một là nhờ trực giác mà đạt được chân lý tối hậu tiềm ẩn đằng sau hiện tượng biểu hiện. Một là do hiểu biết khoa học hay luận lý có tính cách thành phần, một là do hiểu biết thuần túy hay siêu nghiệm HVTH : Trần Văn Khiêm Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2