intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Lạm Phát Việt Nam 2011 – Thực trạng, giải pháp và cái nhìn về tương lai

Chia sẻ: Hà Dím | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

320
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận "Lạm Phát Việt Nam 2011 – Thực trạng, giải pháp và cái nhìn về tương lai" trình bày các nội dung chính như sau: Tình hình lạm phát ở Việt Nam 2011, đánh giá tình hình lạm phát 7 tháng đầu năm 2011, nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Lạm Phát Việt Nam 2011 – Thực trạng, giải pháp và cái nhìn về tương lai

  1. Trường Đại Học Ngân Hàng TPHCM Khoa Tín Dụng Tiểu luận: Nhập môn Tài Chính – Tiền Tệ Đề Tài: Lạm Phát Việt Nam 2011 – Thực trạng,   giải pháp và cái nhìn về tương lai. Lớp: T08. (Nhóm 3) GVHD: Nguyễn Văn Nghiện Sinh viên:                  Huỳnh Ngọc Đan Thanh. MSV: 030125090724                 Trần Đại Trí.                     MSV: 030125090955 TPHCM – 8/11/2011 1
  2. Mục lục: Lời nói đầu ……………………………………………………………………Trang 3 1.Tình hình lạm phát ở Việt Nam 2011………………………………………..Trang 4 1.1. Đánh giá tình hình lạm phát 7 tháng đầu năm 2011……………………Trang 4 1.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam……………………………………Trang 5   1.2.1. Nguyên nhân tích tụ  từ  giai đoạn trước……………………………..……… Trang  5 1.2.2. Nguyên nhân xuất hiện trong năm 2011……………………………….…… Trang 7 1.3. Dự  báo lạm phát Việt Nam những tháng cuối 2011……………………Trang 9 2.Các chính sách kiềm chế  lạm phát  ở  Việt Nam……………………….…Trang 10 2.1.Các chính sách kiềm chế lạm phát 6 tháng đầu 2011..............................Trang 11 2.1.1 Chính sách tiền tệ………………………………..………………………….…Trang 11 2.1.2 Chính sách tài chính……………………………..……….……………………Trang 16 2.2 Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa 6 tháng cuối năm 2011 như  thế   nào?…………………………………...…………………………………….… Trang   18 2.3 Các giải pháp phối hợp để  kiểm soát lạm phát tại Việt Nam……………Trang  20 Lời   kết…………………………………………………………………………Trang  23 Tư liệu tham khảo…………………………………………………………….Trang 24 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Lạm phát thể hiện giá cả chung cả nền kinh tế trong nước tăng lên theo thời gian,   là sự mất giá của đồng bản tệ theo đó sức mua của đồng tiền bị giảm sút, về quan   hệ đối ngoại, lạm phát còn là sự phá giá của đồng tiền nước này so với đồng tiền   của nước khác. Tùy theo mức độ lạm phát mà có tác động tích cực hay tiêu cực đến   nền kinh tế xã hội và uy tín của quốc gia trên trường quôc tế, vì vậy, lạm phát luôn  là vấn đề  được quốc gia quan tâm. Trong điều hành chính sách tiền tệ, lạm phát  luôn là vấn đề được ưu tiên hàng đầu của mỗi nước.  Trải qua cuộc khùng hoảng tài chính toàn cầu 2007 – 2009, đến nay nền kinh tế thế  giới vẫn còn chưa  ổn định. Trong 6 tháng đầu năm 2011, kinh tế  thế  giới liên tục   phục hồi nhưng có nhiều dấu hiệu bất  ổn, tăng trưởng kinh tế  chậm lại  ở  nhiều   nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản. Lạm phát có xu hướng tăng cao trên toàn cầu  khiến chính sách thắt chặt tiền tệ  lan rộng tại hầu hết các nền kinh tế  trên thế  giới. Bên cạnh đó, thị trường tài chính biến động, giá vàng liên tục tăng và lập các   kỷ lục mới, đồng USD giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác, vấn đề  nợ  công   và thâm hụt ngân sách diễn biến phức tạp  ở  nhiều nền kinh tế  lớn trên thế  giới  như châu Âu, Mỹ,… Dưới tác động của bối cảnh kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng   chịu ảnh hưởng khá lớn và đang đối mặt với nguy cơ lạm phát tăng cao. Với nhiều  dự báo, Việt Nam có thể lạm phát nằm trong top 4 của thế giới. Điều đó cho thấy   tồn tại nguy cơ tiềm ẩn rủi ro khá cao về bất ổn kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Trước tình trạng này, Chính phủ  nước ta đã có những biện pháp về  “điều hành   chính sách tiền tệ  và chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt để  kiềm chế  lạm   phát và từng bước  ổn định vĩ mô”. Đánh giá lại qua 6 tháng đầu năm, những chính   sách trên đã có những tác động nhất định, nhưng song song đó vẫn còn nhiều thách  thức đặt ra. Bài tiểu luận này giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về vấn đề kinh tế  nóng bỏng này. 3
  4. 1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM NĂM 2011 Tiếp theo năm 2009, năm 2010 cũng là năm được đánh giá là nền kinh tế khó khăn,  chỉ  số  CPI tăng 11,75% nhưng Việt Nam đã vượt qua để  đạt được tốc độ  tăng   trưởng GDP 6,78%. Cũng trong năm 2010 chúng ta kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam   sẽ tốt hơn trong năm 2011 nên đã đặt mục tiêu định hướng kiềm chế CPI dưới 7%,   đạt tốc độ tăng trưởng GDP 7,5%, tuy nhiên kinh tế thế giới đã có những diễn biến   bất ngờ, giá vàng, nhiên liệu tăng, bên cạnh đó Nhật Bản bị  thảm họa động đất   sóng thần; tình hình chính trị  bất ổn  ở  Lybia, tình hình khủng hoảng nợ  công châu  Âu… đã có những tác động đến nền kinh tế  toàn cầu. Nhiều nước trên thế  giới,   đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi tại châu Á phải đối mặt với bài toán khó, đó là  kìm chế  lạm phát nhưng vẫn bảo đảm phục hồi tăng trưởng kinh tế. Trong bối  cảnh đó diễn biến lạm phát của Việt Nam năm 2011 gia tăng nhanh có nguy cơ lặp   lại kịch bản của năm 2008. Giá cả  nhiều mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương  thực thực phẩm gia tăng, tác động không nhỏ đến đời sống thường ngày của người   dân. Bên cạnh đó, lạm phát khiến cho mặt bằng lãi xuất, chi phí các yếu tố đầu vào   tăng lên khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của không ít doanh nghiệp trở  nên khó khăn. 1.1. Đánh giá tình hình lạm phát 7 tháng đầu năm 2011 Chỉ  số giá tiêu dùng CPI tháng 7 năm 2011 tăng 22,16% so với cùng kỳ  năm 2010,  cao gấp 3 lần so với mức tăng tương  ứng của năm 2010 (8,19%) và cũng là mức  tăng rất cao so với nhiều năm gần đây ( chỉ thấp hơn cùng kỳ năm 2008 là năm lạm  phát tăng cao đột biến). Bình quân 7 tháng tăng 16,95%, so với tháng 12 năm 2010 tăng 14,64%; trong đó   tháng 7: 1,17%; tháng 6 1,29%; tháng 5 2,21%; tháng 4 3,32%; tháng 3: 2,17%; tháng  2:2,09% ;   tháng 1 :1,74%. Lạm phát cơ  bản tháng 6 tăng 14,88% so với cùng kỳ  2010 và tưang 9,1% so với tháng 12 năm 2010, tốc độ tăng có xu hướng chậm lại từ  tháng 5 (tháng 1: 1,58%; tháng2: 1,57%; tháng 3: 1,63%; tháng 4:1,83%; tháng 5:  1,39%, tháng 6:0,76%) Trong rổ  hàng hóa tính CPI, cấu phần có  ảnh hưởng lớn nhất đến CPI chung là  hàng ăn và dịch vụ  ăn uống tăng 21,2% và chiếm tỉ  trọng 59,1% (lương thực tăng  9,8% và chiếm tỉ  trọng 5,6%; thực phẩm tăng 26,12% và chiếm tỉ  trọng 44,5%);   tiếp đến nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng 19,05% (chiếm tỉ  trọng 11,8%);   nhóm nhà  ở,vật liệu xây dựng tăng 14,15%(chiếm tỉ  trọng 10,6%); nhóm đồ  dùng  và dịch vụ  khác tăng 8,51%(chiếm tỉ  trọng 1,99%); nhóm may mặc, giày dép, mũ  4
  5. nón tăng 8,65%( chiếm tỉ trọng 4,4%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 6,48% (chiếm tỉ  trọng 3,92%); còn các nhóm hàng còn lại giao động từ  mức 4,32% đến  6,36%; trừ mặt hàng bưu chính viễn thông đạt mức ­1,74%. Mặc dù CPI có xu hướng giảm tốc từ tháng 5 nhưng trong cả  giai đoạn, CPI hàng   tháng đều có tốc độ tăng cao hơn so với tháng trước. Tiếp theo đà của những tháng  cuối năm 2010, CPI tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm nay, cá biệt CPI tháng 4 tăng   đột biến 3,32% so với tháng trước và là mức tăng cao nhất so với cùng thời điểm   trong vòng 3 năm qua. Sau đó CPI đã đổi hướng giảm dần trong 2 tháng tiếp theo và  CPI tháng 6 dừng ở con số 1,09% ­ mức thấp nhất trong vòng 6 tháng đầu năm. Tuy  CPI chỉ tăng nhẹ ở mức 1,17% trong tháng 7 nhưng đã khiến gia tăng quan ngại về  lạm phát tăng tốc trong những tháng cuối năm và đòi hỏi tiếp tục thực hiện nghiêm   túc và triệt để các chính sách kiềm chế lạm phát theo định hướng đề ra. 1.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam 1.2.1. Nguyên nhân tích tụ từ giai đoạn trước Thứ  nhất, giai đoạn 2009 – 2010 chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ  nhanh   chóng được nới lỏng trở lại để khôi phục tăng trưởng kinh tế trong khi những bất   ổn nội tại của nền kinh tế  chưa được giải quyết triệt để. Sau giai đoạn khủng   hoảng tài chính thế giới và suy thoái kinh tế, chính phủ đã thực thi chính sách kích  cầu cũng như  gia tăng vốn đầu tư  từ  khu vực nhà nước để  phục hồi tăng trưởng  với mục tiêu đưa tốc độ  tăng trưởng GDP trở  lại mức trước khủng hoảng, trong   khi đó hiệu quả đầu tư công vẫn còn thấp. Mặc dù lạm phát năm 2010 đã quây trở  lại mức 2 con số  nhưng đầu năm 2011, quốc hội vẫn đề  ra mục tiêu tăng trưởng  kinh tế từ 7 ­7,5% trong khi mục tiêu kiểm soát lạm phát chỉ ở mức 7%, vì vậy có   thể nói các chính sách kinh tế bị động trước tình trạng lạm phát tăng cao trong năm  nay. Thứ hai, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn   chủ  yếu do mở  rộng đầu tư  thay vì chú trọng đến hiệu quả  đầu tư, vốn đầu tư  cũng chưa được phân bổ một cách hiệu quả. Theo số liệu từ trung tâm nghiên cứu  chính sách và phát triển bền vững (CSDP), giai đoạn 2006­2010 chỉ  số  ICOR của  khu vực nhà nước vào khoảng 10,2 trong khi của khu vực tư  nhân chỉ  là 5. Hơn   nữa, lĩnh vực thu hút đầu tư  lại là lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản. Trong   khi đó, những ngành nghề  cần được đẩy mạnh đầu tư  để  gia tăng năng lực sản  xuất thực sự cho đất nước như các ngành nông lâm nghiệp, công nghiệp, giáo dục   đào tạo… lại chưa được đầu tư  đúng mức. Việc phát triển nền kinh tế không bền  5
  6. vững, lệ thuộc nhiều vào dòng vốn từ  nước ngoài được coi là nguyên nhân sâu xa   dẫn tới tình trạng lạm phát cao của Việt Nam trong những năm vừa qua. Thứ ba, giá lương thực thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên tế giới  đã có tác động nặng nề đến các nước, trong đó có Việt Nam. Tính bình quân trong   vòng 10 năm qua, giá lương thực thực phẩm đã tăng 2,6 lần trong khi các hàng hóa  khác tăng 1,7 lần. Đây cũng là nhân tố  làm lạm phát  ở  Việt Nam tăng mạnh do   nhóm các hàng hóa này chiếm hơn 40% khi tính CPI tại Việt Nam. 1.2.2. Nguyên nhân xuất hiện trong năm 2011  Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao: Mở đầu cho việc tăng giá mặt hàng thiết yếu là ngày 24/2 năm 2011, giá xăng trên  thị  trường nội địa Việt Nam tăng lên mức 19.300đồng/lít và đến ngày 26/7/2011 là   21.300đồng/lít. Sau chuỗi tăng giá xăng thì thị trường Việt Nam còn phải chịu thêm  gánh nặng của việc ngành điện quyết định tăng giá trong tháng 3 năm 2011. Theo   đánh giá của giới chuyên môn lần tăng giá này là cần thiết và hợp lý vì lâu nay   ngành điện luôn phải bù lỗ để có mức giá ưu đãi cho nhân dân. Tuy nhiên trong tình   trạng giá cả  leo thang, các công trình thủy điện đang xây dựng gian dở  cần huy   động thêm vốn thì việc tiếp tục bù lỗ trở thành điều không thể đối với ngành điện.  Với việc 2 nguồn nhiên liệu chủ  yếu của xã hội là xăng và điện cùng tăng giá thì  việc các loại hàng hóa trong xã hội cũng dần dần tăng giá theo là một điều khó  tránh khỏi. Lạm phát tăng cao và nhanh ở 3 nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm; thuốc tân   dược và vật liệu xây dựng. Cả  3 mặt hàng này đều liên quan trực tiếp và thường   xuyên đến đời sống của đông đảo quần chúng, đặc biệt là những người hưởng   lương, những người dân có hoàng cảnh khó khăn và không có nguồn thu nhập. Sự  tăng cao của giá cả  tiêu dùng có rất nhiều lý do nhưng các lý do sau đây cần phải  quan tâm: ­ Về  tình hình sản xuất: Một số các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải   thu hẹp sản xuất vì thiếu vốn do lãi xuất vay ngân hàng cao có khi phải vay  25­26%, hiện nay tuy có giảm cũng đang nằm ở mức 21­23%, sản phẩm sản   xuất giảm trong khi nhu cầu thiết yếu của người dân cần sử  dụng đã đẩy   giá lên cao. Một số  doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có nguồn vốn dồi   dào thì thực hiện khép kín từ khâu mua nguyên liệu vật liệu sản xuất để sản  xuất ra nhiều sản phẩm với giá thành sản phẩm thấp, lại tìm cách chiễm  lĩnh thị phần có thể khống chế mặt hàng, nâng giá cả lên cao thu lợi lớn. 6
  7. ­ Về  khâu phân phối: Các kênh phân phối hoàn toàn khó kiểm soát cũng là lý   do đẩy giá lên cao. Nạn đầu cơ, buôn lậu khó kiểm soát tạo thế  lực trong   phân phối, quyết định giá cả  các mặt hàng đặc biệt các mặt hàng tiêu dùng  thiết yếu. ­ Ngoài ra nguyên nhân tác động kinh tế thế giới, thiên tai, dịch bệnh…  Tác động tâm lý: Sức mua của đồng Việt Nam giảm sút nhanh càng khiến cho người dân hướng tới  vàng và ngoại tệ  như  một phương tiện cất trữ  tài sản. Tâm lý tích trữ  vàng và  ngoại tệ nhất là đô la Mỹ của một bộ phận lớn dân cư đã góp phần đẩy giá vàng và  đô la lên cao, đồng thời ngày càng làm mất giá trị của tiền đồng. Vòng lẩn quẩn ấy  đã khiến cho tình hình lạm phát  ở  Việt Nam diễn biến ngày càng phức tạp. Chỉ  trong 3 tháng đầu năm 2011 tiền đồng của Việt Nam đã mất giá 8,5%. Đặc biệt  NHNN Việt Nam  đã phải quyết định tỉ  giá 1 đô la Mỹ  từ  18.643VND lên đến  20.900VND   theo   tỉ   giá   hối   đoái   chính   thức   (giá   chợ   đen   lên   đến   khoảng  21.500VND) hiện nay giá vàng lên rất cao đạt 40,05 triệu đồng/lượng trong ngày  27/7/2011.  Nguyên nhân từ  sự  thiếu hụt thanh khoản của các ngân hàng thương   mại, điều này đã đẩy lãi suất cho vay của NHTM tăng cao và làm tăng chi phí đầu   vào của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự thiếu hụt thanh khoản của các  NHTM từ nhiều nguyên nhân nhưng một số khía cạnh đáng chú ý như: ­ Hoạt động của thị  trường liên ngân hàng: Theo NHNN lãi suất cho vay trên   thị  trường liên ngân hàng từ  giữa tháng 5 đến tháng 7 có xu hướng giảm so  với thời gian trước, hiện nay lãi suất cho vay qua đêm ở  mức 13%/năm, lãi   suất cho vay 1 tuần  ở mức 15%/năm lãi suất cho vay 2 tuần đến 1 tháng  ở  mức 18%/năm. Tuy nhiên, thời gian trước, lãi suất thị  trường liên ngân hàng  liên tục tăng cao, có thời điểm lãi suất lên đến 25­27%. Nguyên nhân do việc   thắt chặt tiền tệ  để  kiềm chế  lạm phát của NHNN đã khiến một số  ngân  hàng nhỏ  gặp khó khăn về  thanh khoản. Trong khi đó, các NH này bị  hạn  chế  về  thương hiệu, mạng lưới khiến khó có thể  cạnh tranh được với các  ngân hàng lớn trong việc huy động vốn, nhất là khi NHNN  ấn định trần lãi  suất huy động tối đa chỉ là 14%/năm. Các NH này cũng gặp khó khăn trong  việc đi vay từ NHNN trên thị trường mở do thiếu giấy tờ có giá để giao dịch;  7
  8. NHNN cũng đang hạn chế lượng tiền cung  ứng để kiềm chế lạm phát. Khó  khăn về  thanh khoản khiến các NHTMCP nhỏ  thường xuyên phải vay trên   thị  trường liên ngân hàng. Các ngân hàng dư vốn đã tận dụng tình trạng này  để cho vay các NHTM thiếu vốn với lãi suất cao có lúc lên đến 20­21%/năm.   Thực trạng này làm mất đi ý nghĩa vốn có của thị  trường liên ngân hàng là  nơi đi vay và cho vay ngắn hạn giữa các ngân hàng với nhau, là nơi “bấu   víu” của các NH tạm thời thiếu thanh khoản. Không những vậy, việc làm  này còn khiến đồng vốn chỉ chạy lòng vòng trong các ngân hàng mà không đi  vào vùng kinh tế để phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh. Thậm chí nhiều   NHTM nhỏ không chấp nhận kiểu đi vay này đã quay trở lại thị trường 1 để  huy động vốn bằng mọi giá. Và khi các NHTM nhỏ khởi động cuộc đua, để  giữ chân khách hàng và duy trì nguồn vốn ổn định, các NHTM lớn cũng buộc   phải đẩy lãi suất huy động lên cao khiến cuộc đua lãi xuất bùng phát. ­ Thiếu sự hỗ trợ thanh khoản đối với các ngân hàng TM từ công ty Bảo hiểm   tiền gửi Việt Nam: Việt Nam đã có nhiều văn bản đề  cập đến việc chi trả  tiền gửi cho người gửi tiền khi NH  bị  phá  sản, song  đây không phải là   nhiệm vụ  chính yếu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi   Việt Nam là một kênh rất quan trọng hỗ trợ cho các NHTM khi họ gặp khó  khăn về thanh khoản nhưng đến nay vẫn chưa có luật bảo hiểm tiền gửi để  làm minh bạch cho nhiệm vụ và quyền lợi của NHTM, Bảo hiểm tiền gửi   Việt Nam, người gửi tiền. ­ Sự  hỗ  trợ  thiếu hụt thanh khoản từ  số  dư  tiền gửi bắt buộc từ  NHNN:   NHNN có thể tăng, giảm tỉ lệ dự trữ bắc buộc để tác động đến mở rộng, thu  hẹp hoạt động kinh doanh của NHTM khi các NHTM chấp hành thực hiện   chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi dự trữ bắc buộc tại NHNN. Nếu các NH  chấp hành tốt thì thực sự làm mạnh hệ thống thanh khoản đối với hệ thống  NH. NHNN có thể sử dụng số tiền này để hỗ  trợ  sự  thiếu hụt thanh khoản  của một số NH, đảm bảo an toàn hệ thống NHTM. Hiện nay điều này chưa  được đề  cập chức năng này của NHNN trong việc hỗ  trợ  thanh khoản từ  kênh tiền dự trữ bắt buộc. 1.3. Dự báo lạm phát Việt Nam những tháng cuối 2011 Nhiều chuyên gia nhận định rằng lam phát Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào tháng 8, tháng   9 sau đó giảm dần đến cuối năm: ­ Tổng cục thống kê nhận định lạm phát tiếp tục tăng cao đến khoảng tháng   8­9/2011 sau đó giảm dần. 8
  9. ­ World Bank dự báo lạm phát Việt Nam sẽ đạt đỉnh vào tháng 6 với mức tăng   22% so với cùng kỳ và giảm dần, đến tháng 12 đạt khoảng 15%. Trong những tháng tới lạm phát chịu nhiều sức ép tăng do: ­ Giá hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá các nguyên, nhiên vật liệu cơ  bản và   giá lương thực thực phẩm như: gạo, xăng dầu, gas, cao su, phôi thép, đồng,   thiết… có thể  đứng  ở  mức cao trong thời gian tới (theo báo cáo triển vọng   kinh tế  thế  giới công bố  tháng 6/2011, IMF dự  báo giá dầu năm 2011 tăng  34,5%, giá các hàng hóa phi dầu tăng 21,6% ­ mặc dù thấp hơn mức dự báo  tương ứng là 35,6% và 25,1% hồi tháng 4/2011 nhưng vẫn ở mức cao). ­ Tình hình thời tiết, dịch bệnh trong nước diễn biến phức tạp, bão lũ ( nhất là   trong quý 3 năm 2011) có thể  gây  ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguồn cung  hàng hóa, nhất là lương thực thực phẩm. ­ Giá các mặt hàng do nhà nước quản lý và giá các mặt hàng quan trọng thiết  yếu có thể  tăng do  ảnh hưởng của giá thế  giới và chính phủ  tiếp tục thực  hiện cơ chế giá thị trường. ­ Nhập siêu có thể gia tăng gây áp lực tỉ giá/giảm giá VND. ­ Chính sách tài khóa, đặc biệt là việc cắt giảm đầu tư  công chưa thể  hiện   được quyết tâm chống lạm phát. ­ Kỳ  vọng lạm phát gia tăng do giá các mặt hàng thiết yếu tăng, tiền lương   tăng, giá thế giới tăng. Dự báo lạm phát năm 2011 của Việt Nam có thể ở mức 17,5­19,5%. 2.  CÁC CHÍNH SÁCH KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: Trong năm 2011, với các bất  ổn về  chính trị   ở  Lybi, Bắc Phi, Triều Tiên… các  thảm họa thiên nhiên như  động đất, sóng thần Nhật Bản ngày 11/3/2011, giá hàng   hóa tăng (dầu hỏa, vàng, lương thực, năng lượng…), tình hình phục hồi kinh tế  toàn cầu chưa vững chắc  ở  2 quý đầu năm.  Nền kinh tế  Mỹ  nổi bật với thất   nghiệp 10%, thị trường nhà đất dễ  tổn thương, tốc độ  phục hồi kinh tế  chậm, có   khả năng giảm phát, gói kích thích kinh tế lần 2 (QE2) với 600 tỷ USD sẽ kết thúc  tháng 11/2011. Châu Âu đang phải đối mặt với nợ công trầm trọng từ tháng 4/2010  (110% GDP ở Hy Lạp, Bồ Đào Nha 85,1%, Bỉ 100,9%, Tân Ban Nha 69,1%...). Lạm   phát cao ở Châu Á đã khiến các quốc gia ở châu lục này phải ưu tiên kiềm chế lạm  9
  10. phát trong năm 2011. Sự  trỗi dậy của Trung Quốc –nền kinh tế thứ 2 thế giới­ đã  khẳng định vai trò đầu tàu của tăng trưởng kinh tế toàn cầu và khả  năng vươn lên   của đồng nhân dân tệ trong hệ thống tiền tệ thế giới.  Tại Việt Nam, sau hơn 25 năm đổi mới kinh tế  và 10 năm thực hiện chiến lược   phát triển kinh tế  xã hội 2001­2010, nền kinh tế  vẫn đạt mức tăng trưởng 6,78%,   cao hơn mức 5,32% của năm 2009 và 6,31% của năm 2008 – là một trong những  quốc gia có tốc độ  tăng trưởng kinh tế  tốt nhất trong khu vực. Năm 2010 cũng là  năm thứ  2 liên tiếp đánh dấu nhiều thành công, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng   kinh tế hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đặt ra, nhưng bên cạnh đó cũng để  lại nhiều  lo ngại vĩ mô. Bước sang 2011, các bất ổn vĩ mô ngày càng trở nên trầm trọng, đặc  biệt là LẠM PHÁT tăng mạnh, nếu lạm phát  ở  mức vừa phải có thể  xem là một  “liều thuốc kích thích” góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhưng ở mức cao   2 con số  như  hiện nay lại là vấn đề  cần bàn để  có những biện pháp thích hợp   nhằm kiểm soát, nếu không sẽ đe dọa hoạt động kinh tế cả nước và an sinh xã hội. Trong phạm vi của phần viết này, tôi xin đưa ra những chính sách mà chính phủ đã   thực hiện để kiềm chế căn bệnh nan y Lạm Phát trong 6 tháng đầu năm 2011, cũng  như đưa ra cái nhìn và đề xuất trong 6 tháng cuối năm 2011. 2.1 CÁC   CHÍNH   SÁCH   KIỀM   CHẾ   LẠM   PHÁT   CỦA   CHÍNH   PHỦ   6  THÁNG ĐẦU NĂM 2011. 2.1.1 CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: Chính sách tiền tệ giữ vai trò trực tiếp và gián tiếp trong những cố gắng của chính   phủ, nhằm mở rộng hoạt động kinh tế trong những thời kì thất nghiệp và công suất  dư thừa, và giảm bớt hoạt động đó trong những thời kì cầu quá lớn và lạm phát. Ngân hàng Trung  Ương (NHTW) là cơ  quan công quyền lớn nhất có chức năng  thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Về cơ bản, chính sách tiền tệ  tác động mạnh   nhất đến hai yếu tố  cung tiền và lãi suất. Để  kiểm soát mức cung tiền và do đó   điều chỉnh được lãi suất trong nền kinh tế. Để thực hiện chính sách tiền tệ NHTW   có thể  sử  dụng 3 công cụ  chính là: hoạt động trên thị  trường mở  (nghiệp vụ  thị  trường tự  do), thay đổi tỷ  lệ  dự  trữ  bắt buộc của các tổ  chức tài chính, tăng hoặc   giảm lãi suất chiết khấu. Trong 6 tháng đầu năm 2011, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, lạm phát  thì tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng tính đến tháng 6/2011 là 13,29%. Chính phủ  đã 2  lần nới chỉ  tiêu chỉ  số  giá tiêu dùng từ  7% lên 15% (vào cuối tháng 5/2011), ngay  sau đó điều chỉnh lên 17% (cuối tháng 6/2011). Tốc độ tăng trưởng kinh tế 6 tháng   10
  11. đầu năm 2011 đạt 5,6% (so với 6,16% cùng kì 2010 và 7­7,5% chỉ tiêu tăng trưởng   của năm 2011). Ngày 22/4/2011 Chính Phủ  ban hành nghị  quyết số  11/NQ­CP về  những giải pháp chủ yếu nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế  vĩ mô và đảm  bảo an sinh xã hội. Tóm tắt 6 nhóm giải pháp chủ yếu: ­ Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thận trọng. ­ Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi  ngân sách nhà nước. ­ Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử  dụng tiết kiệm năng lượng. ­ Điều chỉnh giá điện, xăng, dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo. ­ Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội. ­ Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Các biện pháp trên có sự tương hỗ với nhau và qua 6 tháng thực hiện cho thấy hiệu   quả  thực tế  của chúng đối với nền kinh tế. Mỗi biện pháp áp dụng, bên cạnh   những tác động tích cực và bao giờ cũng vậy luôn có những tác động trái chiều. Do  đó, cần phải cân nhắc kỹ  lưỡng các tác động tích cực và tiêu cực cũng như  thời   điểm áp dụng và thời điểm dừng một cách hợp lý. Để kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tổng phương diện thanh toán, dư  nợ tín   dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, NHTW đã:  ­ Yêu cầu các tổ  chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh tăng trưởng tín dụng   dưới 20% trong cả năm 2011, tập trung vốn tín dụng cho phát triển sản xuất   kinh doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ  trợ, doanh  nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ tín dụng trong  lĩnh   vực   phi   sản   xuất   xuống   mức   22%   đến   30/6/2011   và   16%   đến  31/12/2011; ­ Điều chỉnh tăng dần các mức lãi suất chính sách của NHTW và tỷ lệ dự trữ  bắt buộc bằng ngoại tệ cho phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô và tốc  độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng. ­ Điều hành lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn phù hợp  với nhu cầu của thị trường tiền tệ. ­ Tái cấp vốn và gia hạn các khoản vay hỗ  trợ  vốn tín dụng nông nghiệp,   nông thôn đến hạn thanh toám. 11
  12. Bên cạnh đó, NHTW còn thực hiện một loạt các biện pháp nhằm duy trì lãi suất thị  trường  ở  mức hợp lý và đảm bảo khả  năng thanh khoản của nền kinh tế  và hệ  thống ngân hàng:  ­ Quy định trần lãi suất huy động VND;  ­ Quy định tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất tiền gửi không kì hạn đối với tổ  chức, cá nhân rút tiền gửi kì hạn;  ­ Quy định về thu phí trong họat động cho vay;  ­ Chỉ  đạo các ngân hàng thương mại nhà nước tiết kiệm chi phí, giảm lợi   nhuận để  áp dụng mức trần cho vay khu vực nông nghiệp là 17%/năm, các   khu vực khác 18%/năm;  ­ Hỗ trở các tổ chức tín dụng khó khăn về thanh khoản. Đối với điều hành tỷ  giá, quản lý thị  trường ngoại hối và thị  trường vàng, NHTW   đã triển khai nhiều giải pháp như:  ­ Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ  giá bình quân liên ngân hàng từ  11/02/2011 và thu  hẹp biên độ   ấn định tỷ  giá giao dịch của các tổ  chức tín dụng so với tỷ  giá   bình quân liên ngân hàng từ ± 3% xuống ±1%. ­ Quy định lãi suất huy động tối đa bằng ngoại tệ, thu hẹp đối tượng cho vay   bằng ngoại tệ. ­ Kiểm  tra,  phối  hợp,  xử  lý  nghiêm  các  trường hợp  mua­  bán,  kinh doanh  ngoại tệ, vàng trái pháp luật, đồng thời, trình Thủ  tướng nâng mức xử  phạt  đối với các hành vi vi phạm quy định về quản lý ngoại tệ và vàng. ­ Chỉ đạo các tổ  chức tín dụng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro cần  thiết  trong  hoạt  động  kinh doanh  ngoại  tệ,  hạn chế   cho  vay,   thanh toán  ngoại tệ  nhập khẩu hàng hóa không thiết yếu, không khuyến khích nhập  khẩu và tăng cường hoạt động mở  thẻ  thanh toán quốc tế  để  đáp  ứng nhu  cầu chi tiêu ở nước ngoài của người dân. ­ Ban hành quy định chấm dứt huy động và cho vay bằng vàng, mở  rộng đối   tượng phải bán và được mua ngoại tệ từ ngân hàng thương mại đối với Tập   đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. ­ Tập trung xây dựng, hoàn thiện nhiều dự  thảo văn bản có liên quan đến   quản lý hoạt động kinh doanh vàng và ngoại tệ. 12
  13. Theo đó, trọng tâm là phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa  theo hướng chặt chẽ, thận trọng. Theo báo cáo của Chính Phủ, cuối quý II/2011,  đến nay đã có những dấu hiệu lạc quan bước đầu: ­ Do phải tập trung mục tiêu kiềm chế  lạm phát,  ổn định  kinh tế  vĩ mô nên  tốc   độ   tăng   trưởng   của   nền   kinh   tế   6   tháng   đầu   năm   2011   có   bị   ảnh   hưởng, ước đạt 5,57%. ­ Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu, kế hoạch đề  ra. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6/2011  theo giá cố định tăng 15,2% so  với cùng kỳ năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm 2011 tăng 14,3% so với   cùng kỳ năm 2010. ­ Sản xuất nông nghiệp tiếp tục có sự  phát triển ổn định. Trong 6 tháng đầu  năm 2011,  ước giá trị  sản xuất nông, lâm, nghiệp và thủy sản theo giá cố  định tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2010. ­ Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu  dùng 6 tháng đầu năm 2011  ước đạt trên 911 nghìn tỷ  đồng, tăng 22,6% so   với cùng kỳ năm 2010. Lượng khách du lịch quốc tế  đến Việt Nam trong 6  tháng đầu năm 2011 tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. ­ Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an  sinh xã hội theo các chương trình, dự  án, kế  hoạch đã được phê duyệt; tích  cực triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới;   tăng cường chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ… làm  tốt công tác giải quyết việc làm. Trong 6 tháng đầu năm 2011, ước tạo việc  làm cho khoảng 722,8 nghìn người, bằng 45,2% kế  hoạch năm, trong đó  xuất khẩu lao động khoảng 44 nghìn người, đạt 50,6% kế hoạch năm. ­ Các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước  đã cẳt giảm, điều chuyển tổng số  vốn trong năm 2011 là 80.550 tỷ  đồng  (chưa tính số vốn đầu tư giảm từ NSNN của năm 2011 so với thực hiện năm  2010), bằng khoảng 9% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011. ­ Tổng phương tiện thanh toán đến 20/6/2011  ước tăng 1,25% so với tháng   trước và tăng 2,45% so với tháng 12/2010. Thanh khoản của hệ thống ngân  hàng đang dần được cải thiện. Tổng số dư  tiền gửi của khách hàng tại các  tổ chức tín dụng đến ngày 20/6/2011 ước tăng 1,04% so với cuối tháng trước   và tăng 2,88% so với cuối năm 2010. 13
  14. ­ Lãi suất đang có xu hướng giảm do giá cả thị trường giảm, các cân đối và tỷ  giá ngoại tệ đang đi dần vào thế ổn định. Lãi suất huy động VND bình quân  hiện ở mức 15,5%, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,7%. ­ Tỷ  giá giá giao dịch trên thị  trường ngoại tệ  đang có xu hướng giảm và ổn  định ở mức thấp hơn tỷ giá trần cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ  ngoại hối cũng đang dần được cải thiện, đã tăng được gần 3 tỷ USD.  ­ Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 tăng 30,3% so với cùng kỳ  năm trước và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế  hoạch đã được Quốc hội thông qua  (10%). Đặc biêt, nhập siêu tháng 6/2011 ước đạt 0,4 tỷ USD, bằng 5,1% kim   ngạch xuất khẩu, đây là tỷ lệ nhập siêu thấp nhấp trong vòng 6 tháng qua.  ­ Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2011 tăng 1,09% so với tháng trước, giảm đáng  kể so với các tháng trước và là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm. Đó là báo cáo trên giấy tờ của Chính Phủ, nhưng lúc nào cũng vậy, con số trên giấy   và con số thực tế rất khác nhau, và những hạn chế hay yếu kém của chính sách tiền   tệ ít khi nào được đả động nhưng nó vẫn tồn tại trước mắt như một thách thức lớn  đối với các nhà làm chính sách. Và một câu hỏi lại được đặt ra là: “CHÍNH SÁCH  TIÊN TỆ, ĐàĐỦ CHẶT CHƯA…?”  Thông tư  13 là rất cần thiết, nếu các ngân hàng   thực hiện đúng các tỷ  lệ  thanh  khoản và hệ  số  rủi ro theo thông tư  thì trường hợp thiếu thanh khoản trầm trọng   gần như  không thể  xảy ra. Tuy nhiên, phần lớn các ngân hàng đều báo cáo là đã  thực hiện đúng nhưng thanh khoản thì vẫn thiếu một cách trầm trọng!? Điều này  chứng tỏ  ý chí và trí tuệ  có thể  đủ, tuy nhiên nguồn lực, công nghệ  giám sát và  quản lý từ  cả  hai phía ngân hàng thương mại và NHTW đang rất yếu. Chính điều   này cũng dẫn đến việc thực thi chính sách tiền tệ khó khăn hơn. Chi phí vay đã lên rất cao 21%­ 24% và duy trì trong 6 tháng qua của 2011, cung tiền   tăng rất thấp trong 6 tháng đầu năm (tăng 2,6% so với bình quân 9% trong 10 năm   quá khứ) – sức cầu tiêu dùng đã chậm và yếu đi thấy rõ. Tổng mức bán lẻ  tăng   trưởng của Việt Nam sau khi loại đi yếu tố  trượt giá đã gần về  0, thấp kỷ  lục   trong nhiều năm nay. Sức cầu giảm đi thấy rõ, thế  nhưng lạm phát vẫn cao. Nếu  tiếp tục hay thắt chặt tiền tệ mạnh thêm có lẽ cái giá phải trả sẽ cao hơn cái được   rất nhiều. Thêm một tồn tại quan trọng nữa là Việt Nam quá chú trọng lãi sức thực dương.  Tại Mỹ, lãi suất tiền gửi kì hạn 1 năm tính đến tháng 8/2011 khoảng 0,2­0,8%   trong khi lạm phát ở mức 3,4%. Lãi suất tiền gửi tại Trung Quốc khoảng 3% cho kì   14
  15. hạn 1 năm, tuy nhiên lạm phát tại nước này đang ở mức 6,5%. Nhìn lại Việt Nam  chúng ta, việc duy trì lãi suất thực dương của phần lớn các ngân hàng không mang   lại điều gì tốt đẹp cả  ngoài việc sự  cạnh tranh gay gắt trong việc huy động vốn  giữa các ngân hàng, đồng thời đặt một dấu chấm hỏi to đùng trong sự  khó khăn  trong quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng. Trong tình hình lạm phát cao như hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng nên đưa một   thông điệp là  nhấn mạnh thắt chặt tiền tệ, cụ thể là làm giảm lạm phát kì vọng.   Đừng đánh giá thấp ảnh hưởng của lạm phát kì vọng. Chính sách tiền tệ thắt chặt   không có nghĩa là lãi suất huy động hay cho vay phải  ở mức cao hoặc tiếp tục lên  cao mà quan trọng  ở  việc quản lý chất lượng tăng trưởng tín dụng mới là điều   đáng lưu ý. Đặc biệt là tín dụng cho phát triển sản xuất và hỗ  trợ  trong lĩnh vực   nông nghiệp. Một số chuyên gia kinh tế nên cho rằng nên tăng dự trữ bắt buộc tiền đồng, nhưng  một số  lại không cho rằng điều đó là đúng đắn lúc này. Trong 6 tháng đầu năm  2011 tín dụng chỉ  tăng dưới 6%, rất thấp với mức trung bình trong 10 năm qua là   12,7%. Hơn nữa tín dụng tiền đồng chỉ  tăng 2,7% trong 6 tháng. Lãi suất cho vay   VND đang rất cao, việc tăng dự  trữ  bắt buộc VND thực sự chưa nên bàn lúc này.   Tuy nhiên tăng trưởng tín dụng bằng USD lại là vấn đề  đáng nói. Bất chấp việc   tăng thêm 3% dự  trữ  bắt buộc của USD trong nhiều tháng qua, lãi suất cho vay  USD vẫn đang  ở mức 6­7%, điều này dường như  khuyến khích doanh nghiệp vay  USD. Việc này lại có thể tạo áp lực lên tỷ giá nếu quản lý không tốt. Có lẽ NHTW   nên tiếp tục tăng mạnh dự  trữ  bắt buộc của USD để  kiểm soát tín dụng USD và   giảm tình trạng dolar hóa. Chúng tôi tin rằng lãi suất huy động sẽ giảm về khoảng 14­15% và lãi suất cho vay   sẽ  về  dưới 20% vào cuối năm nay. Tuy nhiên mặt bằng lãi suất vẫn giữ  rất cao   trong năm 2012 so với thời kì trước. 2.1.2 CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH: Thực hiện NQ 11/2011, ngành tài chính đã: ­ Điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế, chính sách chi khác hạn chế  nhập  khẩu, khuyến khích xuất khẩu, kết hợp chính sách tài khóa, chính sách tiền  tệ  trong việc rà soát, điều chỉnh tạo điều kiện thúc đẩy tái cơ  cấu kinh tế,  hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, hạn chế nhập khẩu nguyên  vật liệu. 15
  16. ­ Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngoài lương của 9 tháng còn lại;   không cấp kinh phí cho những việc chưa thật sự cấp bách. ­ Rà soát toàn bộ công trình, dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu   Chính Phủ  đã được bố  trí năm 2011, xác định cụ  thể  các công trình cần  ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều  chuyển các khoản bố trí nhưng chưa cấp bách và không đúng mục tiêu. ­ Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra,   rà soát lại đầu tư  của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN,  loại bỏ những dự  án đầu tư  kém hiệu quả, dàn trải; không được ứng trước   vốn ngân sách, trái phiếu Chính Phủ của năm 2012; không kéo dài thực hiện   các khoản vốn đầu tư  từ  ngân sách, trái phiếu   Chính Phủ  kế  hoạch năm  2011, thu hồi toàn bộ số vốn bố trí không đúng quy định. Đến cuối tháng 6/2011, ngành tài chính đã cắt giảm tổng số tiền chi thường xuyên   là 3857,7 tỷ đồng, cắt giảm tổng số vốn đầu tư  của các bộ, ngành, địa phương và   các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước là 80550 nghìn tỷ đồng, bằng 9% tổng   đầu tư xã hội năm 2011. Giảm tỷ trọng đầu tư Nhà nước trong tổng đầu tư xã hội   xuống 34%, thực hiện an sinh xã hội thông qua tăng lương 100.000 đồng trong  doanh nghiệp từ 1/5/2011, cắt 140 dự án, giảm tiến độ 133 dự án, chỉ tập trung vào   dự án trọng điểm, có hiệu quả, nhất là về xây dựng cơ bản… Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì dường như  nỗ lực của ngành tài   chính trong cuộc chiến chống lạm phát hiện nay chưa thật sự quyết liệt và quyết  tâm như ngành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân lạm phát của năm 2011 là  do việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, hiệu quả đầu tư  thì thấp, khi mà còn tồn đọng hậu quả  của chính sách kích cầu với 10% GDP vào  năm 2009 (1 tỷ  USD). Ngành tài chính cũng là một trong các kênh thực hiện chính  sách hỗ  trợ  kinh tế  này thông qua đầu tư  công, chi ngân sách (6 tháng đầu năm   2011, bội chi ngân sách là cao nhất so với năm 2009 và 2010). Bên cạnh đó, công tác  tuyên truyền, phổ  biến thông tin của Bộ Tài chính đối với công chúng dường như  chưa kịp thời và công khai…  Chỉ số ICOR được công bố là rất cao, khoảng 8%, nhưng thực sự phân tích và nhìn   kỹ sự kém hiệu quả này là chưa đầy đủ và rõ ràng. Theo các chuyên gia thì ICOR 6  tháng đầu năm 2011 vào khoảng 6,9 (năm 2010 con số  đó là 7,38), khu vực kém  hiệu quả nhất là khu vực nhà nước (lúc nào cũng vậy) chiếm khoảng 33% GDP và   FDI. Các chính sách  về giá xăng dầu, lương thực, thực phẩm, điện, nguyên liệu…  chưa có sự  giải trình rốt ráo, minh bạch và kịp thời trong bối cảnh lạm phát cao.  16
  17. Ngành tài chính có 16 đơn vị báo chí, song việc quan tâm tới truyền thông chưa thật  đầy đủ, chưa dễ  hiểu, trong khi đó, công luận chỉ  trích nhiều về  quản lý đầu tư  công trong thời gian qua là quá lớn, lãng phí và kém hiệu quả. Vì vậy, dường như  chính sách tài chính tỏ  ra “lép” hơn chính sách tiền tệ  vào giai đoạn này, mặc dù  năm 2011 được coi năm thử lửa đối với chính sách tài chính! Có thể  thấy việc cắt giảm đầu tư  công vẫn chưa được thực hiện như  mong đợi,   giữa con số được công bố  và con số  thực tế  vẫn có một khoảng cách khá xa. Để  chia sẻ trách nhiệm với chính sách tiền tệ trong việc chữa căn bệnh Lạm phát, thì   chính sách tài chính thắt chặt cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn và   minh bạch hơn. Nếu việc thắt chặt tài khóa được thực hiện tốt hơn sẽ giảm gánh   nặng cho chính sách tiền tệ  trong việc làm giảm kỳ  vọng lạm phát và từ  đó giúp   giảm mặt bằng lãi suất, giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh “dễ thở” hơn,   đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không thực hiện được, lãi suất vẫn  ở  mức cao! 2.2   PHỐI   HỢP   CHÍNH   SÁCH   TIỀN   TỆ   VÀ   TÀI   KHÓA   TRONG   6   THÁNG CUỐI NĂM 2011 NHƯ THẾ NÀO? Vậy sự phối hợp giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ trong thời gian tới  sẽ nên thực hiện như thế nào? Tiếp tục phối hợp chặt chẽ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ trong việc ổn   định vĩ mô, ưu tiên hàng đầu cho kiềm chế lạm phát. Sự phối hợp này cần thể hiện  rõ ở: 17
  18. ­ Phối hợp và chia sẻ thông tin quản lý giữa Bộ Tài chính và ngân hàng nhà  nước, nhất là các thông tin về  xuất nhập khẩu, di chuyển vốn FDI&FII,   quản lý giá cả…. ­ Thực hiện đúng quy định của Luật ngân hàng nhà nước là tiền gửi của   Kho bạc Nhà nước phải gửi ở ngân hàng nhà nước. ­ Tăng cải tiến độ  giải ngân vào các dự  án trọng điểm mà Chính phủ  phê   duyệt chứ không hẳn là dừng tất cả các công trình xây dựng cơ bản. ­ Nghiên cứu, thiết lập khung quản lý vàng, ngoại tệ, bất động sản phù  hợp với đặc thù của Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, không cần cứu  thị  trường bất động sản vì giá cả  của nó đã bị  đẩy lên quá mạnh trong  thời gian qua. ­ Trình Chính phủ 1 Nghị định về phối hợp thông tin và thanh tra , điều tra  trong lĩnh vực chứng khoán giữa Bộ  Tài chính và  Ủy ban chứng khoán  Nhà nước nhằm góp phần thực hiện an ninh tài chính­ tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ cần minh bạch hơn, có thể theo dõi được việc điều chỉnh thu chi   ngân sách nhà nước hay đầu tư của chính phủ. Kiên quyết cắt giảm đầu tư vào các  dự án, các công trình hiệu quả  thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư  công. Bộ  Tài chính  cần có một tổ chức đánh giá toàn bộ tình hình và hiệu quả của các biện pháp trong   lĩnh vực tài chính từ nữa đầu 6 tháng đầu năm 2011 và tham vấn cho Bộ trong nữa   cuối năm. Nhiệm vụ này có thể giao cho Viện Chiến Lược và chỉnh sách tài chính   làm đầu mối. Bộ  Tài chính cần chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền, phát ngôn của Bộ  trước công luận, giải trình các biện pháp về quản lý giá các mặt hàng  chủ đạo ( ví  dụ  tiến trình tăng giá điện, xăng dầu hoặc lương thực thực phẩm…), về  IPO các  doanh   nghiệp   nhà   nước   lớn   trong   bối   cảnh   thị   trường   chứng   khoán   suy   giảm  nghiêm trọng , hoặc là cải cách tiền lương, tình hình nợ  công của Việt Nam… Nhiều thuật ngữ  đang được nhắc đến nhiều trên công luận như  “ bão giá”, xếp  chứng khoán vào lĩnh vực phi sản xuất…chưa phải là đúng và hợp lý. Ý kiến của   các cơ quan ngôn luận chính thức ở đây là rất quan trọng, tránh để người dân hiểu   lầm, hiểu sai vấn đề. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chủ  yếu là từ  khu vực doanh nghiệp nhà nước   và FDI, trong khi đó, đây lại là 2 khu vực kém hiệu quả nhất. Vậy, vấn đề đổi mới  cơ chế đối với 2 khu vực này sắp tới như  thế nào, cải cách triệt để  doanh nghiệp   nhà nước tập trung vào đâu, quyết sách đối với khu vực FDI giai đoạn tới cần có  18
  19. sự  chuyển biến sau ít nhất 10 năm kêu gọi vốn FDI vào Việt Nam, so sánh sự   ưu  đãi và hiệu quả của nó, chống chuyển giá của doanh nghiệp FDI. Nhiều vấn đề tài  chính lớn của đất nước cần có sự  minh bạch kịp thời để  người dân thông hiểu và   chia sẻ gánh nặng cùng Chính phủ. Về  phía ngân hàng nhà nước, cần giảm dần các biện pháp hành chính  trong điều   hành thị trường tiền tệ ­ tín dụng, xem xét lại các chỉ tiêu quản lý tín dụng trong các  Thông tư đã ban hành trong thời gian qua. Nếu duy trì quá lâu các biện pháp này thì   thị  trường sẽ  bị   ảnh hưởng, dòng vốn bị  phân bổ  không hợp lý. Mặt khác, kiềm  chế lạm phát không có nghĩa là hoàn toàn cắt đứt cung tiền, mà ngân hàng nhà nước   sử dụng linh hoạt và chủ động các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ để cung  tiền và thu tiền về  ngân hàng nhà nước, nhất là nghiệp vụ  OMO. Điều này cũng   tương tự  như  việc ngân hàng nhà nước đã mua vào khoảng 3 tỷ  USD và sử  dụng   các công cụ  khác để  hút tiền về, không làm  ảnh hưởng lớn đến tổng thanh toán   trong lưu thông. Nếu kiểm soát cung tiền quá chặt và lâu thì nền kinh tế  sẽ  suy   giảm mạnh, trong khi đó,chúng ta vẫn còn chỉ tiêu trong lĩnh vực này. Đã lâu rồi chúng ta lại phải sống trong lạm phát cao, mặc dù Chính phủ  đã nâng   trần lạm phát cả năm 2011 tới 17%. Với nhiều bất ổn vĩ mô ở trong và ngoài nước,   các biện pháp kiềm chế của Chính phủ chưa phải là có hiệu lực ngay.  Bên cạnh các biện pháp mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ và pháp lý, vấn đề đổi mới  về  thể  chế  có ý nghĩa lâu dài và chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền có ý nghĩa bổ  sung. 2.3  CÁC GIẢI PHÁP PHỐI HỢP ĐỂ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT TẠI VIỆT  NAM. Một là, nhanh chóng xây dựng tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ và vàng: Cơ  quan chức năng cần nhanh chóng xây dựng các cơ  chế, chính sách tăng cường   quản lý ngoại tệ (dolar) và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái  trái phép, cần có lộ trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích   hợp pháp của người có tài sản này; quan tâm đúng mức nhu cầu chính đáng của   doanh nghiệp và người dân, tránh tạo ra các “cú sốc” về tâm lý gây bất ổn xã hội;   khuyến khích, không gây trở  ngại cho việc thu hút các nguồn ngoại tệ  từ  nước   ngoài về. Tổ chức lại thị trường kinh doanh vàng tránh việc thao túng giá mua bán   vàng của các doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường như qui định khung biên  độ chênh lệch giữa giá mua và giá bán vàng, đảm bảo lợi ích của người mua vàng,  19
  20. tránh việc thu lợi lớn về  chênh lệch giá vàng của doanh nghiệp kinh doanh vàng,  giảm giá cả vàng theo sát giá vàng thế giới. Hai là, minh bạch về sự lỗ, lãi của ngành điện, xăng dầu, xóa bỏ sự bù lỗ cho   các ngành này và có cơ chế kiểm soát được giá cả của các mặt hàng xăng dầu,   điện: Các doanh nghiệp xăng dầu, điện lực cũng phải tuân theo hoạt động của cơ chế thị  trường.  Thời gian qua có khá  nhiều tin liên quan  đến sự  lỗ,  lãi của  các doanh  nghiệp này trong khi đó nhà nước không kiểm soát được đúng giá cả  thật sự  của   hai mặt hàng này. Trong thời gian tới phải xóa bỏ  bù lỗ  xăng dầu vì các doanh  nghiệp phải theo cơ  chế  thị  trường. Tuy nhiên, vì là mặt hàng liên quan đến đầu  vào của nhiều doanh nghiệp nhà nước cần có cơ chế thông tin minh bạch về giá cả  thế giới, có qui định công thức tính giá cả mặt hàng để kiểm soát giá.  Ba là, cần qui định trần của lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại   (NHTM) để giảm lãi suất cho vay: Quy định trần lãi suất cho vay theo lộ trình giảm dần đáp ứng được sự  chịu đựng  của các doanh nghiệp, cần từng bước và có lộ trình không gây sốc cho các NHTM.   Song nhất thiết phải qui định để  các NHTM phải giảm lãi suất. Việc lãi suất cho   vay của NHTM cao không chỉ  khó khăn với các doanh nghiệp. mà nguy cơ  rủi ro   đối với các NHTM cũng rất lớn do mạo hiểm khi cho vay. Bốn là, tăng cường kiểm soát hoạt động thị trường liên ngân hàng: Nhiều chuyên gia ngân hàng đã kiến nghị Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần quản lí   chặt thị trường liên ngân hàng. Lãnh đạo nhiều NHTMCP nhỏ cũng đề nghị, NHNN  cần mở  rộng cửa hơn để  các NHTM nhỏ tham gia vào thị  trường mở. NHNN cần   giao Vụ Chính sách Tiền tệ theo dõi và quản lý hoạt động của thị trường liên ngân  hàng nhằm hướng tới ban hành quy định về  vay vốn giữa các tín dụng trên thị  trường này. Trong đó, quy định rõ về thời hạn vay vốn, mục đích sử dụng tiền vay   mà mục đính chính là bù đắp thiếu hụt tạm thời về  vốn ngắn hạn, lãi suất cho   vay... Tạo điều kiện cho các NHTM thiếu vốn tiếp cận được nguồn vốn với lãi   suất thấp Năm là, xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi:   nhằm qui định trách nhiệm hỗ  trợ  thanh khoản cho các NHTM đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2