intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

295
lượt xem
85
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực tiễn của 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ này, chúng ta cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Thực tiễn của 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ này, chúng ta cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; cần phân định rõ chức năng giữa Đảng và Nhà nước, từng bước xác định rõ nội dung, phạm vi, mức độ quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước; đồng thời, tiếp tục đổi mới quá trình thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng thành hoạt động của Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Đổi mới tư duy (trước hết là tư duy kinh tế), về thực chất, là trở lại với tư duy biện chứng để nhìn nhận sự vật đúng như nó vốn có chứ không phải như cái ta muốn có. Đổi mới tư duy về xây dựng bộ máy nhà nước hiện nay là "một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất", nhưng lại là vấn đề "rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị"(1). Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước hết phải phù hợp với những nội dung và các giá trị tư tưởng mà văn minh nhân loại đã đạt được. Từ nhà nước pháp trị đến nhà nước pháp quyền tư sản, từ nhà nước pháp quyền tư sản đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình phủ định biện chứng, diễn ra liên tục. Nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền cùng với những khái niệm tự do, dân chủ, công dân ngày càng được mở rộng, đầy đủ hơn. Vấn đề này, trong những năm qua, ở nước ta, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
  3. và cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn không ít những điểm nổi cộm, như làm thế nào để xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng lớn mạnh; làm thế nào để làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước khi tệ nạn quan liêu, tham nhũng đã trở thành quốc nạn; việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Đảng cầm quyền ở Việt Nam cần có những nội dung gì... Đây là những vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ thêm. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ bàn về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta đều biết, đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã đặt ra chủ trương phải "cải cách lớn" bộ máy nhà nước. Nhưng, phải đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta mới khẳng định chủ trương "xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này là: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện quan trọng của Đảng chính thức sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền và nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và nó trở thành chủ trương có tầm chiến lược, định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Đại hội VIII nhấn mạnh vấn đề xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả và đã cụ thể hóa các nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước(2). Đặc biệt, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định và nhấn mạnh thêm: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật"(3). Đại hội X của Đảng khẳng định: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa"(4).
  4. Như vậy, có thể nói, kết quả nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta là quá trình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, không sao chép, rập khuôn, giáo điều, mà luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam. Và, chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng mới là công cụ có đầy đủ hiệu lực để quản lý sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ở đây, cần phân biệt nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử nhân loại, nhà nước pháp quyền biểu hiện dưới nhiều hình thức, nhưng khái quát lại chỉ có hai loại: nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Loại thứ nhất trải qua mấy trăm năm lịch sử. Loại thứ hai ra đời trong thế kỷ XX và còn rất ít kinh nghiệm tổ chức xây dựng. Những nhà nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã ít nhiều có tính pháp quyền, song chưa phải là nhà nước pháp quyền và trên thực tế, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta đặt ra cách đây không lâu(5). Mặt khác, chúng ta tạo lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là "đập tan" nhà nước cũ, mà bằng cách chuyển dần từ Nhà nước Dân chủ Nhân dân thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về bản chất, hai nhà nước này đều là chính quyền của nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nhà nước hiện có, trên cơ sở đổi mới và không ngừng hoàn thiện, nâng nhà nước hiện có lên một tầm cao mới, và đây là một quá trình lâu dài. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khác về bản chất với nhà nước pháp quyền tư sản. Điều này được quy định một cách khách quan trên cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội. Sự khác biệt đó biểu hiện ở bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hòa quyện vào nhau, được quán triệt, cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện trên mọi lĩnh vực, mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước. Và, cũng chỉ có nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân mới đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Vì vậy, việc tìm kiếm, xây dựng những thiết chế, cơ chế nhà nước như thế nào cho phù hợp với đặc điểm và truyền thống dân tộc, cũng như trình độ phát triển kinh tế -
  5. xã hội, trình độ dân trí, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân luôn có ý nghĩa quan trọng. Ở đây, chúng ta cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau: - Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây không phải là vấn đề mới, nhưng lại là vấn đề có tính nguyên tắc để bảo đảm bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước, bảo đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc của nhà nước. Các thuật ngữ "đảng cầm quyền", "đảng chấp chính", đảng "nắm chính quyền" đã được dùng từ lâu ở các nước phương Tây để chỉ rõ vai trò, vị thế và trách nhiệm của một đảng khi đã có chính quyền, phân biệt đảng nắm chính quyền với đảng không nắm chính quyền, chưa giành được chính quyền hoặc ở vị thế đối lập. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp mà đảng đó đại diện(6). Trong thời đại ngày nay, không có nhà nước nào, kể cả nhà nước tư sản, nhà nước vô sản, mà không chịu sự chi phối của một đảng chính trị nhất định. Ở Việt Nam hiện nay, Đảng cầm quyền tức là chính quyền thuộc về nhân dân và chịu sự lãnh đạo của Đảng. Đây không phải đơn thuần là vấn đề học thuật, từ ngữ, mà bắt nguồn từ những nhu cầu rất cơ bản của thực tiễn cách mạng Việt Nam và của Đảng cầm quyền. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng"(7). Điều đó vừa khẳng định vai trò của Đảng đối với chính quyền và đối với toàn xã hội, vừa có ý nghĩa là phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải có sự thay đổi căn bản so với thời kỳ chưa giành chính quyền. Là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, Đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất trước nhân dân về cả sự phát triển xã hội lẫn nâng cao đời sống của nhân dân, năng lực và phẩm chất của bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo toàn diện, tức là lãnh đạo các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Hoạt động của Nhà nước được thực hiện ở tất cả các cấp, Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ một lực lượng chính trị nào. Mặt khác, Đảng phải bằng mọi cách phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước. Hai mặt đó là thống nhất, quan hệ biện chứng với nhau. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của mình khi xây dựng được Nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và có hiệu quả cao, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân.
  6. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Đảng phải tự đổi mới, phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi. Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống: "Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh"(8). Không hiếm cán bộ suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức vẫn được "tín nhiệm", được tham gia các cơ quan lãnh đạo, quyền lực. Phần lớn những vụ việc tiêu cực nghiêm trọng không do tự các tổ chức Đảng phát hiện, phanh phui, mà do công luận và cơ quan bảo vệ pháp luật phanh phui. Đó là một nguy cơ lớn... Bài học của những cuộc khủng hoảng ở các nước Đông Âu, sự tan rã của Đảng và Nhà nước Liên Xô vừa qua cho thấy, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã lợi dụng sự tha hoá của cán bộ đảng viên, sự quan liêu của bộ máy nhà nước để tách dân với Đảng. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp dẫn đến đổ vỡ chủ nghĩa xã hội. Phải chăng, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, mất nước do kẻ thù xâm lược nhiều khi khó hơn là tự ta để mất chế độ chỉ vì mất lòng dân. Do vậy, cần phải đánh giá sâu sắc hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng chứ không chỉ của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cần nghiêm túc xem xét lại cơ chế đánh giá, đề bạt cán bộ hiện nay, bởi ở đây vẫn còn có kẽ hở tạo ra tình trạng chạy chức, chạy quyền. Phải chăng, tình trạng phổ biến giảm sút sức chiến đấu do phát triển chủ nghĩa cá nhân, do nhận thức chính trị không được nâng cao trong Đảng(9). Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không chỉ vì một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, mà còn do nhiệm vụ của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới mà trong những năm tới ngày càng khó khăn, phức tạp. Ở đây, cần tập trung vào các khía cạnh: trí tuệ, cương lĩnh, đường lối, đạo đức, tính tổ chức, kỷ luật, bản lĩnh chính trị, khả năng tập hợp quần chúng. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta, là thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở sức mạnh, vai trò của Nhà nước. Sẽ không có Đảng mạnh mẽ, chắc chắn nếu nhà nước yếu kém, hình thức, quan liêu, tham nhũng, luật pháp không nghiêm.
  7. Hai là, cần phân định rõ chức năng giữa Đảng và Nhà nước, từng bước xác định rõ nội dung, phạm vi, mức độ quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Lãnh đạo, quản lý là quá trình chủ thể tác động vào khách thể, nhận thức khách thể. Xét về bản chất, lãnh đạo và quản lý đều là quá trình điều khiển. Tuy nhiên, lãnh đạo là quá trình định hướng cho mọi khách thể, còn quản lý là quá trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện sự định hướng. Quản lý là sự tiếp tục của lãnh đạo ở vòng khâu mang tính chất cụ thể hóa và hiện thực hóa sự lãnh đạo. Nói Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng không có chức năng quản lý, Nhà nước quản lý không có nghĩa là Nhà nước không có lãnh đạo. Chức năng quản lý của Đảng thể hiện trong việc quản lý trực tiếp đảng viên (nhất là đảng viên trong bộ máy nhà nước và quản lý xã hội, quản lý đất nước), nhưng ở đây là sự quản lý gián tiếp thông qua Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Nói Đảng không làm thay chức năng của Nhà nước là đúng, nhưng nói Đảng không can dự vào công việc quản lý nhà nước thì sẽ là sự mơ hồ về chính trị. Và, trong sự lãnh đạo của Đảng có nội dung quản lý, thông qua quản lý để lãnh đạo. Mặt khác, Nhà nước lãnh đạo xã hội thông qua việc hoạch định kế hoạch, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; song có thể nói, đây là sự lãnh đạo "cấp hai" chứ không phải ở cấp cao nhất. Đó là tiếp tục sự lãnh đạo của Đảng dưới hình thức nhà nước. Cho nên, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước vừa thống nhất, vừa khác biệt; tách Đảng khỏi Nhà nước, Đảng làm thay Nhà nước đều là sai lầm cực đoan như nhau. Điều cần chú ý là, khác với hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng cầm quyền và Nhà nước đều là người đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân. Vì lẽ đó mà trong một thời gian dài, các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, ít quan tâm nghiên cứu giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, ít chú ý phân biệt giữa Đảng và Nhà nước. Từ đó, trong thực tiễn thường xảy ra tình trạng lẫn lộn, nhập cục Đảng với Nhà nước. Hiện tượng "Đảng trị", Đảng "ôm quyền", lấn át chính quyền nhà nước xảy ra khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ là lực lượng lãnh đạo, Đảng có xu hướng bị "nhà nước hóa" thành cơ quan quyền lực, trực tiếp làm chức năng của Nhà nước. Sự lẫn lộn nhập cục một cách chủ quan giữa chức năng của Đảng và chức năng của Nhà nước đã làm cho Đảng yếu, Nhà nước non kém, Đảng không phát huy được chức năng vốn có của
  8. mình, còn Nhà nước rơi vào tình trạng thụ động, quan liêu, xa rời thực tế, quyền lợi của nhân dân trở thành hình thức. Vì thế, trong quá trình đổi mới, để Nhà nước thực sự là quyền lực của dân, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức dân chủ. Đảng cần hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tức là vừa phải trọng dân, vừa phải trọng pháp. Bởi vì, phương thức dân chủ là giải pháp tốt nhất để quyền lực của nhân dân, của giai cấp không bị biến thành quyền lực riêng của một người, một nhóm người có đặc quyền, đặc lợi. Yêu cầu Đảng vừa bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của mình với Nhà nước, vừa phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức dân chủ - đó là bài toán đã và đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Chính vì thế, tại Đại hội VII, Đảng ta đã chỉ rõ: để đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định "tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước"(10). Và, mới đây, tại Đại hội X, một lần nữa, Đảng ta nhấn mạnh: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước… Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội"(11). Như vậy, ở đây, cần chú ý làm rõ sự khác biệt giữa quyền lực chính trị của Đảng, sự lãnh đạo của Đảng với quyền lực, quyền uy pháp luật của Nhà nước, sự quản lý của Nhà nước. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng phải khác với hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước; sự đào tạo, huấn luyện cán bộ Đảng khác với sự đào tạo, huấn luyện cán bộ nhà nước(12). Đương nhiên, sự phân biệt thực thể này với thực thể khác không có nghĩa là tách rời, biệt lập, cũng không phải là đối lập với nhau. Đây là sự khác biệt trong thống nhất, có cùng chiều hướng chung với một hệ mục tiêu, hệ giá trị đã được xác định. Nhận thức đúng sự khác biệt trên là cơ sở để thực hiện những đổi mới, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, để nhân dân làm chủ. Ba là, tiếp tục đổi mới quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hoạt động của Nhà nước. Yêu cầu của việc tổ chức bộ máy nhà nước sao cho Nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền và cũng là ý
  9. chí của nhân dân, mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện đường lối của Đảng, cụ thể là: - Nhà nước dựa vào chủ trương, đường lối của Đảng mà xây dựng thành chính sách, pháp lệnh để thực thi có hiệu quả chủ trương, đường lối đó. - Nhà nước phải tuyên truyền, động viên, tổ chức mọi tầng lớp nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. - Nhà nước phải tổng kết thực tiễn quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần chú ý giải quyết các mặt sau: Thứ nhất, cần đề cao và thực hiện nhất quán các chuẩn mực dân chủ và pháp quyền trong Đảng, trong Nhà nước và xã hội. Hạn chế lớn nhất, từ trước đến nay, là hệ thống tổ chức, thể chế và cơ chế quyền lực, những quy định về các biện pháp và các điều kiện, các chế tài để kiểm tra, giám sát quyền lực không rõ ràng; đặc biệt là chế độ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân bị xem nhẹ và suy yếu nghiêm trọng, thậm chí thiếu vắng. Một bộ trưởng bị kỷ luật thì trách nhiệm của Chính phủ ở đâu, một vụ trưởng tham nhũng dưới quyền bị kỷ luật thì bộ trưởng trách nhiệm đến đâu, vì sao có những vụ tham nhũng lớn, làm thất thoát hàng ngàn tỷ đồng mà lại kéo dài nhiều năm không được phát hiện từ chính các tổ chức Đảng, mà phải nhờ công luận và các cơ quan thi hành pháp luật? Để khắc phục từng bước những hạn chế trên cần phải "hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền"(13). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời Đảng hoạt động và thực hiện sự lãnh đạo phù hợp với tinh thần pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, không đứng trên Nhà nước, xã hội công dân và luật pháp. Thứ hai, nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới, "nửa nhà nước", do đó trong quá trình thực hiện, cần phân biệt rõ đâu là nhà nước với tư cách một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, đâu là hoạt động quản lý sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là “phần nửa” không thuộc nhà nước. Trong hoạt động của nhà nước vẫn còn có hiện tượng lẫn lộn nhà nước với tư
  10. cách bộ máy cai trị thuộc kiến trúc thượng tầng với quản lý sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế của nhà nước. Tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" đã gây ra sự hỗn loạn, giả tạo trong sản xuất, kinh doanh và cũng là khe hở cho tệ quan liêu, tham nhũng gia tăng. Để thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới hiện nay, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, việc đổi mới quản lý của Nhà nước đối với kinh tế, nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước đang được đặt ra như vấn đề cấp bách nhất trong tổng thể đổi mới hoạt động của Nhà nước. Để bộ máy nhà nước với tư cách một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng hoạt động có hiệu quả thì xã hội phải có ngân sách để nuôi bộ phận này, để nó hoàn thành tốt chức năng quản lý kinh tế - xã hội, hoàn thành tốt việc cai trị xã hội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động. Còn hoạt động của các tổ chức kinh doanh của Nhà nước phải hạch toán kinh tế. Đây là bộ phận vượt ra ngoài phạm trù kiến trúc thượng tầng và khi đi vào hoạt động kinh tế, nó phải tuân theo quy luật kinh tế. Bộ máy nhà nước ta hiện nay còn cồng kềnh, kém hiệu quả, hoạt động chồng chéo và do vậy, cần tinh giản biên chế là đúng; còn trong sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế của Nhà nước giảm hay không là do nhu cầu khách quan của sản xuất quyết định. Ba là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát, kể cả kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước ở cấp vĩ mô, và vấn đề này phải được luật pháp hóa. Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, Đảng phát hiện những thiếu sót, lệch lạc trong hoạt động của Nhà nước để kịp uốn nắn, đồng thời phát hiện những nhân tố mới, những vấn đề mới nảy sinh để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Đảng phải tăng cường giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước trên tinh thần kỷ luật và đạo đức cộng sản. Chỉ có như vậy thì các nhân viên trong bộ máy Đảng và Nhà nước mới "tự giác" đặt mọi hoạt động của mình trong tổ chức. Tổ chức và đạo đức, tất yếu và tự do gắn chặt với nhau. Và, chỉ có tổ chức mới có năng lực buộc người ta tự điều chỉnh trong lĩnh vực đạo đức. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động hoạt động không phải chỉ với tư cách người công dân, mà còn với tư cách người chủ tư liệu sản xuất của xã hội. Do đó, đặc điểm
  11. dân chủ xã hội chủ nghĩa là có sự thống nhất giữa quyền công dân và quyền làm chủ xã hội của người chủ tư liệu sản xuất. "Dân là gốc", tất cả là do dân, vì dân, quyền lực của dân là tối cao. Hoạt động của Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo là theo xu hướng tất yếu đó. Chính đây là điểm xuất phát cơ bản để chúng ta từng bước xây dựng hệ thống chính trị với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", để Nhà nước ta thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, để khi con người được đặt trong cơ chế đó thì quyền tự do dân chủ của họ được thực hiện trong thực tế. Và, chính cơ chế đó sẽ thu hút quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm kê, kiểm soát số lượng lao động, sản xuất và phân phối sản phẩm. Cùng với những vấn đề trên, cần chú ý tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước... Thực tiễn cách mạng nước ta chứng tỏ rằng, sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước phụ thuộc vào việc Nhà nước thực hiện dân chủ đến mức nào; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có đại diện cho lợi ích của đa số quần chúng nhân dân không; các đại biểu trong cơ quan nhà nước có xứng đáng là "công bộc có trách nhiệm" của dân không. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là tạo ra sức mạnh tất yếu đó để Nhà nước vươn lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu cách mạng hiện nay.r (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) Xem: V.I.Lênin. Toàn tập, t.39. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.179. (2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.129. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.
  12. (5) Xem: GS.TS. Trần Hữu Tiến. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong sách:Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng (GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (Đồng chủ biên)). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.382. (6) Xem: Nguyễn Phú Trọng. Xây dựng Đảng cầm quyền: một số kinh nghiệm. Tài liệu phục vụ Hội nghị cán bộ triển khai nhiệm vụ năm học 2004 - 2005, t.1, Hà Nội, 2004, tr.269. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sđd., tr.131. XUẤT PHÁT ĐIỂM NGHIÊN CỨU CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” LƯƠNG MỸ VÂN (*) Xuất phát điểm nghiên cứu là một trong những vấn đề mà C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú trọng khi xây dựng học thuyết của mình. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, khi đề xuất quan niệm duy vật về lịch sử, các ông đã xuất phát từ con người “cá nhân hiện thực” với tất cả những mối quan hệ, liên hệ phong phú và phức tạp của họ trong đời sống xã hội, với hoạt động lao động sản xuất của họ và coi đó là xuất phát điểm nghiên cứu. Với xuất phát điểm đúng đắn này, các ông không chỉ luận giải những luận điểm khoa học về đời sống xã hội của con người, về lịch sử nhân loại và xây dựng nên quan niệm duy vật về lịch sử, mà còn phê phán và chỉ ra những hạn chế duy tâm, tư biện trong quan niệm của các nhà “triết học Đức hiện đại” (L.Phoiơbắc, B.Bauơ. M.Stiếcnơ,…). Trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành một học thuyết khoa học, vấn đề xuất phát điểm nghiên cứu luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Với bất cứ học thuyết khoa học nào, trong giai đoạn đầu, xuất phát điểm nghiên cứu có thể kể
  13. tới xuất phát điểm về đối tượng, về lập trường nghiên cứu (khi học thuyết khoa học chưa được hình thành một cách đầy đủ, thì hệ thống phương pháp của học thuyết ấy cũng chưa thể hình thành một cách hoàn chỉnh và người ta chỉ có thể nói tới lập trường tư tưởng của nhà khoa học lúc đó mà thôi) và về mục đích nghiên cứu (cái đích khái quát nhất mà nhà nghiên cứu hướng tới khi bước đầu tiếp cận đối tượng nghiên cứu). Ở đây, chúng tôi không có ý định hướng sự quan tâm của mình vào việc tìm hiểu cái gì quy định xuất phát điểm nghiên cứu này, bởi nó liên quan mật thiết với những vấn đề thuộc phạm vi khác, như hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh phát triển của tư tưởng và văn hóa mà các nhà nghiên cứu sống và trưởng thành trong đó, những thiên hướng tự nhiên của họ, v.v.. Chúng tôi chỉ đề cập tới một khía cạnh khác – đó là, để có thể diễn đạt một cách trực tiếp, rành mạch về xuất phát điểm nghiên cứu, đặc biệt là xuất phát điểm về đối tượng, thì nhà nghiên cứu phải trải qua giai đoạn xây dựng học thuyết và ít nhất cũng đã có được một sự hình dung tương đối rõ ràng về hệ thống những quan điểm, lý luận của mình. Đối với triết học Mác - Lênin, chúng ta có thể nhận thấy điều này một cách dễ dàng. Rõ ràng là, trong thời kỳ đầu hoạt động của C.Mác và Ph.Ăngghen, khi viết những tác phẩm đầu tay, như Lời nói đầu Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Gia đình thần thánh và ngay cả trong Luận cương về Phoiơbắc, các ông chưa thể có được cách diễn đạt trực tiếp về xuất phát điểm nghiên cứu của mình, dẫu lập trường nghiên cứu của các ông đã dần được hình thành. Có thể nói, phải đến Hệ tư tưởng Đức – tác phẩm được coi là quan trọng nhất trong thời kỳ đầu hình thành triết học Mác – “xác lập hệ thống lý luận quan điểm duy vật lịch sử”(1), thì C.Mác và Ph.Ăngghen mới có thể tuyên bố: “Những tiền đề của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi”(2). Bởi lẽ, khi viết tác phẩm này, theo Ph.Ăngghen, bản thân các ông đã tự “làm sáng tỏ mọi vấn đề”(3) cho mình rồi. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt sự quan tâm của mình vào xuất phát điểm nghiên cứu. Điều này cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Hệ tư tưởng Đức có phụ đề là Phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ và phê phán chủ nghĩa xã hội Đức qua các nhà tiên tri
  14. khác nhau của nó. Khi “phê phán triết học Đức hiện đại”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặc biệt chú ý tới xuất phát điểm nghiên cứu của mỗi đại biểu trên. Các ông không chỉ vạch rõ tính chất duy tâm trong xuất phát điểm của họ, mà còn chỉ rõ từ xuất phát điểm ấy, họ đã phạm những sai lầm như thế nào khi xây dựng quan điểm lịch sử. Để đối lập với những quan điểm ấy, các ông đã nêu lên xuất phát điểm cho triết học của mình và với xuất phát điểm này, quan niệm của các ông về lịch sử đã có những khác biệt, có sự phát triển về cơ bản. Vì nguyên nhân đó mà các tác giả của Lịch sử chủ nghĩa Mác đã nhận xét: “Sự bàn bạc và phân tích lý luận quan điểm duy vật lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức, chủ yếu phân làm ba bộ phận: điểm xuất phát, quan điểm cơ bản và kết luận rút ra từ đó”(4). Theo đó, điểm xuất phát mà các ông đã đưa ra được đánh giá là một trong ba thành phần làm nên “quan điểm duy vật về lịch sử”, tức là làm nên giá trị to lớn nhất của tác phẩm này. Và, xuất phát điểm nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Hệ tư tưởng Đức cũng là đối tượng của bài viết này. 1. “Những cá nhân hiện thực” – xuất phát điểm nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen Hệ tư tưởng Đức, xét theo tên gọi thuần túy, là một tác phẩm bút chiến, có mục đích là phê phán các trào lưu tư tưởng đang có những tác hại đối với phong trào hiện thực của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, để đánh đổ lý luận của các nhà tư tưởng ấy bằng lý luận, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cần phải phát biểu trực tiếp những quan điểm của riêng mình và tiến hành phê phán một cách thật sự cách mạng đối với lý luận của các nhà tư tưởng ấy, chứ không thể chỉ nói một cách đơn giản rằng “quan điểm của các ông Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ là sai lầm”. Nhìn lại lịch sử triết học, có thể thấy, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, “con người” đã là chủ đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với luận điểm của Xôcrát – “con người hãy nhận thức chính mình”, triết học đã thật sự thừa nhận “con người” là đối tượng của sự nghiên cứu. Từ đó về sau, mọi nền triết học, mọi nhà triết học, dù đặt mối quan tâm của mình vào bất cứ đối tượng nào, cuối cùng cũng phải kết thúc lập luận của mình ở những nghiên cứu về con người. Nhưng, nếu chỉ nói về “con người” thì chưa đủ. Vấn đề là con người như thế nào, con người được quan niệm như thế nào ở mỗi trường phái, mỗi nhà triết học – khi đó, quan niệm về “con người” đã đứng trên một
  15. lập trường thế giới quan nhất định và vì thế, qua những nghiên cứu về “con người” của các nhà triết học, người ta có thể nhận ra lập trường tư tưởng, quan niệm về thế giới của họ và nhận ra cuộc đấu tranh giữa những tư tưởng ấy trong suốt chiều dài lịch sử triết học. Khi xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử – quan niệm lấy lịch sử con người làm đối tượng, trong Hệ tư tưởng Đức, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày một cách trực tiếp về xuất phát điểm, về đối tượng nghiên cứu của mình: con người cá nhân, cụ thể hơn, “những cá nhân hiện thực”. Các ông viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề trừu tượng, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”(5). “Những cá nhân hiện thực” này được C.Mác và Ph.Ăngghen đặt trên nền tảng duy vật triệt để (xuất phát điểm về lập trường thế giới quan): “hoàn toàn không giống với triết học Đức là thứ triết học đi từ trên trời xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời”(6). “Từ dưới đất”, tức là “chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực”(7), đúng như những con người đang hoạt động ngoài cuộc sống (ngoài so với tư tưởng đang vận động trong đầu các nhà triết học), với hoạt động sản xuất và những quan hệ của họ với nhau, con người “kinh nghiệm”, hoàn toàn có thể tìm hiểu bằng kinh nghiệm. Ở đây, chúng ta cần dừng lại để bàn thêm về một khía cạnh nhỏ nhưng tinh tế của vấn đề. Đó là: trong Hệ tư tưởng Đức, đặc biệt là ở chương 1, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng quan điểm về lịch sử loài người – quan điểm về lịch sử được bắt đầu từ đâu? Cái gì quy định sự phân kỳ và phát triển của lịch sử? Lịch sử sẽ đi đến đâu? Không chủ đích đi tìm “bản chất con người” hay xem xét “con người” ở những khía cạnh phong phú của nó, các ông đã xem xét “con người” với tư cách “tiền đề đầu tiên của lịch sử”. Con người “cá nhân hiện thực” ở đây được bàn đến như là xuất phát điểm cho lịch sử cũng như cho việc nghiên cứu về lịch sử, chứ không phải chỉ là đối tượng của sự nghiên cứu lý luận. Và, bởi “con người cá nhân” được xem xét như là
  16. xuất phát điểm, nên các ông chỉ hướng sự quan tâm của mình vào một phương diện của vấn đề con người – hoạt động của con người, cái làm nên lịch sử loài người. Quan tâm đến hoạt động của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói về mối quan hệ cá nhân – xã hội. Đó không phải là mối quan hệ giữa cá nhân kiệt xuất với quần chúng nhân dân, mà là giữa những cá nhân bình thường, hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt của họ, với xã hội, với loài của mình. Trước Hệ tư tưởng Đức, trong Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra một kết luận quan trọng về vấn đề này: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Đến Hệ tư tưởng Đức, con người hiện thực, “cá nhân hiện thực” và mối quan hệ của nó với xã hội đã được C.Mác và Ph.Ăngghen làm rõ khi khẳng định rằng, chỉ có trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân mới hình thành được bản chất người; rằng, không thể có cá nhân riêng lẻ, tách biệt khỏi xã hội, bởi một khi bị tách khỏi xã hội, nó không bao giờ trở thành cá nhân được. Nói về mối quan hệ giữa con người “cá nhân hiện thực” với xã hội của họ, với lịch sử hiện thực mà trong đó họ đang tồn tại, các ông cho rằng, “ngay từ đầu, đã có mối liên hệ vật chất giữa người với người, mối liên hệ này bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người, - một mối liên hệ không ngừng mang hình thức mới, và do đó, là “lịch sử””(8). Như vậy, theo các ông, bản thân lịch sử chính là mối quan hệ ấy, là mối quan hệ mang tính vật chất ấy giữa những con người “cá nhân hiện thực” và giữa họ với xã hội của họ. Khi nói “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”(9), C.Mác và Ph.Ăngghen đã gián tiếp khẳng định con người “cá nhân hiện thực” là chủ thể sáng tạo lịch sử – “cá nhân hiện thực” với hành động hiện thực của họ tạo nên lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử ấy. Mặt khác, do coi “lịch sử” mới thật sự là đối tượng cần được xem xét, nên vấn đề lịch sử quyết định sự hình thành và phát triển của “cá nhân hiện thực” đã được các ông phát biểu một cách trực tiếp hơn: “Những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”; “những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định”(10). Rằng, “những điều kiện vật chất của sự sản xuất” là cái mà những cá nhân thừa hưởng từ trước, “có sẵn” đối với họ, là cái mà họ
  17. được tiếp nhận từ xã hội và lịch sử để từ nền tảng đó, họ tiến hành sản xuất, tham gia những quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội khác. Những cá nhân như vậy luôn chịu sự quy định của xã hội và của lịch sử loài của mình. Với quan niệm này, các ông đã đi đến kết luận: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”(11). Với xuất phát điểm nghiên cứu là con người “cá nhân hiện thực” với tư cách tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử, tồn tại trong mối quan hệ với lịch sử, với xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến những quan điểm duy vật về lịch sử. 2. Từ “cá nhân hiện thực” đến những quan điểm duy vật về lịch sử Xuất phát từ “tiền đề đầu tiên của lịch sử” – con người “cá nhân hiện thực” đến việc phân tích mối quan hệ giữa con người và xã hội, mà khía cạnh quan trọng nhất của nó là khía cạnh vật chất, rồi từ đó, trình bày những quan điểm duy vật về lịch sử với tư cách một hệ thống cùng những khái niệm đặc thù của nó, có thể nói, là một nội dung cốt lõi của Hệ tư tưởng Đức. Đương nhiên, Hệ tư tưởng Đức chỉ là tác phẩm ở thời kỳ đầu hình thành quan điểm duy vật về lịch sử, dẫu đây là tác phẩm quan trọng nhất của thời kỳ này. Trong tác phẩm này, cái mà chúng ta gọi là hệ thống quan điểm duy vật về lịch sử chưa được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày một cách rành mạch như trong các tác phẩm ở giai đoạn sau (ví dụ, Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Chống Đuyrinh, v.v.). Hệ thống ấy có thể rút lại trong hai nguyên lý quan trọng nhất, hai nguyên lý cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử: nguyên lý về sự phát triển biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa xã hội công dân và kiến trúc thượng tầng. Khi trình bày những nguyên lý này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng những thuật ngữ cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử: phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất (“hình thức giao tiếp”), cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng, ý thức xã hội,… Những thuật ngữ này không được các ông định nghĩa một cách trực tiếp (theo lối A là B), nhưng thông qua quan hệ giữa chúng với nhau để tạo nên nội dung của những nguyên lý phản ánh lịch sử hiện thực, các ông đã cho chúng ta thấy nội hàm của chúng. Hai nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Hệ tư tưởng Đức có quan hệ như thế nào với xuất phát điểm nghiên
  18. cứu của các ông – con người “cá nhân hiện thực”? Hay nói cách khác, từ xuất phát điểm đó, các ông đã đi đến hai nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử như thế nào? Có thể nói, trong tất cả những yếu tố của lịch sử hiện thực, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra yếu tố đóng vai trò xuất phát, yếu tố mà có nó mới có những yếu tố còn lại: “Những cá nhân hiện thực, hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”. Những cá nhân hiện thực này thực hiện “hành vi lịch sử đầu tiên” của họ là sản xuất, cái mà “ngay lập tức” phân biệt con người với toàn bộ giới tự nhiên còn lại. Hành vi này được tiến hành trong mối quan hệ giữa người và người. Từ xuất phát điểm này, các ông đã đi đến quan niệm về lực lượng sản xuất với tư cách kết quả hoạt động sản xuất của con người ở mỗi thời điểm lịch sử nhất định và đến quan niệm về quan hệ sản xuất (“hình thức giao tiếp”) với tư cách những mối quan hệ trong quá trình sản xuất của những con người “cá nhân hiện thực”. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa chính xác về các khái niệm này, nhưng mỗi khi đề cập đến lực lượng sản xuất hay “hình thức giao tiếp”, các ông đều nhất quán khẳng định lực lượng sản xuất là cái quyết định: “Tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được, quyết định trạng thái xã hội”(12); “hình thức giao tiếp – cái mà trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ trước tới nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất”(13). Ngay trong tác phẩm này, các ông cũng đã đưa ra một phác thảo rõ nét về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: “Trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất có một giai đoạn mà trong đó xuất hiện những lực lượng sản xuất và những phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những quan hệ hiện có, và đã không còn là những lực lượng sản xuất nữa mà lại là những lực lượng phá hoại”(14). Coi “hình thức giao tiếp” là quan hệ sản xuất giữa những con người “cá nhân hiện thực”, là yếu tố cốt lõi tạo nên xã hội công dân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một định nghĩa về xã hội công dân: “Xã hội công dân bao trùm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất”(15). Định nghĩa xã hội công dân như vậy, có thể nói, gần với nội hàm của khái niệm “cơ sở hạ tầng” mà sau này, trong Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế
  19. chính trị (1859), C.Mác đã đưa ra: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ – tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”(16). Xã hội công dân với tư cách nền tảng của kiến trúc thượng tầng (những quan hệ khác ngoài quan hệ sản xuất – quan hệ chính trị, pháp lý…) đã được C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích kỹ khi nói đến ý thức thống trị trong đời sống xã hội – ý thức của giai cấp thống trị về vật chất. Ở đây, cái quyết định cuối cùng vẫn là vật chất và trong đời sống xã hội, đó là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những con người “cá nhân hiện thực”. Như vậy, có thể nói, trong mọi vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử được đưa ra trong Hệ tư tưởng Đức, chúng ta luôn tìm thấy dấu ấn của xuất phát điểm nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen – con người “cá nhân hiện thực”. Kết luận sau đây của chính các ông đã cho thấy rõ điều đó: “Quan niệm đó (quan niệm duy vật biện chứng – L.M.V) về lịch sử là: phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do phương thức sản xuất ấy sinh ra – tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, triết học, đạo đức, v.v., và theo dõi quá trình phát sinh của chúng trên cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được toàn bộ quá trình”(17). 3. Sự phê phán của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với các nhà “triết học Đức hiện đại” về xuất phát điểm nghiên cứu Hệ tư tưởng Đức có nội dung chính, hoặc ít ra thì cũng là nội dung chiếm phần lớn số lượng trang viết – phê phán “triết học Đức hiện đại” qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ. Các nhà “tư tưởng Đức hiện đại” bị quy định bởi lịch sử hiện thực và lịch sử phát triển tư tưởng lúc đó, nên đã đặt trọng tâm vào việc phê
  20. phán tôn giáo, lấy phê phán tôn giáo làm tiền đề cho những nghiên cứu triết học của mình. Điều này có thể thấy rõ nhất ở Phoiơbắc với tác phẩm đầu tay bàn về “cái chết và sự bất tử” (1830). Tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông – Bản chất đạo Cơ đốc (1841) cũng đã đặt tôn giáo trước con mắt phê phán nghiêm khắc. Nhưng, các nhà triết học thuộc “hệ tư tưởng Đức” đều bắt đầu từ triết học của Hêghen; nói cách khác, đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hêghen, dù họ luôn tìm cách phê phán và cho rằng mình đã vượt bỏ được ông thầy tư tưởng của mình. Họ phê phán Hêghen nhưng đều hoặc là gạt bỏ hạt nhân biện chứng của triết học Hêghen (như Phoiơbắc), hoặc chỉ diễn đạt bằng cách khác, rối rắm hơn, tầm thướng hơn chính những tư tưởng của Hêghen. Tự cho mình là những nhà phê phán, cái họ phê phán đầu tiên là triết học Hêghen, sau đó là tôn giáo để rồi xây dựng hệ thống của mình. Tất cả họ đều bắt đầu hệ thống của mình bằng “con người”. Nhưng, đó là những “con người” như thế nào và có gì khác biệt so với quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen? C.Mác và Ph.Ăngghen đặt sự phân tích triết học Phoiơbắc lên vị trí đầu tiên trong tác phẩm bởi, Phoiơbắc là người đối lập mạnh mẽ nhất và có hiệu quả nhất đối với triết học Hêghen (trong số các nhà “triết học Đức hiện đại”) và do đó, có phần gần với quan điểm của các ông hơn cả. Đồng thời, qua việc phê phán Phoiơbắc, các ông cũng dễ dàng đưa ra tư tưởng của mình hơn. Khi xây dựng hệ thống triết học nhân bản của mình, Phoiơbắc cũng bắt đầu từ con người, song, con người trong tư tưởng của ông khác hẳn con người với tư cách xuất phát điểm trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Con người của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi lịch sử, đứng bên ngoài lịch sử hiện thực của chính nó: “Phoiơbắc… không bao giờ đi tới được những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng: “Con người” và chỉ đóng khung ở chỗ thừa nhận con người “hiện thực, cá thể, bằng xương, bằng thịt” trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những “quan hệ con người”, “giữa người với người” nào khác ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa lại là tình yêu và tình bạn được lý tưởng hóa. Ông không phê phán những điều kiện sinh hoạt hiện tại”(18). Từ con người trừu tượng như vậy, không có gì khó hiểu khi Phoiơbắc sa vào quan điểm duy tâm trong quan niệm về xã hội và lịch sử. Đối với Phoiơbắc – nhà duy vật duy nhất trong số những đại diện của “triết học Đức
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2