intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

786
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của bài tiểu luận "Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân" này gồm có 2 phần: Vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước; Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

  1. TIỂU LUẬN MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Đề tài: “Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” 1
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................3 NỘI DUNG CHÍNH..........................................................................................4 1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước.......................................4 2. Những nguyên tắc chủ yếu về  tổ  chức và hoạt động của Tòa án nhân dân .............................................................................................................................4        2.1. Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân............4         2.2. Nguyên tắc khi xét xử  có hội thẩm nhân dân (hội thẩm quân nhân)   tham                gia, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán..........................................6        2.3. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ  tuân                theo pháp luật........................................................................................7        2.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số..............8        2.5. Nguyên tắc tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do Luật định....9        2.6. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.................10              2.7. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị  cáo, quyền bảo vệ  quyền và                lợi ích hợp pháp của đương sự............................................................11        2.8. Nguyên tắc công dân Việt Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của                dân tộc mình trước tòa án.....................................................................12 2
  3.        2.9. Nguyên tắc Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực                nhà nước................................................................................................13        2.10. Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.........................13 KẾT LUẬN........................................................................................................15 LỜI MỞ ĐẦU         Ở nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam, bộ  máy nhà nước được  tổ  chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự  phân công và có sự  phối   hợp chặt chẽ  giữa các cơ  quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập  pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ  yếu là quyền xét  xử  là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và  được giao cho Tòa án nhân dân. Để  bảo đảm cho tòa án xét xử  khách quan,   đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo cho các bị  cáo và đương sự  bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của họ  thì Nhà nước cần phải đưa ra các  nguyên tắc tổ  chức và hoạt động của Tòa án nhân dân sao cho phù hợp với   thiết chế xã hội chủ nghĩa. 3
  4. NỘI DUNG CHÍNH 1. Vị trí của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước.       Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án dân   sự  và các Tòa án khác do Luật định là những cơ  quan xét xử  của nước Cộng  hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử  những vụ  án hình sự, dân sự,   hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc  khác theo quy định của pháp luật.       Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ  bảo vệ  pháp  chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của   nhân dân; bảo vệ  tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ  tính mạng, tài  4
  5. sản, tự  do, danh dự  và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình,  Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm  chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu  tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. 2. Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Tòa án  nhân dân.      Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân có thể được   xem xét dưới những góc độ  khác nhau và có thể  được phân chia thành nhiều  loại khác nhau theo những tiêu chuẩn, dấu hiệu khác nhau. Vậy những nguyên  tắc chủ  yếu cho việc tổ  chức và hoạt động của Tòa án nhân dân bao gồm   những nguyên tắc nào? 2.1. Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân      Ở Việt Nam, trước đây chúng ta thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán.  Nhưng từ  năm 1960 đến trước khi có Hiến pháp năm 2013 chế  độ  bầu cử  thẩm phán đã được thực hiện ở các cấp Tòa án nhân dân.  Nguyên tắc này đã được quy định ngay từ  Hiến pháp 1946: “Các viên  thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm” (Điều 64).      Theo chế độ bầu cử thẩm phán có những ưu điểm là đảm bảo cho nhân  dân lao động trực tiếp thực hiện quyền dân chủ  trong việc lựa chọn những  người có trình độ  chuyên môn, pháp lý, đạo đức thay mặt mình xét xử  được  công minh, bảo vệ được lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích chính đáng  của công dân. Tuy nhiên, hơn 30 năm thực hiện nguyên tắc bầu thẩm phán đã  bộc lộ những nhược điểm là do lệ thuộc về tổ chức nên hoạt động xét xử của  các tòa án cũng chịu sự áp đặt từ phía địa phương làm cho tính độc lập khi xét   xử của toà án bị hạn chế. Do đó để các tòa án thực hiện được nguyên tắc độc   5
  6. lập khi xét xử, sự  cần thiết phải được độc lập trong tổ  chức. Vì vậy, Hiến  pháp 2013 quy định: Chế  độ  bộ  nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kì  của thẩm phán do luật định. Theo quy định của “Luật Tổ  chức  Tòa án nhân  dân” năm 2014 thì: Chủ  tịch nước bãi nhiệm, miễn nhiệm cách chức đối với  thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (kể  cả  tòa án quân sự  Trung  ương) còn  chánh án, phó chánh án, thẩm phán của Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án  quân sự  từ  cấp quân khu trở  xuống do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ  nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ  của Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân  tối cao, chánh án, phó chánh án và thẩm phán tòa án nhân dân địa phương, tòa  án quân sự là 5 năm.        Đối với Hội thẩm nhân dân được thực hiện theo chế  độ  bầu hoặc cử.  Hội thẩm toà án nhân dân địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo   sự giới thiệu của uỷ ban Măt trận Tổ quốc cùng cấp và do hội đồng nhân dân  cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề  nghị  của cơ  quan chánh án tòa án   nhân dân. Hội thẩm quân nhân tòa án quân sự  quân khu và tương đương do Chủ  nhiệm Tổng cục chính trị  Quân đội nhân dân Việt Nam cử  theo sự giới thiệu  của cơ  quan chính trị  quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp   tương đương và do Chủ  nhiệm Tổng cục chính trị  Quân đội nhân dân Việt  Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề  nghị  của chánh án tòa án quân sự  quân  khu và tương đương sau khi thống nhất với cơ quan chính trị  quân khu, quân  đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương. Hội thẩm quân nhân tòa án quân sự khu vực do chủ nhiệm chính trị quân  khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới   6
  7. thiệu của cơ quan chính trị  sư  đoàn hoặc cấp tương đương và do chủ  nhiệm  chính trị  quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương  miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề  nghị của chánh án tòa án quân sự khu vực sau  khi thống nhất với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân địa phương, hội thẩm  quân nhân là 5 năm.   2.2. Nguyên tắc khi xét xử  có hội thẩm nhân dân (hội thẩm quân   nhân) tham gia, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.        Từ năm 1946 đến nay trong các bản Hiến pháp của nước ta và trong các  Luật tổ chức Tòa án năm 1960, 1981, 1992, 2014 đều quy định về sự tham gia   của Hội thẩm trong quá trình xét xử của Tòa án và khi xét xử Hội thẩm ngang   quyền với Thẩm phán. Đối với những hội thẩm nhân dân theo Luật Tổ  chức   Tòa án nhân dân năm 2014 vẫn theo chế  độ  tuyển cử  như  trước. Các Hội   thẩm nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, các Hội thẩm quân nhân Tòa án quân  sự  được cử, còn các Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội   đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Luật quy định Hội thẩm chỉ  được tham gia Hội đồng xét xử  sơ  thẩm  chứ không được tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Khi tham gia xét xử, Hội thẩm bình đẳng với Thẩm phán trong việc giải  quyết các vấn đề phát sinh khi xét xử, có quyền ngang với Thẩm phán. Khi xét   xử các thành viên trong Hội đồng xét xử đều có quyền đưa ra thảo luận tất cả  những vấn đề quan trọng cần giải quyết tại phiên tòa, có quyền tham gia xét  hỏi và nghị án, mọi quyết định đều được biểu quyết theo đa số. Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật việc xét xử không  chỉ có những người chuyên môn mà còn có cả đại diện từ phía nhân dân, Hiến  7
  8. pháp quy định: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của   Tòa án quan sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật.   Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Hội thẩm nhân dân là những người lao động, công tác ở cơ sở, thay mặt   nhân dân lao động tham gia hoạt động xét xử  của Tòa án, đảm bảo cho việc  xét xử đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, phù hợp  với nguyện vọng và quan điểm của nhân dân, bảo vệ  quyền và lợi ích hợp   pháp của họ. Hiện nay, Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Pháp lệnh về  Thẩm phán và Hội thẩm đã quy định rõ tiêu chuẩn của Hội thẩm, nhưng trong   thực tế sự tham gia xét sử của Hội thẩm còn mang tính hình thức, làm hạn chế  hiệu quả công tác xét xử của Tòa án. Cho nên, môt vấn đề  đặt ra hiện nay là   phải nâng cao trình độ  nghiệp vụ  của hội thẩm để  đảm bảo cho Hội thẩm   bằng chính năng lực của mình có thẻ ngang quyền với thẩm phán khi xét xử. 2.3. Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập,   chỉ tuân theo pháp luật.        Nguyên tắc này đều được quy định trong các bản Hiến pháp của nước  ta: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến  pháp 2013. Trong Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946 và các Luật  Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2014 cũng đều ghi nhận   nguyên tắc này. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ  nghĩa, nó bảo đảm cho Tòa án nhân dân xét xử khách quan, đúng pháp luật để  bảo vệ  trật tự  pháp luật xã hội chủ  nghĩa. Nguyên tắc này được thể  hiện  ở  chỗ: 8
  9.      Thứ  nhất: Khi xét xử  thẩm phán và hội thẩm không bị  ràng buộc bởi  kết luận của Viện kiểm sát; không bị  chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm   phán, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về  từng vấn  đề của vụ án.     Thứ hai: Khi xét xử, các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng độc lập   với nhau trong việc xác định chứng cứ, lựa chọn các quy phạm pháp luật cần  được áp dụng để định tội và lượng hình đối với các vụ án hình sự, quyết định   quyền và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án khác.     Thứ ba: Đối với một bản án có thể phải xét xử nhiều lần theo các thủ  tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với các bản án xét  xử sơ thẩm thì không phải xin ý kiến chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Ngược lại  khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không lệ thuộc vào chứng  cứ, kết luận và quyết định tòa án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định  chứng cứ, quy phạm pháp luật cần được áp dụng để có quyết định cụ thể.       Sự  độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử  phải gắn liền với   việc tuân thủ  pháp luật. điếu đó có nghĩa là khi xét xử  Thẩm phán và Hội   thẩm phán phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết   định của mình về từng vấn đề  của vụ  án, chứ  không được tùy tiện hay bằng   cảm tính. 2.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.       Nguyên tắc này được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và bắt nguồn   từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ  máy Nhà  nước.       Xét xử là hoạt động đặc thù do tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ  pháp chế  xã hội chủ  nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp  9
  10. của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Bằng bản án, quyết định  của tòa án mà các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các quyền hoặc  phải thực hiện các nghĩa vụ  nhất định. Vì vậy, việc xét xử  của tòa án phải   khách quan, đúng pháp luật. Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng  pháp luật đòi hỏi phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó khi xét xử tất cả các vụ  án, ở tất cả các trình tự tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét xử.       Các văn bản pháp luật về  tố  tụng đã quy định cụ  thể  thành phần của  hội     đồng xét xử ở từng cấp xét xử: ­ Theo luật định thì hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai  hội thẩm nhân dân, trường hơp đặc biệt hội đồng xét xử có hai thẩm phán và  ba hội thẩm. Tòa chuyên trách Tòa án tối cao xét xử thì thành phần hội đồng   xét xử là ba thẩm phán và hai hội thẩm. ­ Hội đồng xét xử  phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trường hợp đặc biệt   có thêm hai hội thẩm nhân dân. ­ Hội đồng xét xử  giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa chuyên trách Tòa   án nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự  Trung  ương gồm có ba thẩm phán.  Nếu Uỷ  ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán giám đốc thẩm hoặc tái  thẩm thì số  thành viên tham gia xét xử  phải chiếm hai phần ba tổng số  các   thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán.       Nguyên tắc này phát huy được trí tuệ tập thể và đảm bảo cho việc xét  xử  của Tòa án thận trọng, khách quan, toàn diện, chống độc đoán. Hội đồng  xét xử làm việc tập thể và chịu trách nhiệm phán quyết của mình. Mọi thành   viên hội đồng xét xử ngang quyền nhau khi giải quyết những vấn đề phát sinh   tại phiên tòa. Khi quyết định bản án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn  đề  một. Trong hội đồng xét xử  sơ  thẩm, thẩm phán biểu quyết sau cùng.   10
  11. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và  được lưu trong hồ sơ vụ án. 2.5. Nguyên tắc tòa án xét xử  công khai, trừ  trường hợp do Luật   định. Nguyên tắc này được quy định từ  Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp  năm 2013 và các Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002,  2014. Nguyên tắc xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của  hoạt động xét xử  xã hội chủ  nghĩa.Nguyên tắc này góp phần vào việc giáo  dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã  hội, thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội  phạm và các vi phạm.  Mặt khác nguyên tắc này thu hút nhân dân tham dự  phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân lao động giám sát hoạt động của Tòa án  cũng như  của các cơ  quan cơ  quan chức năng khác, nâng cao ý thức trách   nhiệm của những người tiến hành tố  tụng và do đó nguyên tắc này là một  trong những nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động xét xử  được thực hiện theo   pháp luật. Tính công khai trong hoạt động xét xử được hiểu là việc xét xử  các vụ  án hình sự, dân sự, kinh tế… được tiến hành công khai tại phiên tòa, mọi công  dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự và theo dõi diễn biến của phiên   tòa. Tòa án có thể niêm yết kế hoạch xét xử tại trụ sở Tòa án hoặc thông báo  việc xét xử  trên các phương tiện thông tin đại chúng để  nhân dân biết, tham  dự hoặc Tòa án tổ chức các phiên tòa lưu động để xét xử lưu động ở dưới địa  phương. 11
  12. Tuy nhiên không phải mọi phiên tòa của Tòa án đều phải tiến hành công  khai, mà Hiến pháp còn quy định là trong những trường hợp ngoại lệ do Luật   định, Tòa án có thể  xét xử  kín. Theo Luật tổ  chức Tòa án nhân năm 2014 thì   Tòa án có thể xét xử kín khi: Để giữ gìn bí mật Nhà nước; Để  giữ gìn thuần   phong, mĩ tục của dân tộc; Để  giữ  bí mật của các đương sự  theo yêu cầu  chính đáng của họ. 2.6. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là một nguyên  tắc cơ  bản của nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, được quy định trong Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 2014: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân   đếu bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng,   tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, địa vị vũ   trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh   tế đều bình đẳng trước pháp luật”. Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở những khía cạnh sau: ­ Mọi hành vi phạm tội, tranh chấp pháp lí do bất cứ  ai thực hiện đều   được Tòa án xét xử nghiêm minh, công bằng, không thiên vị. ­ Pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ  của những người tham   gia tố tụng, cho nên bất cứ ai tham gia tố tụng cũng được hưởng những quyền  và phải thực hiện những nghĩa vụ tố tụng đó.       Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho   việc xét xử không công minh, không đúng pháp luật. Báo cáo chính trị của Ban  chấp   hành   Trung   ương   Đảng   cộng   sản   Việt   Nam   lần   thứ   VI   đã   chỉ   rõ:  “Không cho phép ai dụa vào quyền thế  để  làm trái pháp luật. Mọi vi phạm   đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử, không được giữ   12
  13. lai để xử lý nội bộ. Không được làm theo phong kiến: dân thì chịu hình pháp,   quan thì xử theo lễ”. 2.7. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ   quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.      Nguyên tắc này được thực hiện từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp   năm 2013 và các Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002,  2014.      Bằng việc khẳng định là quyền bào chữa của bị  cáo được bảo đảm,  Hiến pháp còn quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào   chữa cho mình”. Bằng quy định là “quyền bào chữa của bị  cáo được bảo  đảm”. Hiến pháp quy định một cách gián tiếp rằng trong hoạt động xét xử của  mình Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.  Theo quy định của Pháp luật tố  tụng, trong một số trường hợp nhất định, nếu bị can hoặc người đại diện hợp   pháp của họ  không mời người bào chữa, thì cơ  quan điều tra, Viện kiểm sát  hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư  cử  người bào chữa cho họ. Đó là   những trường hợp sau:  ­ Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần. ­ Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử hình. ­ Bị cáo là thành niên phạm tội. Cũng bằng quy định “Tổ chức Luật sư được thành lập để giúp bị cáo và  các đương sự  khác bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của mình”, Hiến pháp   quy định một cách gián tiếp về nhiệm vụ của các cơ quan Đảng, Nhà nước có  thẩm quyền cũng như các tổ chức xã hội và các cơ quan khác trong việc hành  lập Đoàn luật sư. 13
  14. 2.8. Nguyên tắc công dân Việt Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết   của dân tộc mình trước tòa án.      Nguyên tắc này được quy định từ  Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp  năm 2013 và các Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002,  2014. Trong Luật tổ  chức Tòa án nhân dân năm 2013 quy định: “Tòa án bảo   đảm cho những người tham gia tố  tụng quyền dùng tiếng nói, chữ  viết của   mình trước tòa án”.      Nguyên tắc này thể  hiện rõ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước  ta. Nhà nước ta thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ  giữa các   dân tộc, các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ  viết, giữ  gìn bản sắc dân  tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp  của mình.      Bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ  viết của dân tộc mình trước Tòa án, là điều kiện để bảo đảm cho việc xét xử  được chính xác, đúng sự  thật khách quan của sự  việc, hiệu quả xet xử được   nâng cao. Bởi lẽ  điều đó tạo cho người tham gia tố  tụng có điều kiện trình   bày một cách dễ  dàng, chính xác, đầy đủ  về sự  thật một vụ án. Trong những   trường hợp người tham gia tố  tụng trình bày bằng ngôn ngữ  dân tộc họ  thì  Tòa án phải chỉ định người phiên dịch. 2.9. Nguyên tắc Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền   lực nhà nước.       Đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm không chỉ là nhiệm vụ  của các cơ  quan chức năng mà còn là nhiệm vụ  của các cơ  quan khác, các tổ  chức và công dân.Cho nên việc phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan  nhà nước, các tổ chức xã hội là rất cần thiết. Tòa án cần phối hợp với các cơ  14
  15. quan và tổ  chức trong việc phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa và tạo   điều kiện thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Tóa án  cùng với Viện kiểm sát, Công an, Thanh tra, Tư pháp, cơ quan hữu quan khác,   tổ  chức xã hội nghiên cứu và thực hiện những chủ  trương, biện pháp nhằm   ngăn ngừa và chống các loại tội phạm cũng như  các việc vi phạm pháp luật   khác, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý trong quần chúng nhân nhân  dân lao động đồng thời động viên họ  tham gia đấu tranh, ngăn chặn các hiện   tượng tiêu cực trong xã hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ  chiến lược mà   Đảng và Nhà nước đã đặt ra trong giai đoạn hiện nay. 2.10. Nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.      Nội dung nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Luật Tổ chức Tòa án  nhân dân năm 2013 như  sau: “Tòa án thực hiện chế  độ  hai cấp xét xử”.  Bản  án, quyết định sơ  thẩm của tòa án có thể  bị  kháng cáo, kháng nghị  trong thời  hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật, đối với bản án, quyết   định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm.   Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.        Luật Tổ  chức Tòa án nhân dân đã bảo đảm việc thực hiện quyền tố  tụng của bị cáo và các đương sự được xét xử qua hai cấp: cấp xét xử sơ thẩm   và cấp xét xử phúc thẩm.      ­ Cấp xét xử  sơ  thẩm tiến hành trình tự, thủ  tục giải quyết vụ  án lần   thứ nhất. Tất cả các vụ  án nếu đưa ra xét xử  thì đều phải tiến hành qua cấp  sơ  thẩm. Đây là cấp xét xử  không thể thiếu và có ý nghĩa cực kỳ  quan trọng   trong quá trình giải quyết vụ án. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp   sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm túc thì bản án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng  nghị  theo thủ  tục phúc thẩm, từ  đó vụ  án sẽ  không bị  kéo dài. Hoặc giả  sử,   15
  16. nếu bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm  thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và tiền của của Nhà nước cũng  như của những người tham gia tố tụng.      ­ Cấp xét xử phúc thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần  thứ  hai. Không phải tất cả  các vụ  án đã xét xử  sơ  thẩm đều phải tiến hành  qua cấp phúc thẩm, chỉ những vụ án đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định   chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục   phúc thẩm thì mới phải tiến hành qua cấp phúc thẩm. Pháp luật quy định có   cấp phúc thẩm là xuất phát từ việc tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp  pháp của những người tham gia tố tụng. Mặt khác, xuất phát từ việc các phán  quyết của Tòa án trước khi có hiệu lực pháp luật phải được xem xét một cách  thận trọng.       Điều này thể hiện sự  đoạn tuyệt với thủ tục sơ  thẩm đồng thời chung  thẩm được áp dụng suốt mấy chục năm qua; nhằm bảo vệ  quyền lợi cho  những người tham gia tố  tụng, tránh những sai lầm đáng tiếc dẫn đến số  lượng án bị cải sửa, bị hủy hang năm của các tòa án. Đồng thời, khi thực hiện   chế  độ  hai cấp xét xử  sẽ  đưa thủ  tục giám đốc thẩm, tái thẩm về  đúng bản  chất là giai đoạn xét lại bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật   chứ không phải là cấp xét xử thứ ba. KẾT LUẬN        16
  17. Có thể nói, trong nhiều giai đoạn lịch sử của Nhà nước ta, Tòa án nhân   dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức cũng như phương  thức hoạt động để  đáp  ứng nhiệm vụ  ngày càng nặng nề  của nền tư  pháp,  nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết  quả phát triển và lớn mạnh của Tòa án nhân dân ngày nay thể hiện đậm nét sự  vận dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa  án nhân dân.    17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2