intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ và quá trình sinh sản phát triển của nó

Chia sẻ: Cao Thị Dung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

160
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bài tiểu luận bao gồm những nội dung sau: Khái quát về nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ; đặc điểm cấu tạo của nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ; đặc điểm sinh sản của nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ và quá trình sinh sản phát triển của nó

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HA NỘI KHOA SINH HỌC BÀI TIỂU LUẬN NHÓM ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH TRÙNG CỎ VÀ QUÁ  TRÌNH SINH SẢN PHÁT TRIỂN CỦA NÓ Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Sinh học                                          Người hướng dẫn: GS.TSKH. Vũ Quang Mạnh                     Sinh viên thực hiện: Cao Thị Dung                                                   Lớp: Sinh CH­K24 1
  2. Hà Nội, năm 2015 2
  3. MỤC LỤC 3
  4. MỞ ĐẦU Động vật nguyên sinh sống  ở khắp nơi: nơi  ẩm  ướt, nước biển, sông, ao  hồ, cống rãnh, vũng nước nhỏ…, nhiều động vật nguyên sinh ký sinh trong tế  bào, trong máu, cơ  quan tiêu hóa hay các cơ  quan khác của động vật… Cho nên   môi trường sống của chúng rất phong phú. Khi gặp điều kiện bất lợi, chúng hình  thành bào nang, bào nang có tác dụng bảo vệ cơ thể và dễ dàng phát tán. Khi gặp   những điều kiện sống thuận lợi, chúng đối phó bằng cách sinh sản mãnh liệt  như: liệt sinh, sinh bào tử  để  duy trì nòi giống và lan truyền bệnh; điển hình là  Eimeria chỉ một vài ngày đã làm thủng ruột thỏ. Lối sống nguyên thủy của động vật nguyên bào là tự  dưỡng (autotroph).   Điều kiện sống thay đổi (khí hậu khắc nghiệt, thức ăn khan hiếm) đã làm xuất   hiện những loài sống dị  dưỡng (heterotroph), dần xuất hiện những loài hoại   dưỡng   (sarpotroph),   ngoại   ký   sinh   (exoparasit)   và   cuối   cùng   là   nội   ký   sinh  (endoparasit). Từ  trùng roi nguyên thủy đã tiến hóa theo 5 hướng: Trùng roi hiện tại  (Flagenllata),   Trùng   chân   giả   (Sarcodina),   Trùng   bào   tử   (Sporozoa),   Trùng   tơ  (Infusoria) và Động vật đa bào về sau (Metazoa). Lớp trùng tơ (Infusoria) có bộ nhân và cơ quan tử phân hóa rất cao, có thể  chúng hình thành từ một nhóm trùng roi nào đó vì tơ  và roi có cấu tạo tương tự.   Chúng còn được gọi là nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ. Đặc điểm quá trình   sinh sản phát triển ở nhóm này rất đặc biệt. Trong bài tiểu luận này, tác giả  xin  trình bày những nét khái quát nhất về  “Nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ  và   quá trình sinh sản phát triển của nó”. Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp thu thập,  xử lý thông tin, phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa thông tin… Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bài tiểu luận bao gồm những nội dung sau:  1. Khái quát về nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ. 2. Đặc điểm cấu tạo của nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ. 3. Đặc điểm sinh sản của nhóm động vật nguyên sinh trùng cỏ. 4
  5. 1. KHÁI QUÁT VỀ NHÓM ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH TRÙNG CỎ Trùng giày được con người biết đến trước tiên trong thế  giới động vật   đơn bào. Khi chế tạo được kính hiển vi, người ta thử lấy nước “cỏ ngâm” soi thì  tình cờ phát hiện ra chúng và vì thế được gọi là “trùng cỏ”. Ngày nay “trùng cỏ”   trở  thành tên chính thức cho nhóm động vật này. Và cỏ  nước ngâm vẫn là moi  trường nuôi cấy trùng cỏ  lý tưởng  ở  phòng thí nghiệm. Ngoài ra, trùng giày còn  sống ở những váng cống rãnh hoặc những váng nước đục. Mỗi khi đời sống gặp  khó khăn (khô hạn hay thiếu thức ăn), trùng đế giày có khả năng tiết nước thừa,   thu nhỏ cơ thể lại, tiết ra lớp vỏ bọc gọi là hóa bào xác. Trong bào xác, chúng tồn  tại rất lâu và có cơ hội được gió cuốn đi để phát tán đến những môi trường mới   thích hợp hơn. Nhóm trùng cỏ thuộc ngành trùng lông bơi. Tùy theo lông bơi tồn tại suốt  đời hay chỉ ở con non mà phân biệt thành hai nhóm: Trùng cỏ (Infusoria) và Trùng  ống hút (Suctoria). Phần lớn trùng cỏ sống tự do, số ít sống ám hoặc ký sinh, cơ  thể phủ  lông bơi còn trùng ống hút chỉ có lông bơi  ở con non, trưởng thành mất   lông bơi và hình thành  ống hút là cơ  quan bắt mồi. Chỉ có khoảng vài chục loài  trùng ống hút. Căn cứ vào mức độ chuyên hóa của lông bơi thành màng uốn hướng thức   ăn vào bào khẩu, có thể  sắp xếp trùng cỏ  thành ba nhóm lớn: Trùng cỏ  có lông  bơi đều (Kinetofragminophora), Trùng cỏ  có ít màng uốn (Oligohymenophora),  Trùng cỏ có màng uốn xoắn (Polyhymenophora). 5
  6. C Hình 1.1. Trùng cỏ có lông bơi đều (Kinetofragminophora) (Nguồn: Google) (A, B). Entodinium, C. Holophrya Đối với Trùng cỏ  có lông bơi đều (Kinetofragminophora), lông bơi gần  như  cùng hình dạng và chức năng, phủ  toàn bộ  hoặc một phần bề  mặt cơ  thể,   không tạo thành màng uốn mặc dù lông bơi quanh bào khẩu có thể  phát triển  hơn. Là nhóm cổ nhất và phong phú nhất. Đại diện: trùng lông đều ( Holophrya),  trùng   hình   cốc   (Didinum)   có   bào   khẩu   ở   đỉnh   cực   và   Dileptus,   có   bào   khẩu  chuyển sang bên, sống tự  do, ăn thịt và Entodinium cộng sinh trong  ống tiêu hóa   của thú móng guốc. 6 D E
  7. Hình 1.2. Trùng cỏ có ít màng uốn (Oligohymenophora) (Nguồn: Google) D. Tetrahynema, E. Trùng chông tập đoàn Zoothamnium Trùng cỏ có ít màng uốn (Oligohymenophora), lông bơi gần bào khẩu kết  thành 4 màng uốn, còn giữ cấu tạo điển hình. Cấu tạo này có nhiều biến dạng ở  các loài khác trong nhóm. Đại diện: Tetrahynema, trùng giày sống tự  do. Trùng   chuông   đơn   độc   (Vorticella),   trùng   chông   tập   đoàn   (Zoothamnium)   sống   bám.  Trùng cỏ cá Trichodina ký sinh ở mang hoặc ở da cá, phổ biến ở nước ta, nhất là  ở  cá bột dưới một tuổi; trùng cỏ  cá Ichthyophthirius gây bệnh điểm trắng  ở  cá  nước ngọt. Cá bị bệnh thường gầy yếu và cuối cùng dựa bờ mà chết, bệnh trầm  trọng ở cá bột (tỉ lệ chết có thể lên tới trên 80%). F F Hình 1.3. Trùng cỏ có màng uốn xoắn  G (Polyhymenophora) (Nguồn: Google) F. Trùng kèn (Stentor), G. Trùng miệng xoắn (Spirostomum) Trùng cỏ  có màng uốn xoắn (Polyhymenophora), màng uốn là màng xoắn  quanh bào khẩu, được coi là kết quả tăng bội số lượng của màng uốn 4 tấm của  Tetrahymena. Ngoài màng uốn còn có lông bơi trên bề  mặt cơ  thể, hoặc kết   7
  8. thành các gai nhảy  ở mặt bụng. Đại diện: trùng kèn (Stentor), trùng miệng xoắn  (Spirostomum) sống tự do; Nyctotherus ký sinh trong ruột ếch, Balantidium coli ký  sinh trong ruột người, gây đi ngoài; trùng nhảy (Stylonichia) và khoảng 800 loài  trong họ Tintinnoidea sống ở biển và có vỏ hình chóp. 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA NHÓM ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH  TRÙNG CỎ Trùng đế giày (còn gọi là Paramecium, trùng cỏ, trùng giày hay thảo trùng)  là đại diện của lớp trùng cỏ  hay trùng tơ  (Infusoria). Tế  bào trùng đế  giày đã  phân hóa thành nhiều bộ  phận. Mỗi bộ  phận đảm nhiệm một chức năng sống  nhất định. Trùng tơ  có tổ  chức hoàn thiện nhất trong động vật nguyên sinh, có  những cơ  quan tử  hoàn thành những quá trình sống đặc biệt. Theo các kết quả  thực nghiệm thì các cơ quan tử đó tương ứng với các hệ cơ  quan ở động vật đa  bào. A B 8
  9. Hình 2.1. Trùng đế giày (Nguồn: Google) A. Sơ đồ cấu tạo; B. Ảnh nhìn qua kính hiển vi Cơ  thể chúng hình thoi, không đối xứng nhưng tiết diện ngang tròn. Đầu   trước tròn, đầu sau kéo dài và hơi nhọn. Nhìn nghiêng, cơ thể chúng có hình một  chiếc giày. Thân trùng tơ  giày, một đầu tù lúc chuyển vận đi trước gọi là phần  trước, phần sau nhọn hơn. Mặt ngoài có màng pelicun đàn hồi, có nhiều tơ mảnh  xếp thành dãy theo chiều dọc. Dưới màng pelicun có lớp ngoại sinh chất mỏng   và quánh, lớp trong có nhiều hại và lỏng hơn gọi là nội sinh chất. Hệ thống màng ở chúng có cấu trúc phức tạp gồm 2 lớp màng: Lớp màng  ngoài (plasmalemma) và lớp màng trong. Hai lớp này tiếp xúc với nhau ở gốc lông  bơi và phần đỉnh của bao chích. Phần còn lại tạo thành khoảng trống bao quanh  gốc lông bơi. Màng cơ thể vừa chắc chắn, vừa mềm dẻo giữ cho cơ thể con vật   vừa có hình thái ổn định vừa giúp cơn vật biến dạng nhất thời khi len lỏi qua khe   hẹp hay giúp chúng điều chỉnh lượng nước và các ion của cơ thể. Ở mặt bên phía trước cơ thể xuất hiện một rãnh sâu và dài (chiếm tới 2/3   cơ thể) làm nhiệm vụ dinh dưỡng gọi là rãnh miệng. Phía cơ thể có rãnh miệng  được gọi là mặt bụng. Trùng giày cũng như  trùng biến hình có sự  phân hóa của   chất nguyên sinh. Nội chất ở bên trong và có hiện tượng chuyển động vòng tròn.   Trong nội sinh chất có nhiều không bào tiêu hóa, phía trước có không bào co bóp.  Thức ăn (gồm vi khuẩn, vụn hữu cơ…) được lông bơi dồn về lỗ miệng. Thức ăn   qua miệng và hầu được vo thành viên trong không bào tiêu hóa. Sau đó không bào   tiêu hóa dời hầu di chuyển trong cơ thể theo một quỹ đạo nhất định. Enzym tiêu   hóa biến thức ăn thành chất lỏng thấm vào chất nguyên sinh nuôi cơ thể.  Bộ  máy di chuyển và lông bơi: Lông bơi có cấu tạo như  roi bơi nhưng   ngắn hơn và nhiều hơn (với mỗi trùng giày có khoảng một vạn lông bơi). Khi  hoạt động, lông bơi quạt nước như  các mái chèo  ở  trên một mặt phẳng. Chúng  hoạt động không cùng nhịp mà kế tiếp nhau tạo nên từng đợt song. Do lông bơi   mọc thành hàng dọc hơi xoắn theo trục cơ thể  nên khi hoạt động, cơ  thể  trùng   giày vừa tiến về phía trước, vừa xoay quanh mình nó. Trung giày có lông bơi bao  9
  10. phủ  đồng đều khắp cơ thể. Riêng ở  rãnh miệng, lông bơi có khuynh hướng liên  kết lại thành màng bơi để  tăng hiệu quả  của việc bắt mồi. Lông bơi vùng đuôi  còn dài hơn để tham gia vào vận chuyển như một bánh lái. Cơ quan tử bài tiết là không bào co bóp có cấu tạo phức tạp. Lỗ thải của   không bào co bóp tồn tại thường xuyên, được xác định bằng hệ  vi  ống. Không   bào co bóp có nhiều rãnh, có bao trung tâm, nhịp điệu co bóp phụ thuộc vào nồng  độ muối và nhiệt độ. Phần giữa cơ thể là bộ  nhân gồm nhân lớn (macronucleus) làm nhiệm vụ  dinh dưỡng, giàu DNA nơi các RNA thông tin được tổng hợp trên khuôn DNA rồi   vào tế bào chất để sinh tổng hợp protein trên ti thể. Nhân nhỏ (micronucleus) làm   nhiệm vụ sinh sản, có nhiễm sắc thể nhân đôi trước mỗi lần nguyên phân. Như  vậy so với động vật nguyên sinh khác thì số  lượng cơ  quan tử  của   trùng cỏ lớn, lập thành hệ thống, người ta gọi là sự nhảy vọt về mức độ “trên tế  bào”. 10
  11. 3. ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN CỦA NHÓM ĐỘNG VẬT NGUYÊN SINH  TRÙNG CỎ Phần lớn động vật nguyên sinh sinh sản vô tính. Tuy nhiên chúng còn có  thể sinh sản hữu tính. Sinh sản vô tính theo kiểu phân đôi (binary) hoặc liệt phân  (schizogony), nhân nguyên phân nhiều lần trước khi tế bào chất phân chia để cho  một lúc nhiều cá thể  mới. Một số  còn sinh sản bằng cách mọc chồi như  trùng  chuông.  Trong sinh sản vô tính tế  bào mẹ  nguyên phân để  cho tế  bào con. Tuy   nhiên ở động vật nguyên sinh không hoàn toàn giống với động vật đa bào, màng   nhân vẫn tồn tại trong suốt quá trình phân chia và thoi vô nhiễm được hình thành   trong màng nhân. Ở động vật nguyên sinh trùng cỏ có hai cách sinh sản là sinh sản vô tính và  sinh sản hữu tính. 11
  12. Trùng giày sinh sản vô tính bằng cách phân đôi theo chiều ngang cơ  thể.   Nhân nhỏ phân chia thành hai nhân mới, mỗi nhân mới đi về một cực của tế bào,   còn nhân lớn phân chia trực tiếp (trực phân), bào hầu thứ  hai hình thành, hai   không bào co bóp mới xuất hiện, rồi một rãnh ngang chia tế  bào chất thành hai  phần.   Hình 3.1. Phân đôi ở trùng giày (Nguồn: Google) Ảnh nhìn qua kính hiển vi 12
  13. Trùng tơ phân thành Hai cá thể bằng nhau, mỗi cá thể có đủ các bào quan.  Nếu cơ thể nào thiếu cơ  quan tử  nào đó thì sẽ  hình thành sau. Chúng sẽ  lớn đủ  cỡ trước lúc phân chia lần tiếp theo. Thời gian phân chia thay đổi từ 1­3 lần trong   ngày. Sinh sản hữu tính thường bổ  sung cho sinh sản vô tính khi môi trường  sống trở nên bất lợi. Hiện tượng phân tính có thể ở  mức tế bào, tạo các giao tử  (gamete) phân tính hoặc ở mức nhân, tạo ra các tiền nhân (pronucleus) phân tính.  Ở mức tế bào, hai loại giao tử có thể giống nhau hoặc khác nhau về hình thái và  khả năng di động. Tùy theo mức độ khác nhau giữa hai loại giao tử ta có sinh sản   hứu tính đẳng giao (isogamy), dị giao (heterrogamy hoặc anisogamy) và noãn giao  (oogamy). Các giao tử khác tính sau khi thụ tinh sẽ cho hợp tử (zygote). Ở  trùng giày Paramecium caudatum cứ  sau khoảng 50 thế hệ sinh sản vô   tính lại có một lần tiếp hợp. Nhịp độ xen kẽ đó đảm bảo phát triển bình thường   của quần thể. Nếu chỉ có sinh sản vô tính, từ  thế  hệ  thứ  600, trùng giày không  còn nhận biết được bạn ghép đôi của mình nữa, do thiếu các phân tử protein đặc  hiệu vốn tập trung  ở  quanh bào hầu, và cái chết sớm muộn cũng xảy ra trong  khoảng 100 thế hệ sinh sản vô tính tiếp theo. 13
  14. Hình 3.3. Sự tiếp hợp ở trùng giày (Nguồn: Google) Hình 3.4. Chu kỳ sống của trùng giày (Nguồn: Google) Sinh sản hữu tính  ở  trùng cỏ  là hình thức sinh sản nguyên thủy – sự  tiếp   hợp. Đó là hiện tượng xen kẽ trao đổi nhân nhỏ giữa hai cá thể. Hai cá thể trùng  giày tiến lại và áp mặt bụng vào nhau tạo thành một cầu nối nguyên sinh chất.   Cả  hai cùng bơi trong cả quá trình này, trong mỗi cá thể  bộ  nhân có nhiều biến   đổi. Nhân lớn  tan biến dần và phân tán trong tế bào chất. Nhân nhỏ phân chia hai   lần liên tiếp tạo ra bốn tiền nhân, 3 tiền nhân tiêu biến, một tiền nhân còn lại ở  mỗi cá thể sẽ phân chia cho ra một tiền nhân định cư  và một tiền nhân di động.   Sau khi trao đổi tiền nhân di động, hai tiền nhân bắt nguồn từ hai cá thể ghép đôi   14
  15. sẽ  phối hợp để  hình thành nhân kết hợp. Nhân kết hợp sẽ nguyên phân cho ra 4  nhân bé và 4 nhân lớn rồi sinh sản vô tính phân đôi mãnh liệt hơn để cho ra bốn  cá thể  mới. Có trường hợp hiện tượng biến đổi nhân tương tự  không gắn với  ghép đôi, mà hai nhân phân tính mới hình thành được phối hợp lại ngay trong cá   thể đó. Hiện tượng này gọi là nội hợp. Qúa trình tiếp hợp xảy ra có thể  kéo dài  tới 12 giờ ở điều kiện 160C. KẾT LUẬN Động vật nguyên sinh trùng cỏ  có cấu tạo đơn giản nhưng số  lượng cơ  quan tử lớn, lập thành một hệ thống. Sinh sản bao gồm hai hình thức là sinh sản  vô tính và sinh sản hữu tính. Các cá thể tham gia tiếp hợp là từ các dòng ghép đôi  khác nhau trong phạm vi các nhóm đồng gen (các cá thể đồng gen có thể được coi  là một loài độc lập). Hiện tượng tái tổ hợp bộ nhân xảy ra trong mỗi cơ thể riêng  15
  16. biệt (không có sự ghép đôi) và được coi là hiện tượng nội hợp. Tất cả đều có thể  xem như là sự thụ tinh của động vật. Kết quả là hình thanh hai cơ thể mới phong  phú về DNA, thống nhất được tính di truyền của bố  mẹ, có tác dụng như  hiện   tượng “cải lão hoàn đồng”. Tái tạo bộ nhân là một yêu cầu không thể thiếu được   của quần thể trùng lông bơi. Sự tiếp hợp có tác dụng trao đổi vật chất di truyền  giữa hai cá thể do đó làm tăng cường sức sống cho trùng cỏ  và được coi là hình   thức thụ tinh đơn giản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thái Trần Bái (chủ  biên), Nguyễn Văn Khang,  Động vật học không xương   sống, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2009. 16
  17. 2. //timhieusinhhoc2.wordpress.com/2014/10/11/47/ 3. Trần Tố  (chủ  biên), Đỗ  Quyết Thắng,   Giáo trình Động vật học, Nxb Nông  nghiệp, Hà Nội, 2006. 4. //vi.wikipedia.org/wiki/Trùng_đế_giày 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2