intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Phân tầng xã hội

Chia sẻ: Dsczx Dsczx | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

1.318
lượt xem
93
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Phân tầng xã hội nhằm phân tích những nét cơ bản về đổi mới, tăng trưởng kinh tế và phân tầng xã hội, nghiên cứu về vấn đề này cho chúng ta thấy bức tranh tổng thể về sự phân tầng xã hội ở Việt Nam cũng như các yếu tố có liên quan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Phân tầng xã hội

  1. Tiểu luận Phân tầng xã hội
  2. Công cuộc đổi mới gần 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện mạo đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sản phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định cùng với việc nâng cao mức sống của hầu hết các tầng lớp dân cư. Nhưng bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh ra không ít những hệ quả xã hội mà chúng ta đang phải tập trung giải quyết. Một trong các hệ quả như vậy là sự phân tầng xã hội, sự phân hóa giàu nghèo. Trong đề tài này chúng tôi sẽ phân tích những nét cơ bản về đổi mới, tăng trưởng kinh tế và phân tầng xã hội. Nghiên cứu về vấn đề này cho chúng ta thấy bức tranh tổng thể về sự phân tầng xã hội ở Việt Nam cũng như các yếu tố có liên quan. Qua đó, góp phần định hướng các mục tiêu và chiến lược giảm bất bình đẳng xã hội. I. ĐỊNH NGHĨA VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI 1. Khái niệm phân tầng xã hội: Phân tầng xã hôi là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Tuy nhiên ở nước ta khái niệm này mới chỉ được đề cập và nghiên cứu trong thời gian cách đây không lâu. a. Khái niệm tầng xã hội: Tầng xã hôi là tổng thể , tập hợp các cá nhân có cùng một hoàn cảnh xã hội , họ giống nhau hay bẳng nhau về địa vị kinh tế, chính trị, xã hội về khả năng thăng tiến cũng như giành được những ân huệ hay vị trí xã hội. b. Phân tầng xã hội: Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân tầng: Quan niệm của M.Weber:
  3. M.Weber là nhà xã hội học người Đức, ông là người đầu tiên nói đến khái niệm phân tầng. Ông đã đưa ra nguyên tắc tiếp cận ba chiều đối với vấn đề phân tầng, coi khái niệm phân tầng xã hội bao gồm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ba chiều cạnh đó là địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín). Theo Weber, tài sản, quyền lực và uy tín có thể độc lập với nhau song trong thực tế chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau hoặc củng cố chi phối lẫn nhau. Quan niệm của T. Parsons: T. Parsons (nhà xã hội học người Mỹ) coi phân tầng xã hội là sự sắp sếp các cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở phân chia những nghạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị, phân tầng là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã hội và sự phân hóa của những nhóm xã hội khác nhau. Nó là kết quả tác động của một hệ thống các giá trị trong xã hội, những tiêu chuẩn văn hóa xã hội phổ biến đang thống trị trong xã hội, nhưng giá trị tiêu chuẩn này xác định ý nghĩa của những hoạt động khác nhau, hình thành nên sự bất bình đẳng xã hội, mà sự bất bình đẳng này được thể hiện trong các dạng thức hoạt động và phân phối vật chất, tài sản. Cũng như các nhà chức năng luận khác, T.Parsons coi phân tầng xã hội là phương tiện cần thiết cho mọi hoạt động trong xã hội và là vật kích thích những cách thức hoạt động khác nhau của cá nhân và nhóm xã hội khác nhau. Ông đã đưa ra 3 tiêu chuẩn để nhận diện phân tầng xã hội: Một là, tư cách phẩm chất tức là ấn định cho những cá nhân những đặc tính và những nhiệm vụ nhất định. Ví dụ: tinh thần trách nhiệm, uy tín, sự thành thạo trong công việc... Hai là sự chấp hành nghĩa là sự đánh giá hoạt động của các cá nhân trong quan hệ so sánh với những hoạt động của những người khác.
  4. Ba là sự chiếm hữu các giá trị vật chất, tài năng, trình độ nghề nghiệp, tiềm năng văn hóa. Ông cho rằng cần đánh giá một cách tổng hợp ba tiêu chuẩn chung về giá trị của chuẩn mực xã hội. Quan niệm của Tonny Billton Theo Tonny Billton (nhà xã hội học người Mỹ) cho rằng xã hội được chia thành một cấu trúc theo khuôn mẫu của những nhóm xã hội không bình đẳng và lưu truyền bền vững từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Phân tầng xã hội là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định giữa các nhóm xã hội và được duy trì bền vững qua các thế hệ”. Ông cũng đồng thời chỉ ra những điều kiện dẫn đến sự phân phối lợi ích không đồng đều giữa các thành viên và các nhóm xã hội: Một là, những cơ hội trong cuộc sống bao gồm những thuận lợi vật chất, của cải và thu nhập, những lợi ích trong chăm sóc sức khỏe và an toàn công việc. Hai là, địa vị xã hội tức là uy tín hay vị trí do quan niệm và sự đánh giá của các thành viên khác trong xã hội. Ba là, ảnh hưởng chính trị, tức là khả năng của một nhóm xã hội này thống trị những nhóm xã hội khác, hay việc ra quyết định, cũng như viêc thu được nguồn lợi từ các quyết định. Theo B.Berber: “Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng được điều tiết về cấu trúc, trong đó mọi người được xếp lớp theo thứ bậc từ đỉnh xuống đáy tương ứng với giá trị và ý nghĩa xã hội của các vai trò xã hội và các dạng hoạt động khác nhau”.
  5. Theo A.Giddens: “Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội thành các tầng lớp, khi nói về sự phân tầng là nói tới bất bình đẳng giữa các địa vị, vị trí của các cá nhân trong xã hội”. Theo H.P. Caroline: “Phân tầng xã hội là sự sắp xếp loại một cách ổn định các vị trí trong cơ cấu xã hội dưới góc độ quyền lực hoặc đặc quyển, đặc lợi không ngang bằng nhau”. Theo I. Robersons: “Phân tầng xã hội là bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các xã hội loài người; là sự khác nhau về khả năng thăng tiến xã hội bởi địa vị của họ trong thang bậc xã hội”. Theo N. Smelser (nhà xã hội học người Mỹ) cho rằng: Phân tầng xã hội gắn với những biện pháp mà nhớ nó, sự bất bình đẳng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong đó hình thành nên những tầng lớp khác nhau trong xã hội. Quan niệm của Trung tâm xã hôi học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm như sau1 : Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của mọi xã hội loài người, trừ những tổ chức xã hội sơ khai. Phân tầng xã hội là sự phân chia, sắp xếp và hình thành cấu trúc gồm các tầng xã hội. Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín cũng như khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp... Với quan điểm trên chúng ta có thể hiểu phân tầng xã hội theo ba đặc trưng sau: 1 Nguyễn Đình Tấn. Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Nxb. Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 1999
  6. Thứ nhất, phân tầng xã hội là sự phân hóa, sự sắp xếp các cá nhân thành những tầng lớp, các thang bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội (trong hệ thống phân chia thành những tầng lớp cao và những tầng lớp thấp...) Thứ hai, phân tầng xã hội luôn gắn bất bình đẳng xã hội và sự phân công lao động trong xã hội Thứ ba, phân tầng thường được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, song không phải là bất biến mà có những thay đổi nhất định. 2. Các hệ thống phân tầng xã hội trong lịch sử: Phân tầng là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm và được thể hiện đa dạng ở các quốc gia khác nhau, giai đoạn lịch sử khác nhau và nền văn hóa khác nhau. Dựa vào tính cơ động của mỗi xã hội và kiểu xã hội chúng ta có thể chỉ ra hai hệ thống phân tầng điển hình nhất: hệ thống phân tầng “đóng”- phân tầng trong xã hội có đẳng cấp và hệ thống phân tầng “mở”- phân tầng trong xã hội có giai cấp. a. Hệ thống phân tầng “đóng” trong hệ thống phân tầng này, ranh giới giữa các tầng xã hội hết sức rõ rệt và được duy trì một cách nghiêm ngặt, địa vị của mỗi người bị ấn định ngay từ đầu, bị quy định ngay từ lúc mới sinh bởi nguồn gốc, dòng dõi của cha mẹ mình. Trong xã hội đẳng cấp, duy trì “nội giao” và cấm các thành viên thuộc các đẳng cấp khác nhau kết hôn với nhau. Trong hệ thống phân tầng “đóng” trừ một số bước tiến ngắn trong nội bộ các đẳng cấp( ví dụ các quý tộc, tăng lữ) còn tuyệt đại đa số người còn lại sinh ra từ đẳng cấp nào thì cứ suốt đời ở trong đẳng cấp của mình. Địa vị đẳng cấp dường như được coi là địa vị “tự nhiên” tức lạ địa vị được “gán” cho con người mà không ai có thể lựa chọn hoặc tự kiểm soát được. Hệ
  7. thống này điển hình nhất trước đây ở Ấn Độ và Nam Phi. Cho tới nay còn có thể tìm thấy ở một số vùng biệt lập tại Bắc Phi, Trung Đông, châu Á. b. Hệ thống phân tầng “ mở” Đặc trưng của hệ thống phân tầng này là địa vị của con người chủ yếu phụ thuộc vào địa vị của họ trong hệ thống kinh tế. Trong hệ thống phân tầng này, ranh giới giữa các tầng không quá cứng nhắc và cách biệt như trong xã hội có đẳng cấp mà mềm dẻo, uyển chuyển hơn. Một người từ tầng lớp thấp có thể chuyển lên vị trí của một tầng xã hội cao hơn. Trong một chừng mực nhất định, vị thế xã hội mà người ta đạt được là do nỗ lực chủ quan( khả năng, ý chí, cơ may) chứ không phải là vị thế tự nhiên trong xã hội đẳng cấp. Đặc trưng của các xã hội hiện đại là hệ thống phân tầng “ mở” tức là hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp mặc dù chúng có sự khác biệt từ xã hội này sang xã hội khác. Trong xã hội nông nghiệp thường có hai giai cấp chủ yếu là các chủ đất và nông dân. Trong xã hội công nghiệp thì sự phân chia có sự phức tạp hơn, ngoài sự phân chia giai cấp còn phân chia thành các tầng lớp xã hội khác nhau. Theo I.Robertsons, xã hội phương Tây hiện nay có thể phân làm 6 tầng lớp mà theo cách gọi của ông là 6 giai cấp: Giai cấp thượng lưu - tầng lớp quý tộc theo dòng dõi, là những nhà tư bản lớn, những tỷ phú nhiều đời, có quyền lực và uy tín lớn trong xã hội. Giai cấp thượng lưu tầng lớp dưới - những người có tiền, là những người buôn bán bất động sản, các ông trùm hãng thức ăn nhanh, hãng máy tính... Giai cấp thượng lưu trên, gồm những gia đình thương gia và các doanh nghiệp
  8. Giai cấp trung lưu tầng lớp dưới, gồm những người có thu nhập trung bình và công việc của họ không phải là lao động chân tay. Đó là những thương nhân cỡ nhỏ, đại lý buôn bán... Giai cấp lao động, bao gồm số đông những người da màu, được đào tạo ít hơn so với giai cấp trung lưu và thượng lưu. Đó là những công nhân “cổ cồn xanh”- những người bán hàng, nhân viên phục vụ....Đặc trưng của họ là lao động chân tay, hầu như không có uy tín và thường thiếu các khoản phúc lợi xã hội. Giai cấp hạ lưu, bao gồm những người nghèo “không đáng kính trọng”. Họ sống trong những ngôi nhà tồi tàn ở ngoại ô hay những vùng nông thôn nghèo khổ. Giai cấp này gồm những người thất nghiệp kinh niên, vô gia cư, vô nghề nghiệp. Họ là những người bị xã hội khinh rẻ và mất “giá” trên thị trường lao động, họ thực sự không có quyền gì trong xã hội. Phân tầng xã hội trong xã hội có giai cấp được thể hiện khá đa dạng ở các quốc gia khác nhau và các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản, những đặc trưng chung nhất của phân tầng xã hội vẫn không thay đổi. Đó là xã hội phân chia thành hai phe lớn: những người giàu bóc lột và những người nghèo bị bóc lột. 4. Các tháp phân tầng: a. Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội, nhóm người giàu, có quyền lực (phần đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp; trong khi đa số là nghèo khổ. b.Tháp phân tầng xã hội hình thoi: trong tháp này nhóm xã hội giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ và nằm ở hai đầu của hình quả trám. Nhóm xã hội trung lưu nằm ở giữa. Loại tháp này có tiến bộ hơn soi với tháp phân tầng hình chóp. Tuy nhiên, khoảng cách của 2 nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa.
  9. c. Tháp phân tầng xã hội hình quả trứng: tầng lớp trung lưu chiếm đa số nằm ở giữa hình quả trứng, bất bình đẳng xã hội vẫn còn tồn tại. Trong xã hội vẫn còn người giàu người nghèo song không có những người quá nghèo hoặc không có tình trạng một ít người nắm tuyệt đại bộ phận tài sản trong xã hội. d. Tháp phân tầng xã hội hình giọt nước: đây là loại tháp phân tầng của một số nước phát triển trên thế giới như kiểu các nước Đông Âu trước đây. Trong tháp này thì khoảng cách giàu nghèo vẫn còn song không đáng kể. Tuyệt đại đa số thành viên trong xã hội thuộc nhóm xã hội này có mức sống trung bình và khá. đ. Tháp hình “đĩa bay” (thấp dẹt): có thể có 2 trạng thái là bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân, với tuyệt đại bộ phận các thành viên của xã hội có mức sống trung lưu và khá giả (xã hội trung lưu). 5. Một số lý thuyết về phân tầng xã hội: a. Lý thuyết chức năng: Phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị địa vị; là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã hội và sự phân hoá của các nhóm xã hội khác nhau. Nó gắn liền với những biện pháp mà nhờ đó, sự bất bình đẳng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đó hình thành nên những tầng lớp khác nhau trong xã hội. Thuyết này khẳng định, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là những nét thường trực tất yếu và không thể tránh khỏi trong xã hội loài người. Hiện tượng này tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục tồn tại như một nét nổi bật trong xã hội hiện tại và tương lai.
  10. Những nhà xã hội học theo thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội tồn tại vì nó thực hiện một chức năng cần thiết và tích cực trong xã hội. Sự bất bình đẳng là một di sản mà nhờ vào đó, xã hội đảm bảo những địa vị quan trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý thức. Trên cơ sở đó, dẫn tới sự khác nhau về mặt uy tín, thu nhập, khả năng thăng tiến của các cá nhân trong xã hội và xã hội phải thiết chế hoá một số yếu tố của bất bình đẳng. Tức là, trong một xã hội, có những địa vị khác nhau thực hiện những chức năng nhất định. Mức độ quan trọng của các địa vị là khác nhau tuỳ thuộc vào chức năng của nó. Có những địa vị đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có những kỹ năng đặc biệt mà chỉ có một số ít người thực hiện được. Do vậy, những người thực hiện được địa vị cao là không nhiều, họ phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nhất định để có những kỹ năng chuyên môn cần thiết. Từ đó, phải có hệ thống phần thưởng bất bình đẳng gắn với một tổ chức ngạch bậc những địa vị xã hội, tuỳ theo mức độ quan trọng của nó và tương xứng với tài năng, công sức, và chi phí học tập để có kỹ năng cần thiết. Với cách giải thích như vậy, lý thuyết này được coi là lý thuyết hợp thức hoá và bảo vệ sự phân tầng và bất bình đẳng trong xã hội. Đồng thời, thuyết này cũng có những hạn chế nhất định khi chỉ dựa vào tiêu chí giá trị địa vị xã hội, gạt bỏ những yếu tố khác như kinh tế, chính trị trong quá trình phân tầng xã hội. b. Lý thuyết xung đột: Với những nhà xã hội học theo thuyết xung đột thì phân tầng xã hội liên quan trực tiếp tới bất bình đẳng giai cấp. Do sự mâu thuẫn, xung đột, tranh giành quyền thống trị giữa các giai cấp mà sinh ra bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
  11. Tức là, bất bình đẳng và phân tầng xã hội tồn tại do phần lớn đời sống của chúng ta nằm trong những mối quan hệ quyền lực đã được thiết chế hoá và chúng ta bị phụ thuộc trong đó. Những nhóm xã hội được ưu đãi có khả năng giữ một hệ thống các giá trị thống trị để duy trì cơ cấu xã hội có lợi cho họ và là bất bình đẳng với các giai cấp khác. Những người theo thuyết này chủ yếu dựa vào yếu tố chính trị để phân tích về phân tầng xã hội. c. Lý thuyết dung hoà: Theo Lenski: Trong xã hội, luôn có những động cơ thôi thúc người ta chiếm giữ các vị trí xã hội, đồng thời, cũng diễn ra các quá trình mâu thuẫn, xung đột và tranh giành quyền thống trị, từ đó sinh ra bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội. Theo Max Weber, phân tầng xã hội không chỉ dựa vào giá trị địa vị xã hội, cũng như quan hệ kinh tế không phải là yếu tố đầu tiên và chủ yếu để giải thích ( như Marx), đó chỉ là cách giải thích một chiều, trong khi sự vận động, biến đổi xã hội là rất rộng lớn và phức tạp. Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc ba chiều về phân tầng xã hội. Bên cạnh việc thừa nhận yếu tố kinh tế, ông cho rằng phân tầng và bất bình đẳng xã hội có thể dựa trên yếu tố quyền lực và uy tín xã hội của các cá nhân. Như vậy, phân tầng xã hội tồn tại bắt nguồn từ 3 yếu tố: địa vị kinh tế (của cải, tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín). Nhưng trong 3 yếu tố này, mặc dù về lý thuyết, Weber không tuyệt đối hoá yếu tố nào, nhưng qua các lập luận và giải thích thì ông đề cao yếu tố địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, bất bình đẳng có thể không dựa trên quan hệ kinh tế, nhưng dựa trên uy tín và quyền lực chính trị được huy động qua một đảng. Đồng thời, địa vị và quyền lực chính trị có thể được hình thành từ quyền lực kinh tế nhưng không
  12. phải là tất yếu, ngược lại, quyền lực kinh tế có thể có từ quyền lực chính trị và địa vị xã hội. Xét riêng về quyền lực kinh tế, nếu Marx đề cao quyền sở hữu tư liệu sản xuất - là yếu tố chủ yếu hình thành giai cấp và bất bình đẳng trong xã hội tư bản thì Max Weber lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thị trường (khả năng chiếm lĩnh thị trường của người lao động) và coi đây là nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản. Thị trường kỹ năng gắn liền với cơ may đời sống của người lao động tạo ra hoàn cảnh giai cấp của các nhóm xã hội. Những người có khả năng thị trường tương tự và do đó, có cơ may đời sống tương tự hợp thành giai cấp nhất định. d. Lý thuyết của Marx về phân tầng xã hội: Marx phân tích phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội. Ông cho rằng, phân tầng xã hội là do quyết định của nhân tố kinh tế (quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về ai). Do vậy, có thể phân chia các tầng lớp trong xã hội tư bản thành giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên cơ sở mối quan hệ của họ với tư liệu sản xuất. Theo Marx, mối lợi kinh tế, quyền lực chính trị, uy tín xã hội đều bắt nguồn từ cấu trúc giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển trong xã hội . Đồng thời, đấu tranh giai cấp sẽ tạo ra những điều kiện xoá bỏ giai cấp cũng như các nguyên nhân tạo nên bất bình đẳng và phân tầng xã hội. Tóm lại, theo Weber, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc các nhóm người vào những vị trí xác định, liên quan đến của cải (tài sản), quyền lực chính trị, uy tín xã hội. Hệ thống này là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định bền vững qua các thế hệ.
  13. e. Quan điểm của các nhà xã hội học Việt Nam: Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, tổng hợp các quan điểm trên, các nhà xã hội học Việt Nam cũng đưa ra quan điểm riêng của mình và cho rằng trong xã hội, phân tầng xã hội tồn tại là do 2 nguyên nhân chủ yếu: - Do có sự tồn tại một cách tự nhiên, phổ biến của hiện tượng bất bình đẳng về mặt năng lực, thể chất, trí tuệ, điều kiện, cơ may giữa các thành viên trong xã hội. - Do sự phân công lao động xã hội, bao gồm cả sự phân công về lao động nghề nghiệp và sự phân công về những vị thế xã hội chiếm ưu thế. Trên đây là một số quan điểm về phân tầng xã hội. Mỗi quan điểm có một lập luận riêng khi đề cập đến phân tầng xã hội, trong đó có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Ví như thuyết chức năng, lập luận của nó mắc phải tính tư biện, thiếu khách quan trong việc xác định giá trị của các địa vị xã hội, đồng thời, cách giải thích khiến người ta có thái độ bi quan về số ít người tài năng đảm nhiệm các địa vị xã hội quan trọng, từ đó, ngăn cản, huỷ hoại sự phát triển của tài năng xã hội và bênh vực đặc quyền của một số ít người được chu cấp đầy đủ các điều kiện giáo dục để phát triển tài năng. Hay như lập luận của Max Weber khi nhấn mạnh rằng, nguồn gốc của bất bình đẳng là cơ may của thị trường lao động (quan hệ giai cấp được quy về quan hệ thị trường và sự cạnh tranh việc làm giữa các cá nhân và người lao động), ông đã không thấy được sự cách biệt cố hữu trong quan hệ sản xuất giữa ông chủ và người làm thuê, giữa sức sản xuất xã hội rộng lớn với quyền lực sở hữu tư liệu sản xuất xã hội trong tay nhóm người ít ỏi. Từ đó, xoá nhoà ranh giới giai cấp và thủ tiêu đấu tranh giai cấp.....Còn quan điểm của Marx về bất bình đẳng và phân tầng xã hội là quan điểm rõ ràng nhất về bất bình đẳng và căn nguyên cuối cùng của nó. Tuy nhiên, khi đánh giá về bất bình đẳng và phân tầng
  14. xã hội, chúng ta không nên tuyệt đối hoá một lý thuyết nào đó mà phải biết kết hợp những điểm hợp lý để có thể giải quyết vấn đề này trong các xã hội có giai cấp. Tóm lại, phân tầng xã hội phản ánh bất bình đẳng xã hội và liên hệ mật thiết tới các cơ may, vận hội trong cuộc đời của các cá nhân và nhóm xã hội. II. ĐỔI MỚI VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tích đầy ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo.Điều này không chỉ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng kém phát triển, mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác như giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xóa đói giảm nghèo...Về cơ bản, những thành tựu tăng trưởng đã đến được với đại bộ phận người dân, thể hiện ở mức tăng rõ rệt về thu nhập và tiêu dùng của tất cả các nhóm dân cư trong thời gian qua. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đang bộc lộ ngày càng rõ những lo ngại về chất lượng và sự bền vững của quá trình tăng trưởng, xét cả về trung hạn và dài hạn. 1. Những mặt tích cực của nền kinh tế trong quá trình đổi mới Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, từ Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng, Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới một cách khách quan, xác định các xu thế phát triển tất yếu của thế giới và đã thực hiện bước chuyển đổi quan trọng cả về lý luận và thực tiễn: xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. 1.1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
  15. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất. 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm. Năm 2000-2005: nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
  16. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của 2 Việt Nam. Năm Tốc độ tăng GDP/người(USD) trưởng 2000 6,79 319 2001 6,84 413 2002 7,20 440 2003 7,26 492 2004 7,70 552 2005 8.43 636 2006 8,17 723 2007 8,50 835 2008 6,23 994 2009 5,32 1.134 2010 6,78 1.168 Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ 2 Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
  17. USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD3 . 1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường. Cơ cấu để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó, khi coi nền kinh tế quốc dân như một hệ thống với nhiều bộ phận cấu thành và các kiểu cơ cấu hợp thành chúng. Theo thời gian khi nền kinh tế vận động tăng trưởng thì các bộ phận và các kiểu cơ cấu của nó cũng thay đổi. Do đó, cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể những mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận cấu thành đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định4 . Mối quan hệ về số lượng giữa các bộ phận cấu thành có thể biểu hiện qua tỷ trọng của mỗi ngành trong GDP xét theo đầu ra qua đó ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ số lượng còn thể hiện ở tỷ trọng trong tổng lao động hay tổng vốn của nền kinh tế tại một thời điểm nào đó. Nếu xem xét theo thời gian và trong mối quan hệ giữa các yếu tố đó sẽ phản ánh mối quan hệ về chất lượng mà thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu. Về cơ cấu ngành kinh tế: 3 Tổng cục Thống kê, Số liệu thông kê Việt Nam thế kỷ XX, Tập 1, 2, Nxb T hống kê, Hà Nội, 2004. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2010, Nxb T hống kê, Hà Nội, 2011. 4 Vũ Tuấn Anh, Một số vấn đề lý luận về cơ cấu nền kinh tế quốc dân, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 2/2982.
  18. Biểu 1: Cơ cấu kinh tế Việt Nam theo ngành kinh tế (đơn vị:%) 5 Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1990 là 38.1%, năm 2000 còn 24.5%, năm 2010 còn 20.6%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1990 là 22.7%, năm 2000 lên 36.7% và năm 2010 là 41,1%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại. 5 Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2011.
  19. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 38.6% năm 1990 lên 38.7% năm 2000 và tăng lên 38,32% năm 2010. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. 1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế ngoài nhà nước (kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể) đóng góp khoảng 45,61% GDP của cả nước. Đến năm 2010, tỷ lệ này tăng lên 47,54%. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, từ 15,99% năm 2005 tăng lên 18,72% năm 2010. Khu vực kinh tế này đang trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân. 1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, k inh tế vĩ mô cơ bản ổn định Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
  20. bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)... Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. 1.5. Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt. Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao. Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 1168 USD năm 2010. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2