intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán: Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng theo quy định theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

56
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán với chủ đề là tìm hiểu pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, từ đó đưa ra đánh giá pháp lý về vấn đề này. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán: Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng theo quy định theo pháp luật Việt Nam hiện nay

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG ­ XàHỘI KHOA LUẬT TIỂU LUẬN HỌC PHẦN PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ  TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Lớp tín chỉ: D15LK01 HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021­2022 TÊN CHỦ ĐỀ: Tìm hiểu pháp luật về chào bán chứng khoán riêng  lẻ của công ty đại chúng, từ đó đưa ra đánh giá pháp lý về vấn đề  này. TÊN ĐỀ TÀI: Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty  đại chúng theo quy định theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thanh Tân Ngày/tháng/năm sinh: 13/08/2001 Lớp niên chế: D15LK03 Họ và tên giảng viên: Nguyễn Thu Trang HÀ NỘI – 06/2022
  2. MỞ ĐẦU Tại Việt Nam thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động năm  2000, mở đầu bằng sự kiện khai trương hoạt động của Trung Tâm giao dịch   chứng khoán thành phố  Hồ  Chí Minh. Từ đó tới nay, thị trường chứng khoán  đã phát triển không ngừng và đạt được nhiều thành tựu to lớn, trở thành kênh  huy động vốn trung và dài hạn của nền kinh tế. Một trong những kênh huy  động vốn quan trọng và chủ yếu đang rất được quan tâm hiện nay là chào bán  chứng khoán của các công ty đại chúng cũng như các doanh nghiệp nói chung.   Trong đó, chào bán chứng khoán riêng lẻ  đang là phương thức huy động vốn  hữu hiệu do không bị  ràng buộc bởi những quy định khắt khe như  chào bán  chứng khoán ra công chúng.  Để điều chỉnh các quan hệ  pháp luật trong việc chào bán chứng khoán  riêng lẻ  thì việc Nhà nước ban hành các quy định pháp luật là điều cần thiết   phải có. Chỉ  khi đưa ra được các quy định pháp lý phù hợp đồng thời quán   triệt việc thực thi pháp luật về  chào bán chứng khoán riêng lẻ  thì từ  đó thị  trường chứng khoán Việt Nam mới có cơ hội phát triển bền vững. Thông qua bài tiểu luận về đề  tài “Chào bán chứng khoán riêng lẻ của  công ty đại chúng theo quy định theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, người  viết mong muốn có thể  làm rõ những vấn đề  pháp lý cơ  bản về  chào bán  chứng khoán riêng lẻ và pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của công  ty đại chúng. Phân tích được những thành tựu trong thực tiễn của pháp luật  hiện hành từ đó đưa ra kiến nghị bổ xung nhằm hoàn thiện pháp luật về chào   bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam. Do có một vài hạn chế  về  mặt thời gian, bài tiểu luận khó tránh khỏi  việc tồn tại một số thiếu sót, rất mong quý thầy cô có thể đưa ra những góp ý  bổ xung giúp bài làm trở nên hoàn thiện hơn.  Em xin trân trọng cảm ơn! 2
  3. MỤC 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN  RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG 1.1. Khái quát chung về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ và công  ty đại chúng: 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chào bán chứng khoán riêng lẻ: Về  khái niệm  chào bán chứng khoán riêng lẻ, hiện nay tại khoản 20  Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 có quy định về cách hiểu của hoạt động  chào bán chứng khoán riêng lẻ như sau:  Chào bán chứng khoán riêng lẻ là một trong những hình thức huy động  vốn, đây là việc chào bán chứng khoán không thuộc trường hợp chào bán  thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Phạm vi của phương thức chào  bán chứng khoán riêng lẻ  là chỉ  chào bán trong phạm vi một số  nhà đầu tư  nhất định; thông thường là chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể  nhà  đầu tư  chứng khoán chuyên nghiệp hoặc chỉ  chào bán cho nhà đầu tư  chứng  khoán chuyên nghiệp. Đồng thời căn cứ vào loại chứng khoán được chào bán,  có thể  chia chào bán chứng khoán riêng lẻ  thành hai loại như  chào bán cổ  phiếu riêng lẻ và chào bán trái phiếu riêng lẻ. Về đặc điểm, chào bán chứng khoán riêng lẻ có những đặc điểm nhận  dạng cơ bản như sau:  Thứ nhất, chào bán chứng khoán riêng lẻ giới hạn số lượng nhà đầu tư  và hoạt động chào bán chỉ  được tiến hành trên phạm vi hẹp, không được sử  dụng phương tiện thông tin đại chúng để  quảng cáo, mời chào. Đây là đặc  trưng cơ  bản nhất của chào bán chứng khoán riêng lẻ  khi có sự  so sánh với   chào bán chứng khoán ra công chúng, cho thấy rõ sự khác biệt về quy mô của  hai loại hình chào bán chứng khoán. Bên cạnh đó, hầu hết các nhà đầu tư  có   nhu cầu trong việc mua chứng khoán riêng lẻ  đều là những người có kiến  thức chuyên sâu về chứng khoán, có khả năng tự phân tích, đánh giá tình hình   3
  4. kinh doanh và tình hình tài chính của tổ chức phát hành, cũng như nhìn ra được  giá trị thực của chứng khoán đang được chào bán. Từ đó, yêu cầu bảo vệ nhà   đầu tư trong chào bán chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công   chúng có sự khác nhau về mặt pháp lý.  Thứ  hai, tại Việt Nam hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ  được  điều chỉnh bởi nhiều văn bản luật khác nhau tuỳ theo loại hình doanh nghiệp  và lĩnh vực kinh doanh. Có thể  kể  đến một luật tiêu biểu như: Luật doanh  nghiệp năm 2020, Luật chứng khoán năm 2019, Văn bản hợp nhất Luật các tổ  chức tín dụng năm 2010,… Ngoài ra có các các văn bản hướng dẫn, thi hành  pháp   luật,   các   văn   bản   điều   chỉnh   chuyên   biệt   khác   như:   Nghị   định  155/2020/NĐ­CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán,  Nghị  định 156/2020/NĐ­CP quy định xử  phạt vi phạm hành chính trong lĩnh  vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nghị định 153/2020/NĐ­CP quy   định về  chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ  tại thị  trường   trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, Thông  tư   96/2020/TT­BTC   hướng   dẫn   công   bố   thông   tin   trên   thị   trường   chứng  khoán,...  Thứ ba, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ đơn giản hơn so với thủ  tục chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy, đối với các doanh nghiệp  quy mô vừa và nhỏ khi cần huy động vốn thường lựa chọn phương thức chào   bán chứng khoán riêng lẻ  với mức chi phí thấp hơn. Đồng thời, với doanh  nghiệp mới thành lập, đặc biệt là các công ty cổ  phần thì các cổ  đông sáng   lập thường sẽ  tiến hành chào bán cổ  phần riêng lẻ  để  huy động vốn nhằm   góp đủ số vốn điều lệ đã đăng ký. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư công khi   tiến hành cổ  phần hoá cũng có thể  lựa chọn phương thức chào bán chứng  khoán riêng lẻ. 4
  5. 1.1.2. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ: Thứ nhất, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp hàng hoá   cho thị  trường chứng khoán, tạo cơ  sở  cho các hoạt động trao đổi mua bán  trên thị trường và kiểm chứng ban đầu về chất lượng chứng khoán được cung  ứng. Thứ  hai, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ  là một kênh huy   động vốn hiệu quả, giúp các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về  vốn và ít  bị  lệ  thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng. Thông qua việc tiến hành chào bán  chứng khoán riêng lẻ, tổ  chức phát hành sẽ  tăng quy mô, hiệu quả  sử  dụng   vốn, từ đó mở rộng việc sản xuất kinh doanh.  Thứ ba, thông qua việc mua bán, trao đổi chứng khoán mà các nhà đầu  tư thu được một khoản lợi nhuận nhất định hoặc tham gia quản lý điều hành   doanh nghiệp. Bên cạnh việc cung cấp các loại chứng khoán thì hoạt động  chào bán chứng khoán riêng lẻ còn cung cấp những thông tin hữu ích cho các  nhà đầu tư  chứng khoán. Tùy thuộc nhu cầu cũng như   ưu thế  của từng loại   chứng khoán mà nhà đầu tư sẽ lựa chọn phương án đầu tư cho phù hợp. Thứ tư, đối với tổ chức trung gian việc làm đại lý phát hành, bảo lãnh  phát hành, tư vấn phát hành...ngoài việc thu được khoản lợi nhuận nhất định  từ các hợp đồng đại lý, bảo lãnh mà còn có thể nắm bắt được nhu cầu, diễn   biến của thị trường và đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lý thông qua  những hoạt động về chào bán chứng khoán riêng lẻ. Thứ  năm, hoạt động chào bán chứng khoán đem lại nguồn vốn cần   thiết để thúc đẩy phát triển nền kinh tế ­ xã hội. Khi doanh nghiệp chào bán   chứng khoán và huy động được vốn đầu tư  từ  công chúng thì dự  án kinh  doanh của doanh nghiệp sẽ được thực hiện. Điều này vừa có lợi cho bản thân  doanh nghiệp vừa giúp nền kinh tế  thông qua việc đóng góp cho ngân sách   nhà nước. 5
  6. 1.1.3. Khái niệm của công ty đại chúng: Công ty đại chúng là công ty thực hiện huy động vốn để  phát hành  chứng khoán tại các trung tâm phát hành chứng khoán hoặc qua hình thức môi  giới chứng khoán từ công chúng. Căn cứ  Điều 32 Luật Chứng khoán năm 2019 có quy định về  công ty  đại chúng như sau: “1. Công ty đại chúng là công ty cổ  phần thuộc một trong hai trường  hợp sau đây: a) Công ty có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu là  10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là   cổ đông lớn nắm giữ; b) Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ  phiếu lần đầu ra công  chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định tại   khoản 1 Điều 16 của Luật này. 2. Công ty cổ phần quy định tại điểm a khoản 1 Điều này phải nộp hồ  sơ đăng ký công ty đại chúng quy định tại khoản 1 Điều 33 của Luật này cho  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 90 ngày kể  từ  ngày công ty  hoàn thành việc góp vốn và có cơ  cấu cổ  đông đáp  ứng quy định tại điểm a  khoản 1 Điều này. 3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký công ty   đại chúng đầy đủ  và hợp lệ  của công ty cổ  phần theo quy định tại điểm a   khoản 1 Điều này hoặc nhận được báo cáo kết quả  hoàn thành đợt chào bán   của công ty cổ  phần theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này,  Ủy ban   Chứng khoán Nhà nước có trách nhiệm xác nhận hoàn tất việc đăng ký công   ty đại chúng, đồng thời công bố tên, nội dung kinh doanh và các thông tin khác  liên quan đến công ty đại chúng trên phương tiện công bố  thông tin của  Ủy  ban Chứng khoán Nhà nước.” Như  vậy ta có thể  thấy, chỉ  khi đáp  ứng đủ  các điều kiện trên mới có  thể được coi là một công ty đại chúng.  6
  7. 1.2. Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty  đại chúng: Chào bán chứng khoán riêng lẻ  là hoạt động có ảnh hướng quan trọng  tới sự  phát triển của nền kinh tế  nói chung cũng như  của thị  trường chứng  khoán nói riêng. Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc bảo  đảm thực hiện, thi hành pháp luật về  chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi  cho sự  phát triển  ổn định của thị  trường chứng khoán, thúc đẩy nền kinh tế  ngày càng phát triển. Hiện nay, pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ phần  lớn thông qua các quy phạm pháp luật từ các Luật, Nghị định, Thông tư,…để  định ra các quy định hướng dẫn về điều kiện, thủ tục, hồ sơ chào bán chứng   khoán; cũng như  thanh tra, giám sát việc tuân theo pháp luật về  chào bán  chứng khoán riêng lẻ của các chủ thể tham gia hoạt động chào bán, xử lý các   hành vi vi phạm,...  1.2.1. Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng: Tùy theo quy định  ở  mỗi quốc gia mà pháp luật về mà điều kiện chào   bán chứng khoán riêng lẻ  có thể  khác nhau. Tuy nhiên, mục đích chung của   các quy định đều là chọn ra những chủ  thể  có khả  năng tài chính để  thanh  toán đủ gốc, lãi của chứng khoán nhằm hạn chế tối đa các rủi ro. Tại Việt Nam, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ  của công ty  đại chúng ngoài việc phải đáp  ứng điều kiện phát hành của chứng khoán  riêng lẻ nói chung, thì công ty đại chúng còn tiếp tục đáp ứng được các điều   kiện theo quy cụ tại Điều 31 Luật Chứng khoán năm 2019 như sau: Điều kiện chào bán cổ  phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ,   trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ của công ty đại chúng bao gồm: 7
  8. “a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát   hành và sử  dụng số  tiền thu được từ  đợt chào bán; xác định rõ tiêu chí, số  lượng nhà đầu tư; b) Đối tượng tham gia đợt chào bán chỉ bao gồm nhà đầu tư chiến lược,   nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; c) Việc chuyển nhượng cổ  phiếu chào bán riêng lẻ, trái phiếu chuyển   đổi chào bán riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền chào bán riêng lẻ  bị  hạn  chế tối thiểu là 03 năm đối với nhà đầu tư chiến lược và tối thiểu là 01 năm   đối với nhà đầu tư  chứng khoán chuyên nghiệp kể  từ  ngày hoàn thành đợt  chào bán, trừ  trường hợp chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư  chứng khoán  chuyên nghiệp hoặc thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu   lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc thừa kế theo quy định của pháp   luật; d) Các đợt chào bán cổ  phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ,   trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ  phải cách nhau ít nhất 06 tháng kể  từ  ngày kết thúc đợt chào bán gần nhất; đ) Việc chào bán cổ  phiếu, chuyển đổi trái phiếu thành cổ  phiếu, thực  hiện chứng quyền phải đáp  ứng quy định về  tỷ  lệ  sở  hữu của nhà đầu tư  nước ngoài theo quy định của pháp luật.”1 Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ  của công ty đại chúng không   thuộc trường hợp chào bán cổ phiếu riêng lẻ, trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ,   trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ bao gồm: “a) Có quyết định của Đại hội đồng cổ  đông hoặc Hội đồng quản trị  thông qua phương án phát hành và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán;   xác định rõ tiêu chí, số lượng, nhà đầu tư; b) Đối tượng tham gia đợt chào bán chỉ  bao gồm nhà đầu tư  chứng  khoán chuyên nghiệp; 1 Khoản 1 Điều 31 Luật Chứng khoán 2019 8
  9. c) Việc chuyển nhượng trái phiếu chào bán riêng lẻ chỉ được thực hiện   giữa các nhà đầu tư  chứng khoán chuyên nghiệp, trừ  trường hợp thực hiện   theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của  Trọng tài hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật; d) Thanh toán đủ  cả  gốc và lãi của trái phiếu đã chào bán hoặc thanh  toán đủ  các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt chào bán trái   phiếu (nếu có), trừ trường hợp chào bán trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức   tài chính được lựa chọn; đ) Có báo cáo tài chính năm trước liền kề  của năm phát hành được  kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận; e) Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt  động theo quy định của pháp luật (nếu có).”2 Qua đó, ta có thể  thấy cơ  chế  quản lý của điều kiện chào bán chứng   khoán riêng lẻ  so với điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng có vẻ  đơn giản hơn. Dù vậy, mức độ quản lý vẫn phụ thuộc vào chủ  thể  chào bán  hoặc loại chứng khoán được chào bán. 1.2.2. Trình tự, thủ  tục chào bán chứng khoán riêng lẻ  của công ty đại   chúng: Về trình tự, thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng,  hiện nay tại Điều 48 Nghị  định 155/2020/NĐ­CP đã quy định cụ  thể  và chi  tiết quy trình để  tiến hành việc chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  của công ty đại  chúng như sau:  “1. Tổ chức phát hành gửi hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ tới   Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. 2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể  từ  ngày nhận được hồ  sơ  đầy   đủ và hợp lệ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có chấp thuận bằng văn bản và   2 Khoản 2 Điều 31 Luật Chứng khoán 2019 9
  10. đăng tải trên trang thông tin điện tử  của  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về  việc nhận được đầy đủ hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức   phát hành; trường hợp từ chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. 3. Tổ  chức phát hành phải hoàn thành đợt chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  trong thời gian 90 ngày kể từ ngày Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có văn bản   chấp thuận. 4. Trong thời hạn 10 ngày kể  từ  ngày kết thúc đợt chào bán, tổ  chức  phát hành phải gửi Báo cáo kết quả đợt chào bán kèm theo xác nhận của ngân  hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản phong tỏa về số tiền   thu được từ  đợt chào bán cho  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công bố  thông tin trên trang thông tin điện tử  của tổ  chức phát hành, Sở  giao dịch   chứng khoán về kết quả đợt chào bán. 5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tài liệu báo  cáo kết quả  đợt chào bán đầy đủ  và hợp lệ,  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước  thông báo bằng văn bản về việc nhận được báo cáo kết quả đợt chào bán cho  tổ chức phát hành đồng thời gửi cho Sở giao dịch chứng khoán, Tổng công ty  lưu ký và bù trừ  chứng khoán Việt Nam và đăng tải trên trang thông tin điện  tử  của  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về  việc nhận được báo cáo kết quả  đợt chào bán. 6. Sau khi có thông báo nhận được báo cáo kết quả đợt chào bán của Ủy  ban Chứng khoán Nhà nước, tổ chức phát hành được yêu cầu chấm dứt phong   tỏa số tiền thu được từ đợt chào bán. 7. Khoảng cách giữa các đợt chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ  sau phải cách nhau ít nhất 06 tháng kể  từ  ngày kết thúc đợt chào bán, phát  hành riêng lẻ  gần nhất, bao gồm: chào bán cổ  phiếu riêng lẻ; chào bán trái  phiếu chuyển đổi riêng lẻ; chào bán trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ;  chào bán cổ  phiếu  ưu đãi kèm chứng quyền riêng lẻ; phát hành cổ  phiếu để  hoán đổi cổ  phần cho cổ  đông công ty cổ  phần chưa đại chúng, hoán đổi  phần vốn góp cho thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn; phát  10
  11. hành cổ phiếu để hoán đổi cổ phần cho số cổ đông xác định trong công ty đại  chúng; phát hành cổ phiếu để hoán đổi nợ.” Ta có thể  thấy đối với chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  của công ty đại  chúng, pháp luật đã áp dụng cơ  chế  đăng ký thông tin chào bán. Công ty đại  chúng nộp hồ  sơ  chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  lên  Ủy ban Chứng khoán Nhà  nước để được xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ  chào bán. Sau khi xem  xét hồ sơ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có thể chấp thuận hoạt động chào  bán cổ phiếu hoặc yêu cầu bổ xung, hoàn thiện hồ sơ. Sau khi hồ sơ đăng ký  được thông qua, công ty đại chúng phải thực hiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ  theo đúng như phương án đã đăng ký. Cuối cùng sau khi kết thúc đợt chào bán   cổ  phiếu riêng lẻ, công ty đại chúng phải báo cáo kết quả  chào bán với  Ủy  ban Chứng khoán Nhà nước đồng thời tiến hành công bố  thông tin kết quả  chào bán cổ phiếu riêng lẻ trên trang thông tin điện tử của mình. Về trình tự, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng ,  tại Nghị định 153/2020/NĐ­CP pháp luật có quy định cụ thể về quy trình chào  bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp cũng như công ty đại chúng, theo đó: + Đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi, không kèm chứng  quyền, quy trình chào bán được tiến hành như sau: Sau khi công ty đại chúng  tiến hành chuẩn bị hồ sơ chào bán trái phiếu theo quy định, cần công bố thông  tin trước đợt chào bán theo quy định tại Điều 19 Nghị  định 153/2020/NĐ­CP.  Công ty đại chúng thực hiện hoạt động chào bán trái phiếu theo các phương  thức quy định tại Điều 14 Nghị  định này. Trong thời hạn năm ngày làm việc   kể  từ  ngày hoàn thành đợt chào bán, công ty đại chúng chào bán trái phiếu   riêng lẻ phải đăng ký, lưu ký trái phiếu. + Đối với chào bán trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền,   quy trình chào bán của công ty đại chúng được tiến hành như sau: (1) Công ty   đại chúng chuẩn bị hồ sơ chào bán trái phiếu, tiếp đến gửi một bộ hồ sơ chào  bán trái phiếu đến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. (2) Trong thời hạn 10 ngày  kể  từ  ngày nhận được hồ  sơ  đầy đủ  và hợp lệ,  Ủy ban Chứng khoán Nhà  11
  12. nước chấp thuận bằng văn bản; trường hợp từ  chối,  Ủy ban Chứng khoán  Nhà nước trả  lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. (3) Sau khi  Ủy ban Chứng   khoán Nhà nước chấp thuận, cần công bố thông tin trước đợt chào bán và tổ  chức phát hành trái phiếu theo quy định. Số  tiền thu được từ  đợt chào bán  phải được chuyển vào tài khoản phong tỏa mở tại ngân hàng, chi nhánh ngân  hàng nước ngoài. Việc mở và sử dụng tài khoản phong tỏa áp dụng theo quy   định đối với chào bán, phát hành chứng khoán và chào mua công khai. (4)   Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể  từ  ngày nhận được đầy đủ  báo cáo kết  quả  chào bán,  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo cho công ty đại   chúng phát hành, đồng thời đăng lên trang thông tin điện tử của Ủy ban Chứng   khoán Nhà nước về việc nhận được báo cáo kết quả chào bán. (5) Sau khi Ủy  ban Chứng khoán Nhà nước thông báo nhận được báo cáo kết quả  chào bán,  công ty đại chúng được giải tỏa số tiền thu được từ chào bán. (6) Công ty đại  chúng phát hành thực hiện đăng ký, lưu ký trái phiếu trong thời hạn năm ngày  làm việc kể từ ngày Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo dã nhận được  báo cáo kết quả chào bán trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng  quyền riêng lẻ. Thông qua căn cứ trên, dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt giữa chào  bán trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền do khi công ty đại   chúng chào bán trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền thì  phải tiến hành  đăng ký với  Ủy ban Chứng khoán Nhà nước còn các loại trái  phiếu khác thì không cần đăng ký. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật dù  loại hình chứng khoán nào thì tổ  chức phát hành đều phải thông báo về  việc  phát hành với Bộ Tài chính, đồng thời phải tuân thủ  nghĩa vụ  công bố  thông   tin. 1.2.3. Hồ sơ chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng: Về  hồ  sơ  đăng ký chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  của công ty đại chúng,  được quy định tại Điều 43 Nghị định 155/2020/NĐ­CP như sau: 12
  13. “1. Giấy đăng ký chào bán theo mẫu. 2. Quyết định của Đại hội đồng cổ  đông thông qua phương án phát  hành, phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán, trong đó: a) Phương án phát hành nêu rõ: mục đích chào bán; số  lượng cổ  phiếu  chào bán; giá chào bán hoặc nguyên tắc xác định giá chào bán hoặc ủy quyền   cho Hội đồng quản trị xác định giá chào bán; tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư; số  lượng nhà đầu tư; nhà đầu tư  chiến lược, nhà đầu tư  chứng khoán chuyên  nghiệp và số  lượng cổ  phiếu chào bán cho từng nhà đầu tư  hoặc  ủy quyền   cho   Hội   đồng   quản   trị   xác   định   nhà   đầu   tư   chứng   khoán   chuyên   nghiệp.  Những người có quyền lợi liên quan đến đợt chào bán không được tham gia  biểu quyết. Trường hợp trong phương án phát hành không nêu cụ thể giá chào  bán, nguyên tắc xác định giá chào bán thì giá chào bán được xác định theo quy  định tại Luật Doanh nghiệp; b) Trường hợp đợt chào bán nhằm mục đích huy động tiền để  thực  hiện dự  án, phương án sử  dụng số  tiền thu được từ  đợt chào bán phải bao  gồm nội dung về phương án bù đắp phần thiếu hụt vốn dự kiến huy động từ  đợt chào bán để thực hiện dự án. 3. Quyết định của Hội đồng quản trị  thông qua đối tượng được chào  bán là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong trường hợp được Đại hội   đồng cổ  đông  ủy quyền. Những người có quyền lợi liên quan đến đợt chào   bán cổ phiếu không được tham gia biểu quyết. 4. Quyết định của Hội đồng quản trị thông qua hồ sơ đăng ký chào bán.  Đối với việc chào bán cổ phiếu của tổ chức tín dụng, hồ sơ phải có văn bản   chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đề nghị tăng vốn điều lệ  theo quy định của pháp luật về  các tổ  chức tín dụng. Đối với việc chào bán   cổ  phiếu của tổ  chức kinh doanh bảo hiểm, hồ  sơ  phải có văn bản chấp   thuận của Bộ Tài chính về việc tăng vốn điều lệ theo quy định của pháp luật   về kinh doanh bảo hiểm. 13
  14. 5. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị (trong  trường hợp được Đại hội đồng cổ đông ủy quyền) thông qua phương án đảm  bảo việc phát hành cổ phiếu đáp ứng tỷ lệ sở hữu nước ngoài. 6. Cam kết của tổ chức phát hành về  việc không vi phạm quy định về  sở hữu chéo của Luật Doanh nghiệp. 7. Văn bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về  việc mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua cổ phiếu của đợt chào bán. 8. Tài liệu cung cấp thông tin về đợt chào bán cho nhà đầu tư (nếu có). 9. Tài liệu sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán (nếu có).” Về  hồ  sơ  đăng ký chào bán trái phiếu riêng lẻ  của công ty đại chúng,  được quy định tại khoản 2  Điều 43 Nghị  định 153/2020/NĐ­CP bao gồm:  Phương án phát hành trái phiếu; Tài liệu công bố  thông tin về  đợt chào bán  trái phiếu; Hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp phát hành với các tổ  chức  cung cấp dịch vụ  liên quan đến đợt phát hành trái phiếu; Báo cáo tài chính  năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán; Kết quả xếp hạng tín  nhiệm của tổ  chức xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái  phiếu và loại trái phiếu phát hành (nếu có); Quyết định phê duyệt, chấp thuận  phương án phát hành trái phiếu của cấp có thẩm quyền; Văn bản chấp thuận  của cơ  quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật  chuyên ngành (nếu có); Giấy đăng ký chào bán theo mẫu; Bản sao Quyết định  của Đại hội đồng cổ  đông/Hội đồng quản trị  phê duyệt hồ  sơ  chào bán trái  phiếu; Cam kết của doanh nghiệp về việc không vi phạm quy định về sở hữu  chéo theo quy định của Luật Doanh nghiệp tại thời  điểm chuyển đổi trái  phiếu thành cổ  phiếu và thời điểm thực hiện quyền của chứng quyền; Văn  bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc doanh  nghiệp mở tài khoản phong tỏa để  nhận tiền mua trái phiếu chuyển đổi, trái   phiếu kèm chứng quyền của đợt chào bán. Trong suốt những năm qua, thị trường chứng khoán tại Việt Nam có sự  phát triển mạnh mẽ thu hút đông đảo sự tham gia của đông đảo nhà đầu tư cả  14
  15. trong và ngoài nước. Việc đưa ra quy phạm pháp luật nhằm ràng buộc tổ  chức phát hành chứng khoán được nhận định là vấn đề  cấp thiết. Điều này   không chỉ nhằm bảo đảm tính công bằng, bình đẳng trong hoạt động chào bán  chứng khoán riêng lẻ giữa các chủ thể chào bán mà còn tạo lập sự ổn định và  trung thực trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, bảo đảm chất   lượng chứng khoán tham gia lưu thông trên thị  trường có tính thanh khoản   cao, ít rủi ro. Đưa ra những quy định về chủ thể, điều kiện, trình tự, thủ tục,   hồ  sơ  chào bán chứng khoán riêng lẻ  giúp tăng hiệu quả  quản lý nhà nước   trong hoạt động chào bán chứng khoán. Khi xuất hiện bất kỳ  dấu hiệu vi   phạm nào đều có thể  kịp thời xử  lý, giúp hoạt động chào bán chứng khoán  diễn ra đúng pháp luật. 15
  16. MỤC 2 ĐÁNH GIÁ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG  KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA CÔNG TY ĐẠI CHÚNG 2.1. Những thay đổi trong pháp luật về  chào bán chứng khoán riêng lẻ  của công ty đại chúng  khi so sánh với những quy định cũ: Ngay sau khi ban hành, các quy định mới về  chào bán chứng khoán ra   công   chúng   tại   Việt   Nam   theo   Luật   Chứng   Khoán   2019,   Nghị   Định  155/2020/NĐ­CP và Nghị  Định 153/2020/NĐ­CP đã thể  hiện rõ một số  thay   đổi khi có sự so sánh giữa với các quy định trước đó như Luật Chứng Khoán   2006 (sửa đổi, bổ  sung) , Nghị  Định 58/2012/NĐ­CP (sửa đổi, bổ  sung) và  Nghị  định 163/2018/NĐ­CP (sửa đổi, bổ  sung). Một số  điểm mới đáng chú ý   có thể kể đến như sau: 2.1.1. Đổi mới trong các hiểu của hoạt động chào bán chứng khoán riêng   lẻ: Trước khi Luật Chứng Khoán 2019 được đưa vào áp dụng thì tại điểm  a khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 quy định chào bán chứng khoán  riêng lẻ chỉ bao gồm 2 điều kiện, đó là: (1) Không sử dụng phương tiện thông  tin đại chúng, bao gồm cả internet; (2) Chào bán cho dưới một trăm nhà đầu  tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Như  vậy, điều luật này không quy định về  trường hợp chỉ  có các nhà  đầu tư  chứng khoán chuyên nghiệp tham gia hoạt động đầu tư  chứng khoán  thì đây có được coi là hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ  hay không.  Quá trình áp dụng luật cho thấy, quy định này đã gây không ít hoang mang, lo   lắng cho không chỉ  chủ  thể  phát hành mà còn bao gồm cả  các nhà đầu tư  chuyên nghiệp trong việc xác định loại hình chào bán chứng khoán nhằm đảm  bảo việc thực hiện đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, khoản 20 Điều 4  Luật Chứng Khoán 2019 đã bổ  xung thêm trường hợp chào bán chứng khoán  16
  17. riêng lẻ chỉ có sự  tham gia của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, điều   này trợ  giúp không nhỏ  cho chủ  thể  chào bán chứng khoán, giúp xác định  được một các chắc chắn về hình thức chào bán chứng khoán mà chủ thể phát  hành sắp đưa vào thị trường để kêu gọi vốn đầu tư. 2.1.2. Đổi mới pháp luật trong hoạt động chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  của   công ty đại chúng: Các quy định hiện hành của Luật chứng khoán năm 2019 và  Nghị Định  155/2020/NĐ­CP đã phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập của  pháp luật trong hoạt động chào bán cổ  phiếu riêng lẻ  khi so sánh với Luật   chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung) cũng như Nghị định 58/2012/NĐ­CP  (sửa đổi, bổ sung). Một số điểm mới đáng chú ý có thể kể đến như:  Thứ  nhất, sửa đổi, bổ  sung một cách toàn diện các quy định về  điều  kiện, hồ  sơ  chào bán chứng khoán riêng lẻ  và nghĩa vụ  sau khi tổ  chức đợt  chào bán chứng khoán riêng lẻ của riêng chủ thể là công ty đại chúng. Ngoài  ra, Điều 295 Nghị Định 155/2020/NĐ­CP đặt ra quy định chi tiết về nghĩa vụ  công bố thông tin của công ty đại chúng tại cũng là điểm đáng lưu ý. Theo đó,  công ty đại chúng có nghĩa vụ công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin   định kỳ  và bất thường cũng như  các thông tin khác nếu các thông tin đó có   khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán và ảnh hưởng đến quyết định của  cổ  đông và nhà đầu tư  theo quy định của pháp luật chứng khoán về  công bố  thông tin cho cổ  đông và công chúng đầu tư. Việc công khai thông tin nhằm  tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận được các thông tin chính xác để có   thể đưa ra quyết định đúng đắn đồng thời giúp cơ quan quản lý Nhà nước dễ  dàng chỉ đạo, giám sát. Thứ hai, việc tiếp nhận và xử lý hồ sơ  chào bán cổ phiếu riêng lẻ của  công ty đại chúng được thực hiện nhanh chóng, đáp  ứng nhu cầu huy động  vốn của tổ chức phát hành. Nguyên nhân do thời gian của từng giai đoạn đều   được quy định rõ trong pháp luật về  thủ  tục chào bán, điều này giúp hồ  sơ  17
  18. đăng ký của công ty đại chúng không bị  mắc kẹt tại bất kỳ  một khâu xét   duyệt. Đảm bảo quá trình huy động vốn của tổ chức phát hành được diễn ra  thuận lợi. 2.1.3. Đổi mới pháp luật trong hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của   công ty đại chúng: Hiện nay, Nghị định 153/2020/NĐ­CP đang là văn bản có hiệu lực pháp  lý trực tiếp trong điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp  riêng lẻ. Khi so sánh với quy định được ban hành trước đó, chúng ta có thể  thấy được Nghị  định 153/2020/NĐ­CP đã hoàn thiện, khắc phục nhiều lỗ  hổng của Nghị định 163/2018/NĐ­CP (sửa đổi, bổ xung) kể từ khi thay thế và  được coi là văn bản có tính đầy đủ, cụ  thể nhất về chào bán trái phiếu riêng  lẻ  cho đến nay. Một số  bổ  sung tại Nghị định 153/2020/NĐ­CP về  chào bán  trái phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng như sau: Thứ  nhất, quy định mang tính giới hạn nhà đầu tư  chứng khoán tham  gia. Nghị định 163/2018/NĐ­CP trước đây cho phép mọi cá nhân, tổ chức mua  trái phiếu nhằm phát triển thị  trường một cách nhanh chóng, tuy nhiên điều  này tiềm  ẩn khá nhiều rủi ro cho nhà đầu tư  nhỏ  lẻ  không có kinh nghiệm  chuyên môn trong đầu tư  chứng khoán. Vì vậy dựa trên những quy định của   Luật Chứng khoán 2019, Nghị  định 153/2020/NĐ­CP đã thu hẹp đối tượng  được phép mua của loại hình trái phiếu riêng lẻ  nhằm hạn chế  thua lỗ  cho   các nhà đầu tư nhỏ lẻ, không có chuyên môn đầu tư chứng khoán. Thứ hai, loại bỏ quy định không cần thiết về điều kiện chào bán đồng  thời bổ  xung điều kiện mới. Việc bãi bỏ  các điều kiện như: giới hạn tối đa  99 nhà đầu tư không chuyên, không được chuyển nhượng trong 1 năm từ ngày  phát hành đối với trái phiếu chuyển đổi hoặc kèm chứng quyền, hoàn thành  mỗi đợt phát hành trong 90 ngày từ  ngày công bố  thông tin và cách nhau 06   tháng,...; cùng lúc đó xung điều kiện thanh toán đủ  nợ  đến hạn trong 03 năm  liền trước đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng  18
  19. quyền của Nghị định 153/2020/NĐ­CP nhằm đánh vào tâm lý hiếu thắng của  nhà đầu tư  để  buộc phải suy tính kỹ  càng trước khi thức hiện bất kỳ  hoạt   động nào. Thứ ba, thay đổi thời hạn thực hiện một số thủ tục đăng ký, lưu ký trái  phiếu cho doanh nghiệp: Thời hạn tiến hành đăng ký, lưu ký trái phiếu là 5  ngày làm việc sau khi hoàn thành chào bán, thay vì 10 ngày làm việc như trước   và thời hạn công bố  thông tin từ 03 ngày xuống 01 ngày trước và từ  05 ngày   lên 10 ngày sau mỗi đợt chào bán lại giúp doanh nghiệp có thêm thời gian  chuẩn bị để thực hiện tốt hơn. Đối với một nước có tỷ  lệ  doanh nghiệp vừa và nhỏ  chiếm phần lớn  như  Việt Nam, thì việc xây dựng khung pháp lý phù hợp, linh hoạt để  điều  chỉnh các quan hệ tham gia vào thị trường chứng khoán là rất cần thiết. Thông  qua sự  thay đổi của một loạt quy phạm pháp luật đã tác động mạnh mẽ  tới  hoạt động chào bán, phát hành của chứng khoán riêng lẻ của không chỉ  công  ty đại chúng mà còn của toàn bộ chủ thể tham gia phát hành chứng khoán. Từ  những thay đổi pháp luật nêu trên, chúng ta nhận biết được rằng các nhà làm  luật đang có những bước đi đúng đắn từ  việc khắc phục những bất cập của   quy định xưa cũ để  xây dựng lên một bộ  khung pháp lý hoàn toàn mới, phù  hợp với thực tiễn diễn ra trong thực tế hiện nay. Điều này vừa giúp các nhà  đầu tư chứng khoán thận trọng hơn trong từng kế hoạch đầu tư vừa đảm bảo  quá trình huy động vốn đầu tư  của chủ  thể  phát hành diễn ra trơn tru, đồng  thời đảm bảo được vai trò của cơ  quan quản lý Nhà nước về  chứng khoán   phát huy vị thế của mình trên thị trường chứng khoán. 2.2. Nâng cao vai trò của Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng  khoán riêng lẻ: Hiện   nay   phần   lớn   các   chứng   khoán   được   chào   bán   riêng   lẻ   ra   thị  trường là chứng khoán chưa niêm yết và giao dịch ngoài thị  trường tập trung  vậy nên khi đầu tư  mức độ  rủi ro của các nhà đầu tư  là khá cao. Việc tăng   19
  20. cường hiệu quả  quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán   riêng lẻ và đưa các giao dịch chứng khoán chưa niêm yết vào khuôn khổ pháp   lý là việc làm cần thiết. Khác với hoạt động chào bán chứng khoán ra công   chúng, chào bán chứng khoán riêng lẻ  ngoài chịu sự  giám sát của Uỷ  ban   chứng khoán Nhà nước thì vẫn còn nhiều cơ  quan khác nhau có thẩm quyền  quản lý. Trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng  khoán riêng lẻ, Nhà nước chủ trương huy động tăng cường công tác giám sát  hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ  như  đăng ký chào bán, công bố  thông tin, lưu ký chứng khoán,…Từ  đó thông qua các văn bản luật để  thực  hiện ràng buộc các chủ  thể  trên thị  trường chứng khoán không được phép  thực hiện các hành vi được cho là có thể gây hỗn loạn thị trường. Ngoài ra Uỷ  ban chứng khoán Nhà nước đã và đang tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi   phạm như về không công bố thông tin khi tổ chức chào bán chứng khoán, góp  phần làm thị  trường chứng khoán ngày càng công khai, minh bạch hơn, đảm  bảo lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư chứng khoán riêng lẻ  nói chung và đầu tư chứng khoán nói riêng. Tuy nhiên để  hoàn thiện hơn nữa hiệu quả  quản lý Nhà nước trong  hoạt động tổ chức chào bán chứng khoán không chỉ của công ty đại chúng mà  bao gồm tất cả  chủ  thể phát hành khác thì: (1) Cần rà soát việc áp dụng các   quy định pháp luật liên quan đến thị trường chứng khoán của tất cả đối tượng   tham gia nhằm tìm ra được lỗ  hổng pháp lý còn tồn tại để  kịp thời sửa đổi,  bổ  sung nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả  công tác quản lý, giám sát thị  trường trái phiếu doanh nghiệp, bảo đảm thị  trường phát triển lành mạnh,  minh bạch, an toàn. (2) Theo dõi, quản lý, giám sát chặt chẽ các diễn biến của   thị trường chứng khoán để đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động minh  bạch, ổn định, liên tục và an toàn trong mọi tình huống. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2