intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Quản trị nguồn nhân lực: Thực trạng đình công tại Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:23

186
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận gồm có 3 chương trình bày về cơ sở lý luận chung, thực trạng đình công tại Việt Nam hiện nay, một số giải pháp hạn chế đình công tại Việt Nam,...Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Quản trị nguồn nhân lực: Thực trạng đình công tại Việt Nam hiện nay

  1. 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU   Nền kinh tế ngày càng phát triển kinh tế ­ xã hội và đời sống của người   lao động, thì kinh tế thị trường đã và đang tác động mạnh tạo nên mâu thuẫn   và sự phức tạp phát sinh trong mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và  người lao động ở  nhiều doanh nghiệp, dẫn tới nhiều vụ tranh chấp lao động  tập thể và đình công. Đình công trên thê giới diễn ra ngày càng nhiều và trong đó có cả  Việt  Nam. Trong những năm qua các cuộc đình công  ở  nước ta diễn ra ngày càng  nhiều tăng về cả số lượng và quy mô, làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động  sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cuộc sống của người lao  động và  nhiều vấn đề xã hội khác. Trong các vấn đề  về  Quan hệ  lao động em chọn đề  tài “Thực trạng   đình công tại việt Nam hiện nay” nghiên cứu. Với lượng thời gian nghiên cứu và viết đề  tài có hạn, nội dung nghiên  cứu của đề tài mà em đưa ra trong bài tiểu luận  không tránh khỏi nhiều thiếu  sót. Rất mong Thầy giáo cùng các bạn học viên góp ý phê bình để đề  tài tiểu   luận này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!   2
  3. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Khái niệm đình công Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ  chức của tập  thể lao động để giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Đình công là một quyền cơ  bản của người lao động, là phương tiện  cuối cùng để họ có thể tự bảo vệ mình khi cần thiết, là tín hiệu chỉ báo quan  hệ lao động đang có bất bình thường ở doanh nghiệp, ngành… Ở những nước  có nền kinh tế thị trường phát triển thì đình công là một vấn đề  hết sức quen   thuộc. Do vị trí phụ thuộc của người lao động trong quan hệ lao động nên khi   có tranh chấp, người lao động phải liên kết nhau lại, tạo thành sức mạnh tập  thể  để  đấu tranh với người sử  dụng lao động, bảo vệ  lợi ích cho mình. Vì   vậy, về bản chất đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế của tập thể người   lao động được pháp luật thừa nhận, nhằm thúc đẩy quá trình giải quyết tranh   chấp lao động nhanh chóng, theo hướng có lợi cho họ. Mặt khác, đình công  luôn liên quan đến tranh chấp lao động tập thể  vừa biểu hiện hậu quả  của   quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể  không thành. Do đó, có thể  hiểu đình công là vũ khí cuối cùng bất đắc dĩ của người lao động trong cuộc   3
  4. đấu tranh kinh tế  của mình. Nhưng về  mặt nhận thức, không được coi đình  công là vũ khí duy nhất để giải quyết các tranh chấp lao động trong quan hệ  lao động. Đình công là đỉnh cao của tranh chấp lao động tập thể. Biểu hiện rõ  nhất của đình công là ngừng việc tập thể. Đình công là biện pháp mạnh mẽ  nhất của tập thể người lao động nhằm đòi thỏa mãn những yêu cầu về  tiền  lương, điều kiện làm việc và những đảm bảo xã hội, hoặc đòi thực hiện đúng  các nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong trường hợp người sử dụng lao  động có vi phạm nghiêm trọng về pháp luật lao động. 1.2. Đặc điểm của đình công Đình công biểu hiện thông qua sự  ngừng việc triệt để  của người lao  động và do tập thể  lao động tiến hành: Sự  ngừng việc của người lao động  trên thực tế được biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau, nhưng sự ngừng việc   khi đình công là ngừng việc triệt để. Ngoài ra, sự ngừng việc trong đình công   phải do người lao động cùng tiến hành (tập thể lao động). Tập thể  lao động  ngừng việc có thể là toàn bộ hoặc đa số  những người lao động trong một bộ  phận cơ cấu doanh nghiệp, trong toàn doanh nghiệp hoặc đa số những người   lao động trong một ngành. Nếu một vài người ngừng việc mặc dù có tổ chức  thì vẫn không được gọi là đình công. Trên thế giới nhiều nước có quy định về  số lượng hoặc tỉ lệ lao động tham gia đình công (hoặc cả hai) trên tổng số lao   động thuộc phạm vi diễn ra đình công (doanh nghiệp, ngành) là điều kiện đình  công hợp pháp. Đình công là sự nghỉ việc có tổ chức: Ngừng việc của tập thể lao động  phải có sự  chủ  định từ  trước, phải có sự  phối hợp về  mặt ý  chí và tổ  chức  của những người lao động với nhau. Có nghĩa là, sự ngừng việc phải có sự chỉ  đạo, tổ chức, lãnh đạo và điều hành thống nhất của mỗi người hay một nhóm   người có sự chấp hành, tuân thủ của những người khác. Như vậy, từ khi khởi  4
  5. xướng, phát động đình công cho đến khi thực hiện các trình tự  thủ  tục giải  quyết đình công đều phải có sự phối hợp của cả tập thể lao động trong ý chí   và trong hành động. Pháp luật lao động nhiều nước chỉ thừa nhận công đoàn là  người có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công. Ban chấp hành công đoàn cơ sở  sẽ là người đứng ra tổ chức đình công từ khâu lấy ý kiến tán thành đình công,   lãnh đạo đình công cho đến khi giải quyết cuộc đình công trước tòa án. Như  vậy mọi sự ngừng việc, dù là rất đông người lao động nhưng không do công  đoàn lãnh đạo thì vẫn không được thừa nhận là đình công. Trong trường hợp  này sẽ bị coi là đình công bất hợp pháp và tùy theo mức độ vi phạm của từng  người mà có thể  bị  xử  lý kỷ  luật, xử  phạt hành chính hoặc truy cứu trách  nhiệm hình sự. Đình công luôn đi liền với các yêu sách: Bản chất của đình công là biện  pháp đấu tranh kinh tế  nên mục  đích của đình công phải nhằm  đạt  được  những yêu sách về  quyền và lợi ích cho tập thể  lao động. Thực tế   ở  những   nước có nền kinh tế phát triển, người lao động thường đình công để đạt được  những lợi ích cao hơn, điều kiện làm việc tốt hơn so với pháp luật đã quy định  hoặc so với những thỏa thuận các bên đã cam kết trước đó. Và kết quả  đình  công thường là một thỏa  ước tập thể  mới ra đời. Còn  ở  những nước chưa   phát triển, phần lớn các cuộc đình công là đòi quyền và lợi ích hợp pháp của   người lao động phù hợp với luật pháp lao động bị người sử dụng lao động vi  phạm. Trong mỗi cuộc đình công, tập thể  lao động có thể  đưa ra một hoặc  nhiều yêu sách đối với người sử  dụng lao động. Ví dụ, ở  Việt Nam, một số  yêu sách thường gặp trong các cuộc đình công là: yêu sách cải thiện về  tiền  lương, phụ  cấp, thời giờ  làm việc và thời giờ  nghỉ  ngơi, hành vi đối xử  thô   bạo, chống sa thải lao động trái pháp luật, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động,  bảo hiểm xã hội, kí kết và thực hiện đúng hợp đồng lao động… 5
  6. Đình công phát sinh trực tiếp từ tranh chấp lao động tập thể: Đình công  là hậu quả  của tranh chấp lao động tập thể  giải quyết không thành, là một   biện pháp giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Tuy nhiên, không phải tranh  chấp lao động tập thể nào cũng đều dẫn đến đình công. 1.3. Phân loại đình công 1.3.1 Căn cứ vào phạm vi đình công, bao gồm: Đình công doanh nghiệp: Là đình công do tập thể lao động trong phạm  vi một doanh nghiệp tiến hành. Đình công bộ  phận: Là đình công do tập thể  lao động trong phạm vi   một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp tiến hành. 1.3.2. Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công, được phân thành: Đình công hợp pháp: Cuộc đình công hợp pháp là cuộc đình công khi có  đủ các điều kiện của đình công hợp pháp theo quy định của pháp luật. Đình công bất hợp pháp: Là đình công thiếu một trong các điều kiện  của đình công hợp pháp theo quy định của pháp luật. Ví dụ, ở Việt Nam, các cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp khi: không  phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể, vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp,  vi phạm các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật  Lao động (không tuân theo quy định của pháp luật về  trình tự  , thủ  tục tiến  hành   đình   công,   đình   công   ở   doanh   nghiệp   phục   vụ   công   cộng   và   doanh  nghiệp thiết yếu cho nền kinh tế  quốc dân hoặc an ninh, quốc phòng theo   danh mục doanh nghiệp do Chính phủ quy định). 6
  7. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÌNH CÔNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Số lượng đình công Tranh chấp lao động, đình công hiện đang là điểm nóng trong quan hệ  lao động của các doanh nghiệp. Theo số  liệu thống kê của Bộ  Lao động xã  hội, 11 tháng đầu năm 2011 nước ta đã có 857 cuộc đình công diễn ra, trung   bình cứ một tuần có 16 cuộc đình công, số lượng các cuộc đình công năm 2011  tăng gấp đôi so với năm 2010, năm 2010 là 422 vụ, năm 2009 là 218 vụ, năm  2008 là 720 vụ… Cũng theo Bộ  Lao động xã hội từ  năm 1995 đến nay cả  nước đã xảy ra hơn 4100 cuộc đình công, trong đó chủ yếu ở các doanh nghiệp  có vốn đầu tư nước ngoài như Đài loan, Hàn quốc, Nhật bản,… với hơn 3100,  chiếm 75,4%. Năm 2010, cả  nước có 424 cuộc đình công. Phân loại các cuộc   7
  8. đình công theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước  ngoài chiếm 79,95% (339/424 cuộc); doanh nghiệp dân doanh 84/424 cuộc,  chiếm 19,81% và doanh nghiệp nhà nước chỉ có 1 cuộc, chiếm 0,24%. 2.2. Đình công theo loại hình doanh nghiệp Theo Bộ  Lao động ­ Thương binh và Xã hội, từ năm 1995, khi Bộ  luật   Lao động có hiệu lực thi hành, đến hết tháng 4 ­ 2009, cả  nước đã có 2.697  cuộc đình công. Trong đó, có 89 cuộc  ở  doanh nghiệp nhà nước (DNNN),  1.983 cuộc  ở  doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài, 625 cuộc  ở  doanh   nghiệp ngoài nhà nước. Bảng 1: Đình công trong các doanh nghiệp từ năm 1995 đến hết ngày  15/4/2009 DN có  vốn đầu  DNNN DN ngoài nhà nước Năm tư nước  Số vụ  đình công ngoài Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ 1995 ­ 1999 307 42 13,68% 174 56,68% 91 29,64% 2000 ­ 2004 525 34 6,48% 364 69,33% 137 26,09% 2005 ­ 4/2009 1865 13 0,69% 1445 77,47% 397 21,28% Tổng 2697 89 3,3% 1983 73,52% 625 23,17% Nguồn: báo cáo của bộ lao động xã hội Giai đoạn 1995 – 1999 xảy ra 307 cuộc, chiếm 11,38%; giai đoạn 2000 ­  2004 xảy ra 525 cuộc, chiếm 19,46%. Như vậy, mức độ  xảy ra đình công có  xu hướng tăng nhanh ở các năm về sau. Trong giai đoạn 2005 ­ 2009, số cuộc   đình công tăng gấp 6,07 lần so với giai đoạn 1995 ­ 1999 và gấp 3,55 lần so   với giai đoạn 2000 ­ 2004. Phân loại đình công theo ngành nghề  sản xuất, kinh doanh của doanh  nghiệp cho thấy, đình công chủ yếu xảy ra ở ngành dệt may (năm 2008 chiếm   8
  9. 40,28% và 4 tháng đầu năm 2009 là 67,3%); cơ  khí, chế  biến, da giày (tương   ứng 30,84% và 23,08%); các ngành còn lại chiếm 28,88% (năm 2008) và 4  tháng đầu năm 2009 chiếm 9,62%. Các cuộc đình công, về cơ bản, không theo   đúng trình tự và thủ tục, quy trình mà pháp luật quy định, kể  cả  từ  ngày 1­7­ 2007, là thời điểm Luật Sửa đổi, bổ sung một số điểm của Bộ luật Lao động  (chương XIV về giải quyết tranh chấp lao động và đình công) có hiệu lực thi  hành. Hầu hết các lý do mà công nhân đưa ra để họ tổ chức đình công ở tất cả  các doanh nghiệp đều tập trung vào các vấn đề, như  làm tăng ca, điều kiện  làm việc, sinh hoạt không bảo đảm, lương thưởng quá thấp, không lo đủ  cho   cuộc sống, thực hiện một số nội quy, quy định quá khắc nghiệt đối với người   lao động nên không những không khuyến khích người lao động tăng năng suất   mà còn có tác động ngược trở lại… Trong các số  liệu trên hầu hết các cuộc đình công  ở  các doanh nghiệp  có vốn đầu tư nước ngoài, sự chênh lệch như vậy có thể do các nguyên nhân   sau:  Do các doanh nghiệp FDI trả lương quá thấp. Ở nước ta, năm 2008 tiền  lương bình quân của công nhân trong các DN FDI thấp nhất, chỉ bằng khoảng   75% so với các doanh nghiệp dân doanh và 60% so với các doanh nghiệp nhà  nước. Trong khi đó điều kiện lao động và cường độ làm việc lại quá hà khắc.  Điều đó dẫn đến sự bất bình và là nguyên nhân dẫn đến đình công. Do sự  khác biệt về  văn hoá và hành vi công nghiệp trong các DN FDI.  Sự  khác biệt về  hành vi  ứng xử  có thể  gây nên sự  thiếu hiểu biết lẫn nhau,  làm cho quan hệ chủ thợ trở nên căng thẳng. Hơn nữa, sự căng thẳng này lại   không được giải toả kịp thời do thiếu sự đối thoại cần thiết giữa chủ và thợ,   giữa quản lý và nhân viên dẫn đến sự bùng phát mâu thuẫn và hệ quả tất yếu  của nó là đình công.  9
  10. Do cung cách quản lý. Người nước ngoài quen với cách quản lý đòi hỏi   tác phong làm việc công nghiệp, trong khi đó người Việt lại không quen với   cung cách này. Điều đó sẽ  tạo nên mâu thuẫn và việc thiếu cơ  hội giải toả  mâu thuẫn thông qua đối thoại và thương lượng có thể  làm cho mâu thuẫn   bùng phát. Ngoài ra, có thể  do hệ  thống thanh kiểm tra hoạt động chưa hiệu quả. Hoạt   động  của  hệ  thống thanh  tra  lao  động  chưa  bao  phủ  hết  được  các  doanh  nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước dẫn đến hiện tượng không hiểu luật, vi   phạm pháp luật lao động  ở  các doanh nghiệp này khá phổ  biến. Sự  vi phạm   đó là “mầm mống” làm phát sinh mâu thuẫn, nhiều khi dẫn đến đình công. 2.3. Địa bàn diễn ra đình công Hầu hết các cuộc đình công diễn ra  ở  khu vực miền nam, tập trung   nhiều khu công nghiệp lớn như Tp Hồ Chí Mình, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai. Bảng 2: Số lượng các cuộc đình công phân theo địa bàn từ năm 1995 ­ 2011 TP Hồ  Bình  Đồng  Năm Chí  Tỉnh, TP khác Tổng số Dương Nai Minh số vụ % số vụ % số vụ % Số vụ % 1995 60 28 46,7 12 20,0 6 10,0 14 23,3 1996 59 29 49,2 8 13,6 17 28,8 5 8,5 1997 59 37 62,7 0 0,0 14 23,7 8 3,6 1998 62 44 71,0 6 9,7 5 8,1 7 1,3 1999 67 33 49,3 19 28,4 12 17,9 3 4,6 2000 70 34 48,6 19 27,1 6 8,6 11 15,7 2001 90 38 42,2 35 38,9 7 7,8 10 1,1 2002 99 44 44,4 20 20,2 14 14,1 21 21,2 2003 142 57 40,1 27 19,0 32 22,5 26 18,3 2004 124 44 35,5 11 8,9 43 34,7 26 21,0 2005 152 52 34,2 7 4,6 41 27,0 52 34,2 2006 390 108 27,7 139 35,6 95 24,4 48 12,3 2007 551 109 19,8 217 39,4 106 19,2 119 21,7 10
  11. 2008 720 165 22,9 127 17,6 167 23,2 261 36,2 2009 218 70 32,1 35 16,1 35 16,1 78 35,8 2010 424 67 15,8 127 30,0 140 33,0 90 21,2 2011 978 268 27,4 218 22,3 196 20,0 296 30,3 Tổng số 4265 1227 28,8 1027 24,1 936 21,9 1075 25,2   Nguồn: Vụ Lao động – Tiền lương ­ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Theo số  liệu  ở  bảng trên, tính từ  năm 1995 đến nay thì  ở  TP Hồ  Chí  Minh số cuộc đình công chiếm 28,8%, Bình Dương 24,1%, Đồng Nai 21,9%. Ví   dụ   như   các   vụ   đình   công   tại   các   doanh   nghiệp   Sam   Yang,   Huê   Phong,..  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh; Doanh Đức  ở  Bình Dương; King Toys  ở  Đà Nẵng; Canon  ở  Hà Nội và nhiều doanh nghiệp khác  ở  Đồng Nai, Hải   Phòng, Hưng Yên, Hải Dương…   2.4. Một số cuộc đình công trong thời gian qua Cuộc đình công ngày 15­4­2011 ­Hai ngàn công nhân của một hãng sản  xuất giày  ở  Hải Phòng và 2,000 công nhân của một công ty sản xuất đồ  nội   thất của Nhật Bản đầu tư đã đình công đòi tăng lương và các quyền lợi khác. Theo bản tin báo Lao Ðộng, ngày 13 tháng 4, khoảng 2,000 công nhân  của nhà máy giày Sao Vàng thuộc công ty TNHH Ðỉnh Vàng (huyện An Lão,  Hải Phòng) đã nhất loạt đình công. Theo nguồn tin, nguyên nhân dẫn đến việc  này đã được tập thể công nhân gửi cho ban giám đốc hai ngày trước đó. Ngoài  đòi tăng lương lên thành 2.2 triệu đồng/tháng, họ đòi chi trả tiền nhà trọ, tiền  xăng xe, tiền gửi xe, tăng tiền thưởng ngày lễ  mà phải làm, không được lấy   tiền   thuốc   của   công   nhân   khi   đau   ốm   nằm   tại   phòng   y   tế   của   nhà   máy,  v.v.Cho đến chiều ngày 14 tháng 4, công nhân vẫn chưa chịu đi làm trở  lại.   Công nhân của công ty này đã đình công rất nhiều lần từ gần chục năm qua. 11
  12. Hơn 4000 nghìn công nhân đình công đòi tăng lương tại huyện Châu  Thành Tây Ninh. Sáng 25.2, 760 công nhân Công ty TNHH Han And Young  Việt Nam (cụm công nghiệp Thanh Điền, xã Thanh Điền, H.Châu Thành, Tây  Ninh) đã ngừng việc tập thể do bị cắt giảm chế độ tiền thưởng hằng năm. Nội dung: Một số công nhân cho biết sau Tết Tân Mão, công ty đồng ý  tăng lương thêm 10% theo thỏa thuận từ  năm trước; nhưng sau đó lại đơn   phương cắt các khoản tiền thưởng đang áp dụng. Ngoài ra, công nhân còn yêu   cầu công ty tăng tiền ăn trưa bởi hiện mỗi bữa chỉ có 4.000 đồng. Cùng ngày, tại KCN Trảng Bàng, hơn 3.000 công nhân Công ty TNHH   Hoa Sen (may mặc) cũng đã đình công yêu cầu tăng lương. Các ngành chức  năng đã trực tiếp tổ  chức cuộc đối thoại giữa công ty và người lao động   nhưng chưa có kết quả. Tại KCN Nội Bài (Hà Nội), hàng trăm công nhân Công ty TNHH NCI   (100% vốn Nhật Bản, chuyên về in ấn) cũng đã ngừng việc tập thể, yêu cầu   lãnh đạo công ty tăng lương, phụ cấp và cải thiện môi trường làm việc. Cuộc đình công tại Công ty TaeKwang Vina: Sáng 13.1.2011, khoảng   8.000 công nhân đang làm việc ca 1 tại Công ty TaeKwang Vina (đóng tại   KCN Biên Hòa 2, TP Biên Hòa, Đồng Nai; chuyên sản xuất giày da, 100% vốn  Hàn Quốc) đồng loạt đình công. Các công nhân đề nghị công ty phải công khai  thang bảng lương, có chế  độ  phù hợp với công nhân nữ  về  thai sản, không   được  trừ   tiền công  nhân nghỉ   bệnh, công  bố  mức  thưởng  tết…Nội  dung:  Chiều cùng ngày, Sở LĐ­TB­XH Đồng Nai cùng các ban ngành vận động công   nhân trở lại làm việc, đồng thời thương lượng với công ty về những yêu cầu  của công nhân đưa ra. Sáng ngày 15.1.2011, gần 500 công nhân thuộc bộ  phận Gò – Thành  phẩm, Xí nghiệp 2, Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Hữu Nghị (đóng  12
  13. tại Khu công nghiệp An Đồn, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng) đã đồng loạt đình  công do công ty không rõ ràng về tiền lương và chế độ đãi ngộ. Ngày 25­2­2011, hàng trăm công nhân thuộc công ty TNHH NCI, 100%  vốn Nhật Bản, chuyên về  in  ấn tại Khu công nghiệp Nội Bài đã ngừng việc  tập thể,  yêu cầu lãnh  đạo công ty tăng lương, phụ  cấp và cải thiện môi   trường làm việc tại doanh nghiệp.   2.5. Nguyên nhân các cuộc đình công 2.5.1. Về phía người lao động Hầu hết người lao động ở nước ta có trình độ học vấn thấp, công nhân  trong các khu công nghiệp chỉ tốt nghiệp lớp 9, một số công nhân bậc cao học   xong trung học phổ thông, sau đó đi đào tạo học nghề, hoặc vào làm việc trực   tiếp trong khu công nghiệp không qua đào tạo. Người lao động ít được trang bị  các kiến thức pháp luật về quyền và nghĩa vụ lao động. Trình độ chuyên môn,  tay nghề chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh. Trong các khu công nghiệp, các máy móc công nghệ  hiện đại đòi hỏi  người lao động phải có tay nghề  mới đáp  ứng được công việc, ngược lại  người lao động  ở  nước ta ý thức chấp hành kỷ  luật, tác phong công nghiệp  còn hạn chế, họ bị gò bó trong kỷ luật lao động công nghiệp, thu nhập thấp,   quyền lợi bị  vi phạm nên làm cho họ  dễ  bị  kích động dẫn tới đình công tự  phát. Đa số  công nhân chưa có sự  am hiểu sâu sắc về  pháp luật, trình độ  nhận thức còn hạn chế, lại nóng vội, do đó hầu hết các cuộc đình công xảy ra   trong thời gian qua đều mang tính tự  phát và không theo quy định của pháp  luật. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục xảy ra, công nhân có thể  không những   không đòi được quyền lợi chính đáng cho mình, mà còn phải bồi thường thiệt   hại cho doanh nghiệp. 2.5.2. Về phía người sử dụng lao động 13
  14. Người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động ngày càng nhiều.  Tính các cuộc đình công xảy ra từ 1995 đến nay thì có đến 90% nguyên nhân là  do người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động bởi càng vi phạm thì  người sử dụng lao động càng có lợi. Các nguyên nhân chính trước hết là nguyên nhân về  lợi ích kinh tế.   Người lao động đình công vì nhiều lý do, trong đó 80% liên quan đến chế  độ  tiền lương như mức lương thấp, không phù hợp với giá cả sức lao động, tiền   lương không phù hợp với công sức mà họ bỏ ra. Bên cạnh đó, người sử dụng   lao động còn không tăng lương theo cam kết, kéo dài thời gian, trong khi giá  cả, lạm phát tăng nhanh khiến người lao động gặp khó khăn trong cuộc sống,   nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao động và người sử  dụng lao động, những   người lao động liên kết nhau lại đòi tăng lương. Nhiều doanh nghiệp nợ lương, trả lương chậm hoặc giữ lương không  trả  cho người lao động. Tính đến 30.9.2011, toàn ngành GTVT có 2.542 công   nhân thiếu việc làm, 8.362 người phải nghỉ việc luân phiên. Số tiền các doanh   nghiệp nợ BHXH là 120 tỉ đồng, nợ lương công nhân trên 88 tỉ  đồng (số liệu  này chưa tính tới các DN của Tập đoàn CN Tàu thủy VN đang trong quá trình   tái cơ cấu).  Thực tế  cho thấy, mâu thuẫn quan hệ  lao động chủ  yếu xảy ra  ở  các doanh  nghiệp ngoài quốc doanh với 80% tranh chấp liên quan đến vấn đề  lương  nhưng tại đây mới chỉ có 20% đơn vị có hệ thống thang bảng lương.   Các doanh nghiệp vi phạm quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi rất   phổ  biến. Công nhân phải làm việc từ  10 ­ 12 giờ/ngày, 60 ­ 72giờ/tuần, cao   gấp 1,2 ­ 1,5lần so với quy định của Bộ Luật Lao động. Để tăng năng suất sản  phẩm, hàng hóa, nhiều doanh nghiệp còn áp đặt người lao động làm tăng ca  liên tục với cường độ  cao trong khi không có chế  độ  bồi dưỡng, thù lao trả  lương không hợp lý. Người sử  dụng lao động có thái độ  trù dập, đối xử  thô  14
  15. bạo với người la động. Hai bên chưa hiểu rõ phong tục tập quán và ngôn ngữ  của nhau. Cùng với nền kinh tế  thị  trường ngày càng phát triển, năng động, các  doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt. Để  chiếm ưu thế  thị trường buộc các  doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản  xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trong khi đó, người lao động lại muốn được cải  thiện điều kiện lao động, tăng lương, thưởng và các chế  độ  khác, dẫn đến  mâu thuẫn phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động. Người sử  dụng lao động còn vi phạm Luật Lao động về  đóng BHXH,  BHYT... Tính đến 30/9/2011 các doanh nghiệp trong ngành GTVT nợ BHXH là  120 tỉ đồng. Với việc thực hiện các chế  độ  tiền lương chưa thỏa đáng, điều kiện   làm việc hạn chế, tình trạng vi phạm này kéo dài, liên tục đã dẫn đến người   lao động phải tìm một phương thức chung mà họ có thể đòi hỏi quyền lợi của   mình. 2.5.3. Ảnh hưởng của chính sách đầu tư Chính sách đầu tư  của Việt Nam thu hút cả  nhà đầu tư  trong nước và   quốc tế. Cách đây 5 năm về  trước, việt nam là điểm đến hấp dẫn thứ  2, sau   Trung Quốc đối với các nhà đầu tư  nước ngoài khi muốn tìm kiếm một thì  trường đang phát triển. các nhà máy lớn từ Mỹ Nhật Đức… ồ ạt tiến vào Việt   Nam vì có giá nhân công rẻ. hàng chục nhà sản xuất Hàn Quốc và Đài Loan   trong nhiều ngành nghề, từ  đồ  nội thất đến hàng may mặc, cũng di dời nhà  máy từ  miền nam Trung Quốc, nơi mà mức lương lao động cao gấp 3 lần,   sang Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự đầu tư nhiều như vậy nhưng Việt Nam   thường xuyên xảy ra đình công. + Khi có được các nguồn đầu tư  tại Việt Nam, nhà nước lại chưa có  các quy định cụ  thể  để  tránh xảy ra các tranh chấp lao động. Tại các địa   15
  16. phương có nhà đầu tư  thì cơ  quan liên đoàn lao động quản lý chưa theo sát,   kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp cũng như là xem xét mối quan hệ giữa  chủ  lao động và người lao động. Khi có mâu thuẫn xảy ra giữa người lao  động và người sử  dụng lao động thì không có hoặc có tổ  chức công đoàn   nhưng tổ  chức này chưa thực hiện vai trò là đại diện của người lao động   đứng ra thương lượng hòa giải. Khi có tranh chấp xảy ra, do không có chủ thể  đứng ra lãnh đạo tiến hành hòa giải thương lượng nên nhìn chung có xảy ra  mâu thuẫn là đình công, không theo quy định của pháp luật. Ví dụ về vụ đình công tự phát gần đây, “Chủ đài loan đổ keo 502 lên tay  nữ  công nhân Việt Nam”, tại doanh nghiệp này chỉ  khi xảy ra vụ  việc công  nhân tự  phát đình công, không có sự  thương lượng hòa giải giữa các bên và  sau đó thì cơ quan liên đoàn lao động mới biết và đến kiểm tra doanh nghiệp   cũng như tìm hiểu sự việc. Nhà nước đi đôi với chính sách thúc đẩy đầu tư  cần giảm sát quản lý.   Cần nghiên cứu hình thành cơ  chế  cán bộ  công đoàn cơ  sở  ăn lương của tổ  chức công đoàn, không kiểm nhiệm, không ăn lương của doanh nghiệp, phải  trở thành một tổ chức có tính độc lập bảo vệ quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư  vào Việt   Nam, họ  có phong tục tập quán khác nước ta, khác biệt về  ngôn ngữ, rất dễ  xảy ra mâu thuẫn thì cơ  quan liên đoàn lao động địa phương phải có trách   nhiệm quản lý. + Lạm phát: Nhà nước chưa thực hiện nhất quán các vấn đề, để xảy ra   tình trạng lam phát cao. Chính phủ  không kiểm soát được lạm phát, những  năm qua lạm phát tăng quá nhanh  ảnh hưởng đến mức sống người dân. Lạm  phát tăng nhanh khiến các chủ  doanh nghiệp phải đối mặt với sức ép tiền   lương liên tục tăng. Tuy nhiên trình độ  người lao động lại chưa tăng tương  16
  17. xứng với mức tiền lương. Các cuộc đình công xảy ra do mức lương không đủ  để họ chi trả cuộc sống hàng ngày. + Việt Nam nhận những ngành nghề đầu tư có máy móc thiết bị đã cũ,  sản xuất sản phẩm thải khí độc ra môi trường. Việt Nam được coi là bãi rác  công nghiệp của thế giới, nơi sử dụng máy móc công nghệ mà nước ngoài bỏ  đi, chúng ta sản xuất sản phẩm, quy trình mà nước ngoài không còn sử  dụng  nữa thì chúng ta lại dùng nó. Sản xuất tạo ra khí thải độc hại làm ảnh hưởng  môi trường tự nhiên và con người. Người lao động làm trong môi trường độc  hại đó bị ảnh hưởng đến sức khỏe, sống trong điều kiện môi trường ô nhiễm,  điều kiện sống tạm bợ. Doanh nghiệp không đáp  ứng chỗ   ở  cho công nhân,  chính quyền địa phương không có chính sách xây dựng nhà  ở  cho công nhân.  Công nhân phải đi thuê trọ, chi phí sinh hoạt gia tăng trong khi tiền lương  không tăng, các chế độ  chính sách không được đảm bảo, nhiều doanh nghiệp   không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,… cho người lao động. Chính vì thế  nhiều nhiều công nhân bỏ  viêc, các cuộc đình công liên  tiếp   diễn   ra.   Ví   dụ:   ngày   26/12/2009   gần   2000   công   nhân   công   ty   TNHH  Maxtric tại khu công nghiệp Bắc Vinh (Nghệ  An) đình công vì tất cả  các   quyền lợi không được đảm bảo. Công ty thường xuyên đuổi việc công nhân  không rõ ràng, người bị  ốm đau không được nghỉ, gần 100% chị em nghỉ sinh   không có chế độ, nhiều trường hợp nghỉ sinh công ty còn cho nghỉ việc. 17
  18. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ĐÌNH CÔNG  TẠI VIỆT NAM 3.1. Tổ chức công tác trọng tài và hòa giải Cần kiện toàn các tổ chức làm công tác trọng tài và hoà giải và nâng cao   năng lực hoạt động của các tổ chức này.           Cần nâng cao năng lực hoạt động của các tổ  chức trên thông qua việc   đào tạo và huấn luyện cán bộ  làm công tác hoà giải, trọng tài. Song song với   giải pháp này, các tổ  chức hoà giải nên chủ  động thiết lập một mạng lưới  cung cấp thông tin về tranh chấp lao động với các doanh nghiệp, các khu công  nghiệp, khu chế xuất và chủ động liên hệ với các doanh nghiệp để tiến hành   hoà giải, tư vấn cho doanh nghiệp mời sự tham gia của tr ọng tài lao động khi  hoà giải không thành. 3.2. Đối thoại khi đình công xảy ra Hai bên đại diện người sử  dụng lao động và đại diện người lao động  gặp mặt, trao đổi về nguyên nhân xảy ra đình công. Trong cuộc đối thoài này,  doanh nghiệp nên giải thích cho những người đại diện của người lao động về  tính hợp pháp của cuộc đình công và những điều nên làm theo quy định của  pháp luật, cũng như gợi ý ra một số giải pháp. Ngược lại bên đại diện người   lao động đưa ra những lý do đình công và mong muốn của họ. Từ đó tác động  tích cực đến hành động của những người đại diện cho người lao động. Nếu   họ  nhận ra đây là một cuộc đình công trái pháp luật cùng với những hậu quả  18
  19. có thể  phải gánh chịu trong trường hợp doanh nghiệp đưa vấn đề  ra tòa, các  thỏa thuận của hai bên sẽ có nhiều khả năng nhanh chóng đạt được. 3.3. Tổ chức công đoàn cơ sở Tiếp tục hoàn thiện quy định về tổ chức công đoàn cơ sở và tăng cường  hoạt động của tổ chức này. Cần xác định: Việc tham gia công đoàn của công nhân là hoàn toàn tự  nguyện, những   người tham gia công đoàn buộc phải đóng công đoàn phí; Việc bầu Ban Chấp hành công đoàn cơ sở phải dựa trên tín nhiệm thực   sự của công nhân, khuyến khích công nhân bầu những người thực sự có uy tín  và nhiệt huyết để họ lựa chọn được “thủ lĩnh” thật sự làm Chủ tịch công đoàn  cơ  sở. Không kết nạp những người giữ vị  trí quản lý (cấp trưởng phòng trở  lên) vào Công đoàn đối với các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước vì  thực chất, họ là những người đại diện cho giới chủ; Ban Chấp hành công đoàn cơ  sở, đặc biệt là Chủ  tịch công đoàn cần  được cấp phí hoạt động công đoàn theo nguồn trích từ công đoàn phí của công   đoàn viên để khuyến khích sự hoạt động của họ. 3.4. Tìm hiểu về doanh nghiệp đầu tư của nước ngoài VCCI nên tổ  chức các lớp tập huấn phổ biến về văn hoá Việt Nam và  Luật  lao động Việt Nam  cho người nước ngoài làm quản lý  ở  các doanh   nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài. Đồng thời, phía các doanh nghiệp có vốn   đầu tư  nước ngoài nên tổ  chức giới thiệu văn hoá của nước bỏ  vốn đầu tư  cho cán bộ  và công nhân Việt Nam làm việc  ở  doanh nghiệp đó. Có thể  ban   hành quy định ở cấp quốc gia về vấn đề này. Thông qua hoạt động giới thiệu văn hoá nói trên, có thể  hạn chế  được   những tranh chấp lao động xuất phát từ sự khác biệt về văn hoá. 3.5. Về phía người sử dụng lao động 19
  20. Người sử  dụng lao động cần xây dựng tổ  chức công đoàn cơ  sở  vững   mạnh. Cần có tổ  chức công đoàn trong nội bộ  doanh nghiệp và phải tách  quyền lợi của công đoàn ra khỏi quyền lợi của người sử dụng lao động. Công  đoàn sẽ  giúp người sử  dụng lao động chủ  động thương lượng và tìm giải  pháp thích hợp trong trường hợp ban đầu có tranh chấp tập thể hay đình công   xảy ra sau đó. Người sử dụng lao động cần xem xét vấn đề như các chính sách lương  thưởng, chế  độ  phúc lợi, đãi ngộ, chế  độ  bỏa hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,  đồng thời điều chỉnh phù hợp với diễn biến của thị trường lao động, chi phí  sinh hoạt người lao động và mức lạm phát hiện nay; tăng cường đối thoại,   chia sẻ  thông tin, kịp thời nắm bắt tâm tư và giải quyết các kiến nghị  hợp lý  của người lao động. Cần sớm nhận biết các dấu hiệu của một cuộc đình công sắp xảy ra để  chuẩn bị và có những giải pháp thích hợp. Vấn đề quan trọng hơn, mang tính   chất phòng ngừa từ xa, vẫn là xây dựng các chính sách lao động, thời gian làm   việc, thang lương, phụ cấp trong nội bộ doanh nghiệp một cách hợp lý, đảm  bảo cuộc sống cho người lao động. Sử dụng các kênh đối thoại trong doanh nghiệp để hiểu người lao động  của mình cần gì, có nhu cầu ra sao và tìm phương án giải quyết nhanh chóng...  Cán bộ  làm công tác quản trị  nhân lực kết hơp cùng công đoàn và ban giám  đốc thường xuyên tổ  chức họp hội; thăm hỏi, nói chuyện trực tiếp và xây   dựng hộp thư  góp ý để  người lao động có điều kiện gặp gỡ, đề  đạt những  thắc mắc cũng như  những tâm tư, nguyện vọng có liên quan đến quá trình  phát triển của công ty”… 3.6. Quản lý nhà nước Tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của các cơ  quan quản lý nhà  nước. Cần tiến hành định biên lại và tăng biên chế cho thanh tra lao động, ban   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2