intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận "Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán"

Chia sẻ: Nguyen Thi Thuy Hang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

1.055
lượt xem
355
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kiểm toán là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường nhằm nâng cao chất lượng thông tin, giúp người sử dụng ra quyết định thích hợp. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh với kênh cung cấp vốn từ thị trường chứng khoán và ngân hàng đòi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận "Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán"

  1. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh Trường………………… Khoa………………….. TIỂU LUẬN Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 1
  2. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh MỤC LỤC Phần I: Khái quát chung về Kiểm toán ............................................................................. 4 I. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam ................................................................................................................................................. 4 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới............................ 4 II. Khái niệm Kiểm toán ......................................................................................................... 8 3. Vai trò của Kiểm toán nội bộ......................................................................................... 19 Phần III: Những kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của kiểm toán .................. 28 1. Yêu cầu đặt ra đối với Kiểm toán ................................................................................ 28 4. -Thực trạng đội ngũ kiểm toán viên ở Việt Nam .................................................. 29 Tài liệu tham khảo: ................................................................................................................. 43 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 2
  3. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh Kiểm toán là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường nhằm nâng cao chất lượng thông tin, giúp người sử dụng ra quyết định thích hợp. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh với kênh cung cấp vốn từ thị trường chứng khoán và ngân hàng đòi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao. Xã hội ngày càng phát triển, nền kinh tế ngày càng phức tạp, thông tin kinh tế càng có nguy cơ chứa đựng rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Đối tượng quan tâm đến thông tin tài chính của doanh nghiệp không phải chỉ có Nhà Nước mà còn có các cấp quản lý, đối tác liên doanh và cả người lao động… Tuy từ nhiều gốc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng quan tâm đều có nguyện vọng chung là sử dụng thông tin có độ tin cậy cao, độ chính xác và trung thực. Nếu tất cả những người quan tâm đều phải tự tổ chức kiểm tra các thông tin tài chính của doanh nghiệp thì chi phí quá lớn. Vì vậy cần thiết phải có tổ chức độc lập, khách quan tiến hành kiểm tra các thông tin này để đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng sử d SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 3
  4. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh ụng thông tin, đó chính là tổ chức kiểm toán. Xuất phát từ những đặc điểm trên nên em đã chọn đề tài “Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán”. Đề tài của em gồm 3 phần: Phần I: Khái quát chung về kiểm toán Phần II: Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán tại Việt Nam Phần III|: Những kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của kiểm toán Phần I: Khái quát chung về Kiểm toán I. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới và tại Việt Nam 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, Kiểm toán ra đời vào thế kỷ thứ III TCN, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu Kiểm toán chỉ hình thành ở mức độ sơ khai với tên gọi là Kiểm toán cổ điển. Biểu hiện là những người làm công việc ghi chép kế toán đọc to lên những số liệu, tài liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Vì vậy từ “AUDIT” trong tiếng Anh có gốc từ Latinh “ Audire" có nghĩa là nghe. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 4
  5. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của kế toán là sự phát triển không ngừng của công cụ kiểm soát về kế toán. Ở đâu có hoạt động của con người ở đó có hoạt động kiểm tra, kiểm soát, ở đâu có kế toán ở đó có kiểm tra kế toán. Kiểm tra kế toán phát triển từ thấp đến cao, xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và càng phức tạp thì kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính ngày một được quan tâm với mức độ cao. Từ thời kỳ cổ đại, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên các sợi dây, thân cây, lá cây. Hình thức này phù hợp với giai đoạn đầu của thời kỳ cổ đại do xã hội còn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra của quản lý còn ít và ở mức độ đơn giản. Đến cuối thời kỳ cổ đại, sản xuất đã phát triển, của cải dư thừa ngày càng nhiều, người sở hữu và người quản lý tài sản tách rời nhau. Nhu cầu kiểm tra tài sản và các khoản thu, chi ngày càng phức tạp, hình thức kế toán giản đơn không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý. Vì vậy kiểm tra độc lập đã phát sinh trước hết ở La Mã, Pháp và Anh. Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III TCN các nhà cầm quyền (người sở hữu tài sản) đã tuyển dụng các quan chức có chuyên môn và độc lập để kiểm tra các báo cáo của người quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu cầu sửa đổi các báo cáo này. Hình thức kiểm tra được thực hiện bằng cách người quản lý đọc to các báo cáo cho người kiểm tra độc lập nghe rồi chấp nhận. Ở Pháp, vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển các quan chức cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị cận thần. Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors), bản thân vua cũng cho đối chiếu lại các tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 5
  6. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh Từ trung đại trở đi, đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán, chẳng hạn với các khoản giao dịch đã buộc cả 2 bên cùng ghi sổ, do đó phát sinh quan hệ đối chiếu như một hình thức kiểm tra kế toán. Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, sự xuất hiện của kế toán kép do một nhà toán học người Ý là Luca Paciola đã khiến cho phương pháp tự kiểm tra của kế toán hoàn thiện hơn, đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản lúc bấy giờ. Từ thế kỷ XVII – XX, các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát triển đến mức tinh xảo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quản lý. Đến năm 30 của thế kỷ XX xuất hiện sự phá sản của các tổ chức tài chính và khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính chức năng kiểm tra kế toán mới bộc lộ những nhược điểm, đòi hỏi phải có sự kiểm tra ngoài kế toán và kiểm toán được phát triển trở lại. Năm 1934, uỷ ban giao dịch chứng khoán đã được thành lập và quy chế về kiểm toán viên bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời trường đào tạo kiểm toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty. Năm 1941, viện Kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập đã đi vào hoạt động và đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời viện đã xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978. Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những chuyên viên bên ngoài đã được xác lập và thông qua bởi đạo luật về các công ty thương mại ngày 24/07/1966. Đồng thời kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính thức vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại quốc. Từ lịch sử phát triển Kiểm toán, nhận thấy rằng Kiểm toán ra đời là do nhu cầu kiểm tra độc lập các số liệu kế toán và thực trạng tài chính của các doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển Kiểm toán không chỉ giới hạn ở lĩnh vực kế toán tài chính mà được mở rộng sang các lĩnh vực kiểm soát, đánh giá cả hệ thống quản lý của doanh nghiệp; SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 6
  7. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp kinh doanh mà còn được mở rộng đến các đơn vị sự nghiệp công cộng với vấn đề đánh giá lại hiệu năng quản lý của các đơn vị này. 2. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán tại Việt Nam Ở Việt Nam, Kiểm toán nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã được quan tâm ngay từ khi bắt đầu xây dựng đất nước. Trước năm 1975, ở miền Nam nước ta đã có hoạt động Kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập dưới chế độ Việt Nam cộng hòa thời Mỹ Diệm. Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986) từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, ngày 13/05/1991 Bộ tài chính đã kí hai quyết định thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là công ty kiểm toán Việt Nam được thành lập lấy tên là VACO với 13 nhân viên và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch ASC sau này đổi tên là công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán – AASC (quyết định 639- TC/QĐ/TCCB ngày 14/09/1993). Số lượng công ty kiểm toán đã tăng lên đáng kể và loại hình công ty cũng đa dạng hơn, tính đến tháng 10/2006 ở Việt Nam đã có 81 công ty kiểm toán trong đó có 75 công ty đã đăng ký hoạt động tại BTC, gồm 3 DNNN (VACO, AASC, AISC) 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài (P&C, HPMG, E&Y, Grant Thomtion), 1 công ty liên doanh, 5 công ty hợp danh, 123 công ty cổ phần và công ty TNHH. Cùng với sự phát triển của kiểm toán độc lập, kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo NĐ số 70/CP ngày 11/07/1994 của chính phủ và đến ngày 13/08/2003 được thay bằng NĐ số 93/2003/NĐ-CP. Ngày 14/06/2005 luật kiểm toán Nhà Nước được Quốc hội ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006. Đến nay kiểm toán Nhà nước có 9 đơn vị kiểm toán khu vực : Khu vực I ( Hà Nội); Khu vực II (Vinh); Khu vực III (Đà Nẵng); Khu vực IV (TP HCM); Khu vực V (Cần Thơ); Khu vực VI (Hạ Long); Khu vực VII (Yên Bái); Khu vực VIII (Khánh Hòa); Khu vực IX (Tiền Giang). Đồng thời kiểm toán nội bộ cũng đã được thành lập trong các doanh nghiệp có quy mô lớn như: Tổng công ty hàng không, bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực,... SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 7
  8. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh II. Khái niệm Kiểm toán 1.Khái niệm Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động tài chính bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. 2. Các yếu tố chính trong khái niệm Kiểm toán 2.1. Chủ thể Kiểm toán Chủ thể Kiểm toán là các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền. Giữa các KTV và các nhà quản lý trong công ty không có mối quan hệ thân thiết với nhau. KTV cần phải giải quyết mâu thuẫn một cách thành thực, không lẫn trốn trách nhiệm của mình trước các cổ đông , phải độc lập về kinh tế cũng như độc lập về hoạt động nghiệp vụ. KTV hoạt động theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ và chịu trách nhiệm trước pháp luật. 2.2. Phương pháp Kiểm toán Thu thập và đánh giá các bằng chứng. Bằng chứng là thông tin mà KTV sử dụng để xác định xem liệu thông tin đang được kiểm toán có được trình bày phù hợp với các chuẩn mực hay không. 2.3. Khách thể Kiểm toán Khách thể Kiểm toán là các tổ chức, đơn vị, cá nhân… nơi có những thông tin cần kiểm toán. Tùy từng loại kiểm toán mà khách thể kiểm toán có sự khác nhau. Tổ chức kinh tế có thể là tổ chức pháp nhân như một DNNN, một công ty cổ phần, một công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân…Trong một số trường hợp đặc biệt tổ chức được xác định là một phân xưởng, cửa hàng hoặc thậm chí là một cá nhân. Thời gian kiểm toán thường là 1 năm tuy nhiên cũng có trường hợp kiểm toán 1 kỳ, 1 quý, 1 tháng hoặc là vài năm và trong một số trường hợp là thời gian tồn tại của tổ chức đó. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 8
  9. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh 2.4. Căn cứ Kiểm toán Căn cứ thực hiện Kiểm toán đó là các chuẩn mực kiểm toán đã được thiết lập. Còn căn cứ để đánh giá đối tượng kiểm toán được chọn và sử dụng tùy theo mục tiêu của kiểm toán. 2.5. Báo cáo Kiểm toán Đây là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán. Tùy theo mục đích, tính chất của cuộc kiểm toán mà báo cáo kiểm toán đi từ báo cáo đơn giản đến phức tạp. Nội dung báo cáo kiểm toán phải thông tin cho người sử dụng thông tin về mức độ phù hợp giữa thông tin số lượng và chuẩn mực đã được thiết lập. Phần II: Sự cần thiết và vai trò của Kiểm toán tại Việt Nam I. Sự cần thiết của Kiểm toán Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý. Kiểm toán là một công cụ quản lý phát triển từ thấp lên cao, gắn liền với hoạt động kinh tế của con người. Từ khi kế toán ra đời con người biết khai thác công cụ kế toán vào quản lý. Kế toán cung cấp thông tin phục vụ quản lý. Xã hội ngày càng phát triển thông tin kế toán càng được mở rộng, đa dạng, phức tạp và chứa nhiều rủi ro. Đồng thời xuất hiện nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kế toán như Nhà nước, chủ doanh nghiệp, cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng, các tổ chức tín dụng, người bán, người mua, người lao động,…Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau: -Khoảng cách lớn giữa người sử dụng thông tin và người cung cấp thông tin và sự điều chỉnh có lợi cho người cung cấp thông tin. Xã hội càng phát triển kéo theo hoạt động kinh tế càng phát triển, mở rộng và đa dạng. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản ngày càng tăng, các thông tin được cung cấp ngày càng bị hợp pháp hóa và thành tích hóa có lợi cho người cung cấp thông tin. -Khối lượng thông tin quá nhiều. Xã hội càng phát triển thông tin càng phong phú, đa dạng và khối lượng càng nhiều khả năng chứa đựng những thông tin sai lệch trong những thông tin đúng đắn ngày càng tăng. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 9
  10. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh -Tính phức tạp của thông tin và nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng. Xã hội càng phát triển hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, các nghiệp vụ và thông tin ngày càng phức tạp, nguy cơ chứa đựng thông tin sai lệch là khó tránh khỏi. -Khả năng thông đồng trong xử lý thông tin có lợi cho người cung cấp thông tin ngày càng lớn. Xã hội càng phát triển các hiện tượng tiêu cực càng tinh vi với mức độ gia tăng. Khả năng cấu kết, thông đồng đem lại lợi ích cho người cung cấp thông tin ngày càng lớn, rủi ro thông tin ngày càng cao. Để giảm thiểu rủi ro thông tin có 3 cách: - Người sử dụng thông tin tự kiểm tra thông tin mà mình sử dụng. Việc này không hiệu quả lại tốn kém không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác còn bị giới hạn bởi năng lực của người sử dụng thông tin. - Người sử dụng thông tin chia sẻ rủi ro thông tin với người quản lý doanh nghiệp hay người cung cấp thông tin. Cách này có thể được thỏa thuận hai bên nhưng nó không thể chia sẻ được khi người cung cấp thông tin bị giải thể hoặc phá sản. Lúc này mọi hậu quả đều dồn về người sử dụng thông tin. -Sử dụng thông tin trên BCTC khi đã được kiểm toán độc lập xác nhận. Cách này rất hiệu lực, phát huy tính chuyên môn hóa sâu sắc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tiết kiệm chi phí, đảm bảo lợi ích vật chất và tránh được hậu quả cho người sử dụng thông tin. Đồng thời gắn chặt giữa trách nhiệm pháp lý và vật chất của kiểm toán viên với những nhận xét, kết luận mà họ đã đưa ra. Mặt khác, kiểm tra kế toán được thực hiện thông qua cơ chế duyệt quyết toán chủ yếu được tiến hành trên tài liệu, giấy tờ là chính chứ chưa đi sâu vào hoạt đông của doanh nghiệp. Chẳng hạn việc xét duyệt quyết toán thường được thực hiện vào quý I hoặc quý II năm sau nên việc xác định tài sản thực tế của doanh nghiệp vào thời điểm kiểm kê (31/12 năm trước) có tồn tại thật hay không. Một số vấn đề khác như công nợ, giá trị của tài sản… cần sử dụng các kỹ thuật như xác nhận, điều tra… cũng không thực hiện được mà thường chỉ chấp nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu kế toán. Do những hạn chế SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 10
  11. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh này, nên việc duyệt quyết toán không thể phát hiện thực trạng tài chính yếu kém chuyên kinh doanh, mua bán lòng vòng để gian lận trong việc vay vốn ngân hàng huy động từ các đối tượng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp vì các chứng từ, tài liệu đã được hợp pháp bằng nhiều cách. Chỉ có kiểm toán với các kỹ thuật thu thập bằng chứng phong phú thích hợp mới có thể tạo niềm tin cho người sử dụng thông tin bằng những xác nhận khách quan và độc lập về thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Các tác giả nghiên cứu đều thống nhất rằng nhu cầu kiểm toán xuất hiện từ khi có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, khai thác kinh doanh các tài sản, tiền vốn. Từ những hình thức đơn giản khi các thương gia giao các tài sản của mình cho người khác quản lý và kinh doanh đến các hình thức phức tạp, hoàn thiện hơn là hình thái các công ty cổ phần trong đó các cổ đông không trực tiếp quản lý điều hành hoạt động công ty mà do một nhóm các nhà quản lý đại diện thực hiện chức năng quản lý kinh doanh. Những người thực hiện chức năng quản lý kinh doanh này được hưởng thu nhập dưới hình thức cố định (tiền lương) hoặc biến đổi theo kết quả kinh doanh. Dù dưới hình thức nào thì có rất nhiều lý do dẫn đến khả năng báo cáo tài chính do những người này lập nên và đệ trình lên chủ sở hữu, các cổ đông có thể sẽ không phản ánh trung thực về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh hoặc ít nhất là thiếu khách quan. Điều này làm phát sinh yêu cầu phải có giải pháp để chủ sở hữu, các cổ đông có cơ sở để tin tưởng rằng báo cáo do các nhà quản lý lập nên là phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận đồng thời bảo vệ được quyền lợi của những người quản lý. Đây chính là lý do cho sự ra đời và phát triển của kiểm toán. Mặt khác, thực tế hầu như và không thể mọi chủ sở hữu, các cổ đông đều có điều kiện và khả năng để soát xét các sổ sách kế toán và báo cáo tài chính của công ty. Do vậy chủ sở hữu, các cổ đông bổ nhiệm kiểm toán viên thay thế họ để làm việc đó và báo cáo lại cho họ. Các kiểm toán viên kiểm tra và báo cáo lại một cách độc lập khách quan về tình hình tài chính của họ, đồng thời, chủ sở hữu, các cổ đông tin tưởng rằng với kiểm toán các hành vi gian lận SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 11
  12. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh hoặc thiếu trung thực của các nhà quản lý sẽ không có cơ hội thực hiện, do đó kiểm toán là cần thiết và được xem như là một sự đảm bảo. Hơn nữa, với nền kinh tế phát triển như hiện nay sự ra đời của kiểm toán là rất cần thiết bởi: -Về khách quan: Do có sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt nam, tất sẽ phát sinh nhu cầu cần phải có hoạt động kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn của bản thân các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đây là thông lệ và cũng là yêu cầu của công ty mẹ. Mặt khác về phía quản lý nhà nước cũng cần phải có được thông tin đáng tin cậy để đánh giá thực trạng đầu tư cũng như thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong khi không thể áp dụng các hình thức duyệt quyết toán như đối với các doanh nghiệp nhà nước. -Về chủ quan: Khi tính chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp được phát huy, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, theo đó các yêu cầu thông tin kinh tế trung thực và đáng tin cậy là hết sức quan trọng. Các thông tin này không chỉ phục vụ cho cho một đối tượng là nhà nước mà còn phục vụ cho nhiều các đối tượng khác như Ngân hàng (tư cách là người cho vay), đối tác kinh doanh, người lao động,… II. Vai trò của Kiểm toán 1.Vai trò chung Từ những nghiên cứu có thể tháy rõ vai trò của Kiểm toán trên nhiều mặt:  Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong cơ chế thị trường có rất nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán và BCTC. Trong đó có thể kể đến: - Các cơ quan Nhà nước: cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật. - Các đơn vị được kiểm toán: giúp đơn vị kiểm toán thấy rõ chân dung và thực lực của mình, đánh giá chính xác thực trạng tài chính, thẩm định đúng kết quả kinh doanh để có biện pháp quản lý, điều hành phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 12
  13. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh - Các nhà đầu tư: cần thông tin tin cậy để có hướng dẫn đúng, điều hành sử dụng vốn đầu tư. Các nhà đầu tư ở đây không chỉ trong nước mà còn cả nước ngoài. Họ cần sự xác nhận vô tư và trung thực của kiểm toán mới yên tam và tin tưởng khi bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. - Ngân hàng và các tổ chức tín dụng: căn cứ vào kết quả kiểm toán để xem xét tình hình cho các doanh nghiệp vay khi cần thiết và khả năng thu hồi nợ. - Người lao động: cần có thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, về lợi nhuận phân phối, về thực hiện chính sách tiền lương và bảo hiểm...nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh. - Khách hàng và nhà cung cấp: cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, về tài chính của các đơn vị kiểm toán về nhiều mặt: số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hóa, cơ cấu tài sản và khả năng thanh toán của đơn vị được kiểm toán. Tất cả các những đối tượng này, họ đều có nguyện vọng chung là được sử dụng thông tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực.  Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và ổn định cũng cố hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị kiểm toán nói chung. Thông qua kiểm toán khi phát hiện sai sót kiểm toán viên chỉ dẫn và đề nghị doanh nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp doanh nghiệp ổn định và kinh doanh hiệu quả. Hoạt động kiểm toán không những cũng cố hoạt động tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính.  Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả quản lý. Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư vấn cho các doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán nhằm kinh doanh hiệu quả, hạn chế rủi ro. Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị được kiểm toán thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia quản lý giỏi theo cơ chế thị trường chưa nhiều, các doanh nghiệp đứng trước một SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 13
  14. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh cơ chế thị trường đầy phức tạp và cạnh tranh gay gắt vì lợi nhuận. Tính chất xã hội, môi trường, hiện tại, tương lai, xu hướng đa phương hóa đầu tư và mở rộng quan hệ có lợi kinh tế ngày càng mở rộng. Trong điều kiện đó để ổn định, duy trì kỹ cương, kinh doanh hiệu quả, phát triển đúng hướng...chỉ có thể tiến hành trên cơ sở sử dụng đồng bộ và hiệu quả các công cụ quản lý đặc biệt là kiểm toán. 2.Vai trò của Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan và sử dụng thông tin của đơn vị được kiểm toán như: chính phủ, cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư... và cũng rất hữu ích cho chính các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán. Tổ chức Kiểm toán độc lập đóng vai trò là một bên độc lập (bên thứ ba) thực hiện chức năng thẩm định thông tin do một đơn vị báo cáo và đưa ra lời xác nhận về mức độ tin cậy của các thông tin này. Từ BCTC đã được Kiểm toán độc lập xác nhận người sử dụng sẽ có cơ sở tin cậy cho việc đưa ra các quyết định, các đối sách thích hợp. Nhà đầu tư quyết định duy trì, mở rộng hay thu hẹp mức độ đầu tư. Nhà cung cấp quyết định duy trì, tăng cường hay giảm thiểu mức độ cung cấp vật tư, hàng hóa... Mặt khác, kết quả Kiểm toán độc lập còn giúp cho đơn vị được kiểm toán hiểu biết lại mình một cách khách quan hơn. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động Kiểm toán độc lập ra đời và trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp có được lập trên cơ sở các SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 14
  15. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và các thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không. Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho người sử dụng thì các BCTC phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lý. Việc các quy định mang tính pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Kiểm toán độc lập không thể thiếu được của hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có được các thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục tiêu chính là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính, các KTV thông qua quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói chung. Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập thì SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 15
  16. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lý của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp. Do vậy kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ngoài những đóng góp tích cực nêu trên cho nền kinh tế, kiểm toán độc lập còn là hoạt động dịch vụ và như vậy nó tạo ra giá trị cho nền kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập quốc dân, nâng cao nguồn thu cho ngân sách. Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế. Lực lượng này đã truyền đạt nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế cho các doanh nghiệp, tổ chức cũng như những đồng nghiệp. Ngoài ra, các tổ chức kiểm toán độc lập còn chính là trung tâm tư vấn thuế. Công ty kiểm toán độc lập tư vấn thuế cho các doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật về thuế là rất cần thiết. Họ không chỉ là cung cấp cho các công ty mới được thành lập thông qua các dịch vụ như tư vấn kê khai các loại thuế, hướng dẫn các nội dung của các luật thuế, giải đáp thắc mắc trong lĩnh vực thuế mà còn cung cấp dịch vụ kiểm toán, dịch vụ về thuế cho các công ty đã hoạt động tại Việt Nam vì các doanh nghiệp này muốn có sự hiểu biết chắc chắn về pháp luật thuế, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp nếu gặp rủi ro bị phạt thuế hoặc phải trả chi phí rất cao cho nhân viên có kinh nghiệm về thuế. Đặc biệt là đối với các công ty đa quốc gia, dịch vụ tư vấn thuế ngoài việc giúp các công ty này chấp hành tốt pháp luật về thuế để tăng uy tín kinh doanh trên thị trường toàn cầu còn giúp cho doanh nghiệp chủ động được việc nộp thuế của mình tại mỗi quốc gia. Khi mà quy mô hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, các chủ đầu tư thuê quản lý kinh doanh thì họ luôn luôn yêu cầu sổ sách kế toán phải minh bạch, các rủi ro vi phạm pháp luật phải được kiểm soát và hạn chế đến mức thấp nhất. Đây cũng là lý do mà các công ty này đòi hỏi phải sử dụng dịch vụ Kiểm toán độc lập và tư vấn thuế. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 16
  17. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh Ngày nay, trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều các công ty Việt Nam (các tổng công ty lớn và các doanh nghiệp cổ phần) sử dụng dịch vụ tư vấn thuế thay vì chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như trước đây. Bên cạnh các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp cổ phần đang ngày càng phát triển đã bùng nổ sự ra đời của các doanh nghiệp tư nhân, các chủ hộ kinh doanh, các cá nhân hành nghề độc lập... các loại hình doanh nghiệp này rất cần sự trợ giúp, hướng dẫn từ thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký thuế, mua hóa đơn, kê khai và quyết toán thuế... vì họ thiếu kinh nghiệm và không bố trí nhân viên làm kế toán... Bên cạnh đó, Chính phủ đang áp dụng Luật thuế Thu nhập cá nhân, chính vì vậy đã phát sinh thêm vô cùng nhiều người phải kê khai thuế, quyết toán thuế và tất yếu những người nộp thuế thu nhập cá nhân này lại phải tìm đến công ty tư vấn thuế, đại lý thuế để giúp họ thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước được đầy đủ, đúng, không nộp quá, không lạm thu, xử lý thủ tục hoàn thuế được kịp thời... Thông qua hoạt động kiểm toán và tư vấn thuế, các công ty Kiểm toán độc lập đã góp phần tăng cường công tác quản lý thuế, cụ thể: - Công ty Kiểm toán độc lập là một kênh cung cấp thông tin cho cơ quan thuế về các vướng mắc về thuế phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế cho doanh nghiệp với chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực này, công ty kiểm toán độc lập đã phát hiện ra những bất cập về chính sách thuế trong quá trình thực hiện. Ngoài chức năng tư vấn, giải thích cho doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách thuế thì công ty kiểm toán còn đóng vai trò tổng hợp, phân tích các bất cập về chính sách thuế trong quá trình thực hiện. Các vướng mắc, kiến nghị về thuế của doanh nghiệp do các công ty kiểm toán cung cấp thường được tổng hợp từ nhiều doanh nghiệp, đã được phân tích, đánh giá và có cơ sở vì vậy có tính thuyết phục cao. Điều này đã giúp cho các cơ quan Nhà nước hiểu rõ hơn SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 17
  18. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, sự bất cập của chính sách thuế hiện hành và từ đó có thể có những cải cách chính sách thuế một cách hoàn thiện hơn. - Công ty Kiểm toán độc lập đại diện cho các doanh nghiệp đề xuất chính sách thuế áp dụng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong từng thời kỳ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặc dù cơ chế chính sách thuế của Việt Nam trong thời gian qua đã có những đổi mới theo chiều hướng tích cực, tuy nhiên chính sách thuế hiện nay vẫn đang nằm trong quá trình cải cách, chuyển đổi và từng bước hoàn thiện để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do đó không thể tránh khỏi các vướng mắc, sự không đồng nhất trong quá trình thực hiện. Để khắc phục và giảm thiểu vấn đề này, Bộ Tài chính và cơ quan thuế đã tiến hành các cuộc hội thảo, đối thoại với doanh nghiệp nhằm trao đổi, tháo gỡ các vướng mắc về thuế. Tuy nhiên, với vai trò là kiểm toán, tư vấn thuế, các công ty Kiểm toán độc lập đã đóng vai trò tư vấn, cung cấp thông tin, thông lệ quốc tế và chia sẻ kinh nghiệm với cơ quan hoạch định chính sách thuế khi các cơ quan này ban hành một chính sách thuế mới hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách thuế. Do đó, Kiểm toán độc lập cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc giúp đỡ cơ quan hoạch định chính sách thuế tạo nên một khung pháp lý về thuế ngày càng trở nên minh bạch, rõ ràng và thống nhất. - Công ty Kiểm toán độc lập đã giúp cho đối tượng nộp thuế tăng cường sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật về thuế thông qua việc kiểm toán, tư vấn thuế cho các doanh nghiệp. - Kiểm toán độc lập đã góp phần ngăn ngừa tình trạng gian lận, trốn thuế. - Các công ty Kiểm toán độc lập đã gián tiếp làm giảm các vụ khiếu kiện, tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế. Sau 19 năm hoạt động (từ năm 1991 đến nay), Kiểm toán độc lập ở Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng, quy mô, các công ty kiểm toán độc lập và số lượng KTV từng bước nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ cung cấp. Đến nay cả SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 18
  19. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh nước đã có 140 DN dịch vụ kế toán, kiểm toán với trên 4.600 người làm việc, có gần 1500 người được cấp chứng chỉ KTV. Hầu hết các dịch vụ cung cấp cho khách hàng ngày càng được tín nhiệm, được xã hội thừa nhận. Thông qua hoạt động dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính – kế toán các doanh nghiệp, tổ chức có thể nắm bắt kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đường lối chính sách kinh tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý, tạo lập được những thông tin tin cậy, và tăng cường lòng tin của người sử dụng các thông tin tài chính, từng bước đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp đi vào nề nếp…Có thể nói hoạt động kiểm toán độc lập đã xác định được vị trí trong nền kinh tế thị trường, góp phần ngăn ngừa và phát hiện lãng phí, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện công khai minh bạch báo cáo tài chính (BCTC), phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, điều hành kinh tế-tài chính, của doanh nghiệp và Nhà nước. 3. Vai trò của Kiểm toán nội bộ Nếu như Kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được 19 năm thì cho đến nay, khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn chưa được phổ biến với nhiều nhà quản lý (ra đời năm 1997). Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị ở một số doanh nghiệp lớn của Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết của Kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp. Trên thế giới, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu nhưng chỉ phát triển từ sau các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty. Trong khi hoạt động của Kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của Kiểm toán nội bộ không bị giới hạn ở bất SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 19
  20. Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh kỳ phạm vi nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán hàng đến quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của Kiểm toán nội bộ là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho đối tác bên ngoài. Kiểm toán nội bộ không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty. Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Kiểm toán nội bộ là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu của hệ thống quản lý doanh nghiệp. Nhờ nó mà Ban giám đốc và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn một khi quy mô và độ phức tạp của doanh nghiệp vượt quá tầm kiểm soát trực tiếp của một nhóm người. Có Kiểm toán nội bộ như thêm “tai, mắt” cho Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Điều này làm tăng niềm tin của cổ đông vào chất lượng quản lý và kiểm soát nội bộ, tăng giá trị doanh nghiệp. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, các công ty có kiểm toán nội bộ thì thường khả năng gian lận thấp và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn. Một doanh nghiệp có kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng niềm tin của các cổ đông, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ thống quản trị ở đây. Các thống kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng kiểm toán nội bộ thường có báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính xác cao, khả năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với các công ty không có phòng kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết các lợi ích trên và có biện pháp để hiện thực hóa các lợi ích đó. Nhiều doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng được ba mục tiêu bắt buộc của phát triển bền vững. Đó là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Kết quả là tam giác ba mục tiêu này không thực sự mở rộng ở cả ba góc trong quá trình tăng trưởng một cách đồng bộ. Thay vào đó là bị co méo ở hai góc kia, tăng trưởng tuy có đạt, nhưng hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc không ngang tầm với sự tăng trưởng. SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3 Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2