intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp nhằm sử dụng lao động hiệu quả ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ

Chia sẻ: Nguyen Loan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

112
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau 16 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có sự phát triển đáng kể và đạt được những thành quả to lớn cả về kinh tế và xã hội. Những thành quả hiện nay đạt được phải kể đến vai trò rất lớn của nguồn lao động. Lao động trước hết là yếu tốt con người cho nên nó là yếu tố trung tâm của mọi xã hội. Lao động là yếu tố không thể thiếu được trong mọi quá trình sản xuất ra của cải vật chất cũng như tinh thần phục vụ cho mọi nhu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp nhằm sử dụng lao động hiệu quả ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ

  1. TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp nhằm sử dụng lao động hiệu quả ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ
  2. Phần thứ nhất Đặt vấn đề 1.1. tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau 16 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có sự phát triển đáng kể và đạt được những thành quả to lớn cả về kinh tế và xã hội. Những thành quả hiện nay đạt được phải kể đến vai trò rất lớn của nguồn lao động. Lao động trước hết là yếu tốt con người cho nên nó là yếu tố trung tâm của mọi xã hội. Lao động là yếu tố không thể thiếu được trong mọi quá trình sản xuất ra của cải vật chất cũng như tinh thần phục vụ cho mọi nhu cầu của xã hội. Lao động có năng suất và hiệu quả là nhân tố quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất con người luôn tìm tòi học hỏi để nâng cao năng suất lao động, cải tiến các công cụ lao động, sáng tạo ra công cụ mới, tư liệu thay thế tốt hơn. Như vậy, các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng hơn, tiến bộ hơn cả về số lượng và chất lượng, các công cụ lao động, thiết bị máy móc ngày càng hiện đại hơn, tinh vi hơn, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng được khai thác sủ dụng có hiệu quả, hữu ích hơn. Bên cạnh đó, lao động còn mang tính chất xã hội sâu sắc, nó gắn liền với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về an ninh xã hội, công bằng và trật tự xã hội. Vì vậy, sự phát triển của xã hội luôn luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. ở mỗi chế độ xã hội khác nhau sẽ có mối quan hệ lao động và sở hữu khác nhau. Trong thời đại hiện nay mối quan hệ lao động chủ yếu biểu hiện dưới hình thức, giữa người lao động với người sử dụng lao động( các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động cho các mục đích sản xuất kinh doanh dịch vụ thông qua hợp đồng lao động. Việt nam là nước có dân số đông tốc độ phát triển dân số cao (khoảng 1,8%) dân số. Mức ra tăng lực lượng lao động bình quân hàng năm là 1,24 triệu lao động (nhịp độ tăng bình quân 2,8%/năm). Thời kỳ 1996 – 2000 tính đến 1/7/2000 tổng lao động cả nước có 38.643.089 người, phần lớn lao động này sống ở nông thôn ( chiếm 78,25%), tỷ lệ người có việc làm thường xuyên 94,12% và theo dự báo đến năm 2010 tổng số người trong tuổi sẽ lên tới 58 triệu chiếm 60,6%. 1,3 triệu lao động (nhịp độ tăng bình quân 2,5%/năm) của thời kỳ 2001- 2010, càng cho thấy Việt nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào, đồng thời cũng đặt ra nhu cầu lớn phải đào tạo tay nghề nghiệp vụ. Thực trạng trình độ chuyên của lao động còn thấp và đặc biệt tỷ lệ thất nghiệp còn rất cao. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
  3. đã có nhiều biện pháp nhằm tạo thêm công ăn việc làm bằng cách khôi phục các ngành nghề truyền thống, đầu tư mở rộng ngành nghề mới, ngành nghề kỹ thuật đơn giản để sử dụng nhiều lao độngkhuyến khích đầu tư quốc tế vào việt nam, xây dựng vùng kinh tế mới khai hoang, trồng rừng. Đặc biệt để tránh tình trạng tụt hậu về trình độ lao động Đảng và Nhà nước đẵ đặt vấn đề giáo dục - đào tạo nâng cao chất lượng chuyên môn cho người lao động là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, song song với việc đó là đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý để họ bố trí sử dụng lao động ngày càng hiệu quả. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích tình hình lao động để tìm ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề lao động, việc làm là vấn đề cấp bách của xã hội hiện nay. Giải quyết vấn đề này nhằm phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả cho người lao động. Việc làm đó không chỉ là vấn đề giải quyết sự phát triển của nền kinh tế xã hội trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn góp phần bình ổn xã hội, giải quyết các mâu thuẫn, các tệ nạn trong xã hội do nạn thất nghiệp gây ra. Thực tế Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ là Xí nghiệp mới thành lập, chế độ quản lý lao động còn gặp nhiều khó khăn, nằm trong tình trạng chung của các doanh nghiệp thời kỳ đầu phát triển, không tránh được những lúng túng trong sản xuất kinh doanh nói chung và công tác tổ chức quản trị lao động nói riêng. Nhìn chung, sau khi thành lập đến nay thu nhập của người lao động thấp, đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán bộ công nhân viên chưa được quan tâm đúng mức. Sau những nỗ lực to lớn của lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp, tình hình chung của xí nghiệp có nhiều chiều hướng phát triển. Để tồn tại và phát triển ổn định thì ban lãnh đạo Xí nghiệp cần tiến hành nhiều đổi mới, đổi mới cách tổ chức và quản lý lao động, đổi mới cách tiếp cận thông tin hiện đại trong công tác quản lý lao động và công tác marketing. Xuất phát từ vấn đề trên, sự đồng ý của Bộ môn Kinh tế lượng – Khoa Kinh tế & PTNT – Trường đại học Nông nghiệp I Hà Nội, sự đồng ý của Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ cùng sự giúp đỡ nhiết tình của thầy giáo hướng dẫn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm sử dụng lao động hiệu quả ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung
  4. Từ việc khảo sát thực trạng sử dụng lao động ở xí nghiệp,qua phân tích các yêu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả lao động, đưa ra những nhận xét khoa học, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng lao động, hiệu quả lao động, năng suất lao động cho Xí nghiệp xây dựng công trình- Tổng công ty xây dựng đường thuỷ 1.2.2. Mục tiêu cụ thể + Trình bầy hệ thống cơ sở khoa học về các vấn đề lao động + Khảo sát thực trạng sử dụng lao động ở Xí nghiệp xây dựng công trình + Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả lao động ở Xí nghiệp + Đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng lao động hiệu quả cho Xí nghiệp 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài xác định người lao động là đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xét trên các góc độ số lượng, cơ cấu lao động, chất lượng lao động và các vấn đề có liên quan đến lao động 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài * Giới hạn về không gian “Đề tài nghiên cứu ở Xí nghiệp xây dựng công trình – Tổng công ty xây dựng đường thuỷ ” * Giới hạn về thời gian Đề tài thu thập số liệu chủ yếu về lao động ở xí nghiệp trong những năm gần đây (ít nhất 3 năm) Phần thứ hai Tổng quan tài liệu nghiên cứu 2.1.Cơ sở lý luận 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản về lao động 2.1.1.1. Sức lao động Sức lao động là năng lực lao động của con người, là toàn bộ thể lực và trí lực
  5. của con người. Sức lao động là yếu tố lao động tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao động. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động để tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống gồm 3 phần hợp thành (các nguồn lực, quá trình sản xuất, sản phẩm hành hoá) thì sức lao động là một trong các nguồn lực khởi đầu của sản xuất (đầu vào) để tạo ra sản phẩm hàng hoá đầu ra Như vậy, sức lao động là tổng hợp sức thân thể, sức thần kinh, sức bắp thịt có sẵn trong mỗi con người. Nó phản ánh khả năng lao động của con người và là điều kiện kiên quyết của mọi quá trình sản xuất. Quá trình lao động riễn ra chính là sự kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất trong đó sức lao động là yếu tố chủ thể quyết định, tư liệu sản xuất là yếu tố khách thể không thể thiếu được. 2.1.1.2 Lao động Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên. Như C.Mác đã nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất, điều đó có nghĩa là không thể thiếu lao động. Lao động là nguồn gốc và động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động càng tiến bộ. Đối với Việt Nam, khi đất nước đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động phải được đánh giá ở nhiều khía cạnh mới, cụ thể là: Thứ nhất, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của con người phải được coi trọng. Bởi vì lao động là biểu hiện bản chất của con người còn lợi ích của người lao động là vấn đề nhạy cảm nhất, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ con người với con người, quan hệ cá nhân với xã hội.
  6. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì lao động được xem xét trên các khía cạnh năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thứ ba là, bất kỳ một hình thức lao động nào của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu xã hội, tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích đảm bảo nuôi sống mình, không ăn bám vào người khác và xã hội, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được coi là có ích. Các.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng - Lao động cụ thể: lao động cụ thể là lao động có ích dưới mọi hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục riêng, phương pháp riêng, công cụ riêng. Đối tượng vào kết quả lao động riêng. Thí dụ, lao động của người xây dựng, thợ mộc, thợ may… là những lao động cụ thể. Kết quả của lao động cụ thể là tạo ra một dụng cụ nhất định - Lao động trừu tượng: Lao động trừu tượng là lao động xã hộicủa người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức cụ thể của nó. Các loại lao động cụ thể có điểm chung giống nhau như là sự tiêu hao cơ bắp, thần kinh, bộ óc sau một quá trình lao động. Đó chính là lao động trừu tượng Ngoài ra người ta còn phân biệt lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp: Lao động giản đơn là lao động cụ thể mà mọi người bình thường có thể làm được. Còn Lao động phức tạp là lao động cụ thể phải trải qua huấn luyện chuyên môn. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn ( lao động phức tạp là lao động giản đơn nhân bội lên). Trong quá trình trao dổi hàng hoá mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình và được thể hiện trên thi trường. * Phân biệt sức lao động và lao động
  7. Lao động là hoạt đọng có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể trong tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể sống của con ngườicó thể vận dụng trong quá trình lao động sản xuất. Như vậy, sức lao động chỉ mới là khả năng của lao động , còn lao động là sự tiêu hao sức lao động trong thực hiện. 2.1.1.3. Năng suất lao động và Cường độ lao động * Cường độ lao động Cường độ lao động là mức khẩn trương về lao động. Trong cùng một thời gian, mức chi phí năng lượng bắp thịt, trí não, thần kinh của con người càng nhiều thì cường độ lao động càng cao, C.Mác gọi cường độ lao động là “Khối lượng (lao động) bị ép vào trong một thừi gian nhất định” hoặc còn gọi là “ những số lượng lao động kkác nhau bị tiêu phí trong cùng một thời gian”. Tăng cường độ lao động có nghĩa là tăng thêm chi phí lao động trong một đơn vị thời gian, nâng cao độ khẩn trương của lao động làm cho của cải vật chất sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng thêm, nhưng không làm thay đổi giá trị của một đơn vị sản phẩm vì chi lao động cũng đồng thời tăng lên tương ứng. * Năng suất lao động Năng suất lao động (NSLĐ) là “Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích”(1). Nó nói lên hoạt động sản xuất có mực đích của con người trong một đơn vị htời gian nhất định Năng suất lao động được đo băng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian; bằng lượng thời gian hao phí dể sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. - Năng suất lao động cá thể là sức sản xuất của một lao động cụ thể. Nó được đo bằng số lượng sản phẩm làm ra của một lao động trong một đơn vị thời gian hoặc bằng lượng thời gian hao phí của một lao động cụ thể sản xuất ra một đơn vị sản phẩm - Năng suất lao động bình quân là sức sản xuất bình quân một lao động trong một đơn vị thời gian nhất định - Vấn đề tăng năng suất lao động :
  8. Tăng năng suất lao động là “ Sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất lao động, nói chung chúng ta hiểu là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, sao cho số lượng lao động ít hơn mà lại có sức sản xuất ra nhiều giá thị sử dụng hơn”(2). Tăng năng suất lao động không phải là một hiện tượng kinh tế thông thường mà là một quy luật kinh tế chung cho mọi hình thái xã hội. Nhưng, điều đó không có nghĩa là, sự tăng năng suất lao động trong tất cả mọi hình thái xã hội đều giống nhau. Trái lại do trình độ lực lượng sản xuất khác nhau, nên biểu hiện quy luật tăng năng suất lao động không giống nhau. Dưới chế độ nô lệ, mức năng suất lao động thấp, nguyên nhân chủ yế là sản xuất chỉ dựa chủ yéu vào sức người và sức động vật công cụ còn thô sơ. Dưới chế độ phong kiến, năng suất lao động xã hội tăng lên chậm chạp. Vì lẽ, hệ thống công cụ lao động chủ yếu vẫn là thủ công, ít có sự biến động. Đến khi xuất hiện máy móc, năng suất lao động tăng lên gấp bội bỏ xa thời kỳ lao động bằng tay. Ngày nay nhờ có nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật loài người có cả một hệ thống công cụ lao động hiện đại nên đạt tới năng suất lao động xã hội rất cao so với trước đây. Khả năng này không dừng lại mà đang ngày càng tiến xa hơn nữa. * Tăng năg suất lao động khác với cường độ lao động như sau: Tăng năng suất lao động nghĩa là, giảm chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm. Trong thời gian như nhau, năng suất lao động càng cao thì số lượng giá trị sử dụng sản xuất ra càng nhiều, nhưng giá trị sáng tạo khong vì thế mà tăng lên. Vì, đi đôi với năng suất lao động tăng, thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá giảm bớt. Do đó, giá trị của đơn vị hàng hoá thấp xuống. C. Mác viết : “ nói chung, sức sản xuất của lao động càng lớn thì thời gian lao động tất yếu để sản xuất ra một sản phẩm sẽ càng ngắn và khối lượng lao động kết tinh trong vật phẩm đó càng nhỏ, thì giá trị của vật phảm đó càng ít. Ngược lại sức lao động sản xuất càng ít thì htời gian lao động tất yếu để sản xuất ra một sản phẩm sẽ càng dài và giá trị của nó càng lớn. Như vậy, số lượng của giá trị đơn vị hàng hoá thay đổi tỷ lê thuận với số lượng lao động thể niện trong hàng hoá đó và thay đổi tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động đó”(3) Tăng cường độ lao động có nghĩa là tăng thêm chi phí lao động trong một đơn vị thời gian, nâng cao độ khẩn trương của lao động cho của cải vật chất sản xuất ra trong một đơn
  9. vị thời gian tăng thêm, nhưng không làm thay đỏi giá trị của một đơn vị sản phẩm vì chi phí lao động cũng đồng thời tăng thêm tương ứng. Chính vì vậy C. Mác đã phân biệt kết quả khác nhau do tăng năng suất lao động và do tăng cường độ lao động như sau: “ nếu năng suất lao động tăng thì trong cùng một thời gian, sẽ tạo ra tạo ra được nhiều sản phẩm hơn , nhưng không tạo ra đượng nhiều giá trị hơn, mà cũng tạo ra nhièu giá trị hơn,vì lúc đó, số sản phẩm trội ra mà có”. Như vậy, ta thấy trong cả hai trường hợp mức sản xuất đều tăng lên ; nhưng trường hợp thứ nhất không cần tăng thêm chi phí lao động, còn trường hợp thứ hai chính là do tăng thêm các chi phí này. Tuy nhiên hai khái niệm năng suất lao động và cường độ lao động không hoàn toàn tách rời nhau (mặc dù không giống nhau ). Vì rằng, cường độ lao động cũng là một nhân tố làm tăng năng suất lao động . 1.1.1.4. Thời gian lao động Thời gian lao động là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm (hoặc hoàn thành một công việc), để biểu hiện năng suất lao động, giảm chi phí thời gian lao động trong sản xuất một đơn vị sản phẩm dẫn tới tăng năng suất lao động Thời gian lao động là bộ phận quan trọng của thời gian nói chung. Sử dụng thời gian lao động là vấn đề cốt lõi sử dụng lao động. Sử dụng tốt thời gian lao động là nội dung cơ bản của vấn đề tổ chức lao động khoa học. Suy cho cùng tổ chức lao động chính là tổ chức sử dụng thời gian lao động. - Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian làm việc cần thiết của xã hội để sản xuất một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường với trình độ kỹ thuật trung bình. - ý nghĩa của nó trong sản xuất hàng hoá: Căn cứ vào thời gian lao động xã hội để tính giá trị của hàng hoá và từ đó đem trao đổi trên thị trường. 2.1.1.5. Một số vấn đề có liên quan đến lao động * Khái niệm việc làm
  10. Việc làm là phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và lao động , nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có những khái niệm khác nhau về việc làm : Theo H.A. Gorelop thì “Việc làm là mối quan hệ sản xuất nảy sinh do sự kết hợp giữa cá nhân người lao động và phương tiện sản xuất”. Theo Huy- Hanto (Viện Hải ngoại London) thì “Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động kinh tế của một xã hội, là tất cả những gì liên quan đến cách thức kiếm sống của con người kể cả quan hệ sản xuất và các tiêu chuẩn hành vi tạo ra khuôn khổ của quá trình kinh tế . Đối với Việt Nam, Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua đã khẳng định: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Với một số khái niệm về việc làm cho thấy hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: - Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật. - Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc thu nhập cho gia dình mình nhưng không được trả công ( bằng tiền hoăc hiện vật ) cho công việc đó. * Khái niệm Thất nghiệp - Khái niệm: Thất nghiệp là tình cảnh của những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc. Người thất nghiệp, theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam, là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc: + Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động tìm việc trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được; + Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn và sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc.
  11. + Khi đánh giá về tình hình thất nghiệp, người ta thường dùng chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ này tính bằng phần trăm của số người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động), theo công thức sau: sè ng­ êi thÊt nghiÖp Tû lÖ thÊt nghiÖp = (%) x100 Lùc l ­ îng lao ®éng Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao sẽ ảnh hưởng xấu đến cả tình hình kinh tế lẫn xã hội. Chính vì thế, các quốc gia phải thường xuyên đưa ra những chính sách, biện pháp để giải quyết vấn đề này. - Phân loại thất nghiệp Thất nghiệp là hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó. Thất nghiệp được chia thành các loại sau: + Phân theo loại hình thất nghiệp Thất nghiệp là một gánh nặng, nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào vv…Cần biết những điều đó để hiểu rõ ràng về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại … của thất nghiệp trong thực tế. Theo tiêu thức này, ta có: Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ), thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề) thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn…), thất nghiệp chia theo ngành nghề, thất nghiệp chia theo thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) thất nghiệp chia theo dân tộc , chủng tộc v.v… + Phân loại theo lý do thất nghiệp Theo lý do thất nghiệp, ta chia thành các loại sau dây : Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, hợp vùng… Mất việc: Các công ty cho thôi việc do những khó khăn trong kinh doanh. Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác…)
  12. Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. + Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp. Theo cách phân loại này, ta có : Thất nghiệp tạm thời: xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm. Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung, cầu giữa các loại lao động (giữa các ngành, nghề, khu vực…). Loại này gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động (tổ chức đào tạo lại, môi giới …) Thất nghiệp do thiếu cầu: xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này thường gắn với thời kỳ suy thoái của chu kì kinh doanh nên còn gọi là thất nghiệp chu kì. Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này xảy ra khi chính phủ hoặc công đoàn ấn định mức lương cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động… * Tình trạng việc làm và thất nghiệp - Việc làm đầy đủ Việc làm đầy đủ là việc làm cho phép người lao động có điều kiện sử dụng hết thời gian lao động theo quy định. Trong thống kê lao động – việc làm ở Việt Nam thì người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ; hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40, nhưng không có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40, nhưng lớn hơn hoặc bằng giờ quy định đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành. Số giờ quy định ở trên có thể được thay đổi theo từng năm hoặc từng thời kỳ. - Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả
  13. Việc làm hợp lý là sự phù hợp về số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã hội cao. Việc làm hợp lý còn là việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hiệu quả là việc làm đem lại mức thu nhập cao cho người lao động. Việc làm không hiệu quả là việc làm đem lại thu nhập thấp, không đủ cho các chi tiêu cơ bản trong đời sống của người lao động hoặc mức thu nhập từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập tối thiểu trong xã hội . - Thiếu việc làm Thiếu việc làm là tình trạng việc làm trong đó người lao động không sử dụng hết thời gian quy định và nhận được thu nhập thấp từ công việc khiến họ có nhu cầu làm thêm. Theo khái niệm dùng trong thống kê lao động-việc làm ở Việt Nam, người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định hiện hành của Nhà nước, có nhu cầu làm thêm và đã sẵn sàng làm việc nhưng chưa có việc làm (trừ những người có số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc). Tình trạng thiếu việc làm còn gọi là bán thất nghiệp. Người lao động ở trong tình trạng này thường là lao động nông thôn, theo mùa vụ, lao động khu vực thành thị không chính thức (khu vực phi kết cấu), lao động ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn, lao động khu vực Nhà nước dôi dư. Tỷ lệ người thiếu việc làm là phần trăm số người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động). Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động là phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế. * Khái niệm tiền lương
  14. Người lao động sau quá trình lao động nhận được một khoản tiền đó là tiền lương. Khi phân tích về nền kinh tế TBCN, C.Mác viết: “Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động mà chỉ là hình thái cải trang của giá trị hay giá cả sức lao động”. Tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh té xã hội khác nhau. Tiền lương trước là số tiền mà người sử dụng lao động (mua sức láo động) trả cho người lao độn(người bán sức lao động ). Đó là quan hệ kinh tế của tiền lương. Mặt khác, do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá sức lao động mà tiền lương không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống và trật tự xã hội. Đó là quan hệ xã hội.v.v.v.. Trong quá trình hoạt động, nhất là trong hoạt động kinh doanh, đối với các chủ doanh nghiệp, tiền lương là phần chi phí cáu thành chi phí sản xuất kinh doanh. Vì vậy, tiền lương luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động củ họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích hết thẩy của người lao động. Mục đích này theo động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình. Trong các thành phần về khu vực kinh tế quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động, chi phối rất lớn của thị trường và thi trường lao động. Tiền lương trong khu vực này dù vẫn nằm trong khuôn khổ luật phát và theo những chính sách của chính phủ, nhưng là những giao dịch trực tiếp giữa Chủ và Thợ, những “ mặc cả” cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê. Những hợp đồng lao động có tác dụng trực tiếp đến phương thức trả lương Đứng trên phạm vi toàn xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ về phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, quan hệ trao đổi và do vậy, các chính sách tiền lương thu nhập luôn luôn là các chính sách quan trọng của mọi quốc gia. Tiền lương bao gồm tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. +Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phu thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và
  15. hiệu quả của người lao động, phụ thuộc và trình độ, kinh nghiệm làm việc... ngay trong quá trình lao động +Tiền lương thực tế được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ. Như vậy, tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hoávà các loại dịch vụ cần thiết mà họ muốn mua. Mối quan hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa được hiểu thông qua công thức sau: I tldn I tltt  I gc Trong đó: Itltt: Tiền lương thực tế Itldn: Tiền lương danh nghĩa Igc: Chỉ số giá cả Trong xã hội, tiền lương thực tế là mục đích trực tiếp của người lao động hưởng lương. Đó cũng là đối tượng quản lý trực tiếp trong các chính sách về thu nhập, tiền lương và đời sống. * Khái niệm lạm phát Lạm phát xảy ra khi mức giá chung thay đổi. Khi mức giá giảm xuống gọi là giảm phát. Sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian gọi là lạm phát. Vậy lạm phát đặc trưng cho chỉ số chung của giá cả, là chỉ số giá cả chung của toàn bộ cấu thành sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa /GNP thực tế. Trong thực tế thường được thay thế bằng một trong hai loại chỉ số thông dụng khác: chỉ số tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn ( còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất ). Chỉ số giá cả tiêu dùng phản ánh sự biến động giá cả của một giả hàngvà dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội công thức tính như sau:
  16. I p  i p  d Trong đó : Ip :chỉ số giá của giỏ hàng ip :chỉ số giá của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ d :tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng,nhóm hàng trong giỏ Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát Tỷ lệ lạm phát được tính như sau: I  g p   p  1   100 I   p 1  Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát (%) Ip : Chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu Ip-1 : chỉ số giá cả của thời kỳ trước đó Quy mô lạm phát: Người ta thường chia lạm phát thành ba loại tuỳ theo mức độ của nó +Lạm phát vừa (lạm phát dưới 10%): Lạm phát ở mức độ này không gây ra tác hại đối với nền kinh tế. + Lạm phát phi mã khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm phát này khi đã đủ vững chắc sẽ gây ra biến dạng cho nền kinh tế. + Siêu lạm phát xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã.. Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc, tuy nhiên chúng cũng ít xẩy ra. Tác hại của lạm phát: + Tốc độ tăng giá cả thường không đồng đều với các mặt hàng. +Tốc độ tăng giá và tăng lương cũng xẩy ra không đồng đều.
  17. + Phân phối thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá thể, tập đoàn và các giai tầng trong xã hội đặc biệt đối với những người nhiều tài sản có giá trị danh nghĩa cố định và những người làm công ăn lương. + Có những biến động cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của giá cả tương đối. Việc làm, thất nghiệp, lạm phát và tiền lương có quan hệ mật thiết với nhau. Nó luôn luôn đi với nhau. Nếu việc làm tăng thì thất nghiệp giảm dẫn dến lạm phát tăng kéo theo phải tăng lương và ngược lại 2.1.2.Vai trò của lao động trong kinh tế, xã hội 2.1.2.1. Nguồn nhân lực và nguồn lao động 2.1.2.1.1.Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh: Trước hết nguồn nhân lực là khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khiếm khuyết và bệnh tật). Nguồn nhân lực là một yếu tố của sự phát triển xã hội là khả năng lao động của xã hội, được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động với cách hiểu này nguồn lực tương đương với nguồn lao động. Nguồn nhân lực phản ánh khả năng huy động những người có thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động và quá trình lao động. Nguồng nhân lực không chỉ cho thấy lực lượng lao động hiện tại mà còn biểu hiện tiềm năng lao động trong tương lai của xã hội. Việc xác định quy mô nguồn nhân lực nhằm phản ánh tiềm năng khai thác lao động của xã hội. 2.1.2.1.2. Nguồn lao động Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng, đó là tổng số người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Việc quy định
  18. cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước (kể cả cận trên và cận dưới) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Lao động, dân số trong độ tuổi lao động là những người từ đủ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Về chất lượng nguồn lao động, đó là trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ và phẩm chất của người lao động. Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm nguồn lao động thì trẻ em đang đi học, các thế hệ trong tương lai phản ánh nguồn nhân lực nhưng không tính vào nguồn lao động. Những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm ; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình mình và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định v.v...) vẫn được tính vào nguồn lao động. Theo khái niệm mở rộng dùng trong thống kê lao động- việc làm ở Việt Nam thì lực lượng lao động còn bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động (lao động cao tuổi) thực tế đang làm việc trong các ngành kinh tế. 2.12.2.Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội 2.1.2.2.1.Lập luận của các trường phái kinh tế về lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế Lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất. Nhờ có lao động mà các yếu tố đầu vào khác được kết hợp tạo ra sản phẩm cung ứng trên thị trường, hình thành nên tổng cung. Khi các yếu tố đầu vào (trong đó có yếu tố lao động) tăng lên thì sản phẩm tạo ra nhiều hơn, tổng cung tăng lên. Mặt khác, lao động còn là mục tiêu của sản xuất. Khi lao động tăng, tiêu dùng cũng tăng lên làm cho tổng cầu tăng lên. Nền kinh tế đạt điểm cân bằng mới giữa tổng cung và tổng cầu tương ứng với mức sản lượng thực tế tăng lên. Từ trước đến nay, có rất nhiều trường phái kinh tế đã khẳng định vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mô hình của Ricardo (trường phái cổ điển)
  19. đã tính thu nhập quốc dân bao gồm tiền công do lao động làm thuê nhận được, lợi nhuận và địa tô. Mô hình K. Marx cho rằng lao động sống tạo ra nguồn của cải và giá trị thặng dư, là nguồn gốc tái sản xuất xã hội, muốn mở rộng sản xuất cần tăng năng suất lao động. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình tân cổ điển về các yếu tố tác động đến tổng cung. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động ( L ), vốn sản xuất ( K ), tài nguyên thiên nhiên ( R ) và khoa học công nghệ ( T ). Họ cũng thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng : Y = T . K . L . R g = t + k + l + r Trong đó : g : Tốc độ tăng trưởng của GDP k, l, r : Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào K, L, R t : Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ (T) Giữa các yếu tố đầu vào có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo ra tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng tùy từng nước và từng thời kỳ mà sử dụng nhiều yếu tố lao động, ít yếu tố vốn hoặc ngược lại nhiều yếu tố vốn, ít yếu tố lao động phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với nước ta, lao động đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Bởi vì trong các yếu tố đầu vào, mặc dù tài nguyên của chúng ta là phong phú, đa dạng nhưng nó không phải là vô tận mà đang cạn kiệt dần. Vốn của chúng ta còn ít, khả năng huy động vốn thấp. Bên cạnh đó thì nguồn lao động nước ta lại dồi dào. Do vậy, lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. 2.1.2.2.2.Vai trò của nguồn lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội - Nguồn lao động là yếu tố hàng đầu, năng động và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất
  20. Trong quá trình lao động, con người luôn tìm tòi, suy nghĩ , năng động, sáng tạo, không chỉ sáng chế ra những tư liệu lao động có năng suất cao mà còn kết hợp tư liệu lao động với đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định. Nhờ con người mà các tư liệu sản xuất được hoàn thiện từng bước và chỉ thông qua hoạt động của con người, các tư liệu sản xuất mới phát huy được tác dụng, thúc đẩy lực lượng sản xuất và nền kinh tế phát triển . Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, con người được đặt vào một quá trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn cao, ý thức trách nhiệm lớn cả trong lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật và lao động quản lý. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn mới được sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển . - Lợi ích của nguồn lao động là động lực to lớn trong qúa trình phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu cuộc sống là động lực cơ bản nhất của con người. Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng bắt nguồn từ những nhu cầu cuộc sống. Thoả mãn các nhu cầu chính là bảo đảm lợi ích cuả con người. Vì lợi ích mà con người hoạt động. Lơi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích vật chất đóng vai trò quan trọng. Người lao động dù làm việc ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích của mình. Lợi ích càng cao, càng tạo nên sức hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn. Như vậy, chính lợi ích là những nhu cầu trở thành động cơ của hành động. Thoả mãn lợi ích chính đáng của người lao động là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển . - Nguồn lao động với tư cách lực lượng tiêu dùng luôn là mục đích của sự phát triển kinh tế xã hội Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào suy cho cùng đều để phục vụ con người. Ngược lại, nhu cầu của con người là tác nhân kích thích sản xuất, là “đơn đặt hàng” của xã hội đối với sản xuất và là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nguồn lao động với tư cách là một bộ phận quan trọng của dân số, đồng thời là một lực lượng tiêu dùng mạnh mẽ, luôn đóng vai trò quyết định là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở mọi thời đại.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2