intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: "Tìm hiểu về nghề nuôi giun quế "

Chia sẻ: Doan Thu Hien | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

693
lượt xem
158
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngành chăn nuôi nước ta đã có từ lâu đời và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân. Nó cung cấp sức cày kéo, thịt, trứng, sữa... phục vụ cho nhu cầu sống của con người. Trong những năm qua, cùng với sự trở mình đi lên của đất nước, ngành nông nghiệp đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: "Tìm hiểu về nghề nuôi giun quế "

  1. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương TRƯỜNG................. KHOA……………. TIỂU LUẬN Căn nuôi đại cương Kỹ thuật nuôi giun đất 1
  2. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương MỤC LỤC phần I: MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3 I.1. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................. 3 I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIUN QUẾ ...................................................... 6 II. QUY TRÌNH NUÔI GIUN ĐẤT ........................................................................... 9 II.1. Chuẩn bị chuồng nuôi .............................................................................................. 9 *Nuôi trong khay chậu ....................................................................................................... 9 *Nuôi trong nhà với quy mô công nghiệp và bán công nghiệp ............... 11 II.2. Nuôi dưỡng và Chăm sóc ..................................................................................... 13 II.2.1. Cách thả giống ........................................................................................................ 13 II.2.2. Chăm sóc giun ......................................................................................................... 13 - Mật độ ...................................................................................................................................... 13 II.5. Tình hình nuôi giun đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế ......... 18 III.1. KẾT LUẬN ................................................................................................................. 20 III.2. ĐỀ NGHỊ...................................................................................................................... 20 2
  3. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương phần I: MỞ ĐẦU I.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngành chăn nuôi nước ta đã có từ lâu đời và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân. Nó cung cấp sức cày kéo, thịt, trứng, sữa... phục vụ cho nhu cầu sống của con người. Trong những năm qua, cùng với sự trở mình đi lên của đất nước, ngành nông nghiệp đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu trên các ngành như gạo, cà phê, thuỷ hải sản...không ngừng tăng, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đời sống nông dân ta cũng từ đó không ngừng tăng lên. Hiện nay, ngành chăn nuôi không chỉ dừng lại ở chăn nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình mà ngày càng phát triển với quy mô lớn, quy mô công nghiệp với nhiều chủng loại vật nuôi phong phú, đa dạng về cả số lượng và chất lượng. Với tốc độ tăng nhanh của hiện đại hoá nông nghiệp, việc quản lý thâm canh trong chăn nuôi đã được áp dụng. Những trang trại có hàng triệu con gà, trang trại nuôi hàng ngàn con lợn hoặc những khu chăn nuôi hàng trăm con bò sữa không phải là điều hiếm gặp. Tuy nhiên, đi theo đó là hai vấn đề lớn: Thiếu nguồn cung cấp thức ăn gia súc gia cầm có chất lượng và việc ô nhiễm nghiêm trọng. Phân hữu cơ truyền thống đã dần bị loại bỏ do bẩn, mùi hôi thối và mang nhiều vi khuẩn gây bệnh. Phân bón hoá học trong quá trình sử dụng liên tục ảnh hưởng đến độ phì nhiêu của đất và làm chai cứng đất. Khi hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững, nuôi giun đất là một lĩnh vực quan trọng của nông nghiệp. Giun đất là nguồn thức ăn gia súc rất tốt với hàm lượng protein thô chiếm 70% trọng lượng khô. Hơn nữa, giun đất có thể xử lý chất thải hữu cơ, phân gà, phân lợn, phân bò và chuyển hóa thành phân bón hữu cơ có chất lượng, và bằng cách đó, cải thiện môi trường sinh thái các vùng nông thôn. Thậm chí, phân của giun đất cũng có thể dùng để xử lý nước thải. Giun đất cũng cung cấp nguyên vật liệu thô tốt nhất cho công nghiệp. Một số enzim và hoạt chất được chiết xuất từ giun đất để làm thuốc, thức ăn, mỹ phẩm. Sản phẩm thừa và xác chết còn lại góp phần cải tạo, phục hồi đất. Giun đất như là một nhà máy sản xuất hoá chất tự nhiên. Vì vậy phát triển mô hình nuôi giun quế cung là một trong những hướng để phát triển nghành chăn nuôi nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung ngày càng có chất lượng và hiệu quả. Nhằm tìm hiểu rõ về vai trò của giun đất tôi tiến hành chọn đề tài này. 3
  4. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương I.2. LỊCH SỬ NGHỀ NUÔI GIUN ĐẤT Nghề nuôi giun đất được bắt đầu đầu tiên ở Mỹ vào năm 1947 do Hugh Carter là người khởi xướng. Sau 25 năm thì Carter đã có thể cung cấp giun cho tất cá các cửa hàng câu cá ở nước Mỹ. Sau đó nghề này bắt đầu lan đến các nước Canada, Pháp, Italia, Úc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ... Rất nhiều hiệp hội nuôi giun đất đã hình thành từ những quốc gia này. Lúc đầu giun đất chỉ là mặt hàng mồi câu hấp dẫn. Khi người ta tổ chức nuôi được với tốc độ tăng đàn rất nhanh thì con giun lại được xem xét trên các phương diện khác. Trước hết chúng được quan tâm dùng làm thức ăn cho vật nuôi vì hàm lượng các chất (tính trên trọng lượng chất khô) như sau: Protein: 68 –70 %, Lipid: 7 – 8 %, chất đường: 12 –14 %, tro 11 – 12 %. Do có hàm lượng Protein cao nên giun quế được xem là nguồn dinh dưỡng bổ sung quý giá cho các loại gia súc, gia cầm, thủy hải sản… Ngoài ra, giun quế còn được trong y học, công nghệ chế biến thức ăn gia súc...Đặc biệt ở một số nước giun đất còn được dùng làm thức ăn cho con người. Ở các nước tiên tiến, việc nuôi giun đã trở thành ngành công nghiệp với việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm khai thác triệt để nguồn lợi quý báu từ con giun. Ở Canada và Nhật Bản là hai quốc gia đi đầu trong lĩnh vực mỹ phẩm và thuốc tây, còn ở Trung Quốc từ hàng ngàn năm qua con người đã dùng giun như là một loại nhiên liệu quý trong việc chế ra các phương thuốc chữa trị hữu hiệu Ở Việt Nam, giun đất đã được nói đến từ lâu, nhất là trong bài thuốc của rất nhiều đông y. Trong nhân dân thì thường cho gà, vịt, cá ăn. Nhưng việc nuôi giun đất chưa ai nghĩ tới. mãi tới những năm 1986 phòng sinh học thực nghiệm trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội phối hợp với công ty chế biến phế thải thành phố Hà Nội mới nghiên cứu thành công việc phân lập và thuần hóa giun quế (giun đỏ) tự nhiên thành vật nuôi. Từ đó đến nay viêc nuôi giun đất đã được triển khai tại nhiều tỉnh, thành phố cả nước trên diện rộng từ hàng chục, hàng trăm mét vuông và diện hẹp từ nủa mét vuông trở lên gồm hai hình thức nuôi riêng và nuôi kết hợp với vật nuôi khác (nuôi thỏ kết hợp nuôi giun đất, nuôi gà kết hợp nuôi giun đất, nuôi lươn kết hợp nuôi giun đất). Ở Thừa Thiên Huế đã có một số nhà khoa học như Phó giáo sư Lê Đức Ngoan, Thạc sĩ Bùi Văn Lợi đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề nuôi giun quế. Hiện nay, các quy trình kĩ thuật nuôi giun dất đã được các nhà khoa học chuyển giao công nghệ nuôi cho bà con nông dân . I.3. MỤC DÍCH NGHIÊN CỨU 4
  5. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Tìm hiểu một số đặc diểm sinh học và quy trình kỹ thuật nuôi giun quế nhằm nâng cao hiểu biết của mình, làm cở sở khoa học cho quá trình học tập và nghiên cứu sau này I.4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học của giun quế : - Tìm hiểu quy trình nuôi giun quế: - Tìm hiểu một số mô hình nuôi giun quế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế I.4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Giun quế thuộc: Nghành giun đốt (Annelia) Phân nghành có đai (Cliteliata) Lớp giun ít tơ (Oligo chaeta) Họ Megasoclecidae Giống giun quế (Perionyx excavatus) I.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Tìm hiểu thông qua các nguồn tài liệu sách, báo, tạp chí... ở thư viện, nhà sách và các nguồn tài liệu khác đặc biệt là internet - Tìm hiểu thông qua các mô hình cụ thể trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế - Phân tích, xử lí, tổng hợp tài liệu. I.6. PHẠM VI ĐỀ TÀI Tìm hiểu các mô hình, phương pháp nuôi giun quế phổ biến hiện nay ở nước ta và trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. I.8. GIẢ THIẾT KHOA HỌC Với điều kiện khí hậu nhiệt đới của đất nước ta thì đó là môi trường rất thuận lợi cho việc nuôi giun quế. Hơn nữa với đặc điểm là một đất nước nông nghiệp có ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm rất phát triển thì đó là nguồn cung cấp thức ăn dồi 5
  6. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương dào cho nuôi giun. Khi nuôi giun nó sẽ cung cấp trở lại nguồn thúc ăn giàu dinh dưỡng cho chăn nuôi góp phần thúc đẩy nghành chăn nuôi phát triển PhầnII: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIUN QUẾ Giun quế có tên khoa học là Perionyx excavatus, chi Pheretima, họ Megascocidae (họ cự dẫn), ngành ruột khoan. Chúng thuộc nhóm giun ăn phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy, trong tự nhiên ít tồn tại với phần thể lớn và không có khả năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài giun địa phương sống trong đất. Giun quế là một trong những giống giun đã được thuần hóa, nhập nội và đưa vào nuôi công nghiệp với các quy mô vừa và nhỏ. Đây là loài giun mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở vùng nhiệt đới, dễ bắt bằng tay, vì vậy rất dễ thu hoạch. Chúng được sử dụng rộng rãi trong việc chuyển hóa chất thảm ở Philippines, Australia và một số nước khác (Gurrero, 1983; Edwards, 1995). Kích thước Giun quế trưởng thành từ 10 – 15 cm, nước chiếm khoảng 80 – 85 %, chất khô khoảng 15 – 20 %. Hàm lượng các chất (tính trên trọng lượng chất khô) như sau: Protein: 68 –70 %, Lipid: 7 – 8 %, chất đường: 12 –14 %, tro 11 – 12 %. I.1. Đặc điểm hình thái và cấu tạo Giun quế có kích thước tương đối nhỏ, độ dài vào khoảng 10 –15 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng thành có thể đạt 0,1 – 0,2 cm, có màu từ đỏ đến màu mận chín (tùy theo tuổi), màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể giun có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ. Đốt đầu tiên là thùy trước miệng. Vành tơ, thùy trước miệng, tuyến dưới da tiết chất nhầy giúp giun đất thích nghi đào bới và chui luồn trong đất. Đai và các lỗ sinh dục tâp trung ở phần trước cơ thể. Có một cái ở mặt bụng, sau bờ trước của đai. Lỗ ngoài của cơ quan sinh dục đực nằm trên mặt bụng của đốt thứ XVIII, lỗ ngoài của cơ quan sinh dục cái nằm ở trên mặt bụng đốt thứ XIV. Cơ quan sinh dục đực và cái cùng nằm trên một cơ thể 6
  7. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Giun đất có lối di chuyển thích hợp trong môi trường đất. Giun dùng sức ép của cơ lên dịch thể xoang để ép các vụn đất, tạo đường đi trong đất. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết hợp các lông tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một cách dễ dàng. Cơ thể phía duỗi nhờ hoạt động của bao cơ gồm hai lớp cơ vòng và cơ dọc nằm sau lớp mô bì. Trong lớp mô bì có tế bào tiết chất nhầy làm cho da giun đất luôn luôn trơn khiến giun dễ di chuyển và luôn ẩm, bảo đảm hô hấp qua da. Lớp bên trong của giun hoàn toàn là ống tiêu hóa. Thức ăn sẽ qua miệng, qua hầu rồi xuống thực quản, đi qua diều, qua mô rồi xuống ruột. Cuối cùng chúng được đẩy qua hậu môn. Cả cơ thể giun là một ống tiêu hóa. Giun quế nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày được nhiều nhà khoa học ghi nhận là tương đương với trọng lượng cơ thể của nó. Sau khi qua hệ thống tiêu hóa với nhiều vi sinh vật cộng sinh (bản thân con giun không đủ sức chuyển hóa trực tiếp các chất hữu cơ thành năng lượng, chính nhũng hệ vi sinh vật có trong ống tiêu hóa đảm nhận công việc này) chúng thải ra phân (Vermicas) ra ngoài rất giàu dinh dưỡng (hệ số chuyển hóa ở đây vào khoảng 0.7), những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ thống tiêu hóa này theo phân ra khỏi cơ thể giun nhưng vẫn còn hoạt động ở "màng dinh dưỡng" trong một thời gian dài. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho phân giun có hàm lượng dinh dưỡng cao và có hiệu quả cải tạo đất tốt hơn dạng phân hữu cơ phân hủy bình thường trong tự nhiên. Giun không có phổi quá trình trao đổi khí tiến hành trực tiếp qua da và do đó thành cơ thể luôn ẩm nhờ có tuyến nhầy.Giun quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp thu Oxy và thải CO2 trong môi trường nước, điều này giúp cho chúng có khả năng sống trong nước nhiều lần, thậm chí trong nhiều tháng. Hệ thống bài tiết bao gồm một cặp thận ở mỗi đốt. Các cơ quan này bảo đảm cho việc bài tiết các chất thải chứa đạm dưới dạng Amoniac và Ure hệ thần kinh đơn giản gồm não, vòng hầu, dây thần kinh bụng mỗi đốt có một đôi hạch và hệ thần kinh ngoại biên. Giác quan chưa phát triển có các tế bào cảm giác nằm rải rác trong da giúp chúng nhận biết ánh sáng, nhiệt độ, áp suất của môi trường. Khả năng ngửi của giun đất kém. Tuy nhiên chúng cũng phân biệt được các loại thức ăn khác nhau. Trong một luống nuôi, giun cũng có thể tìm tới nhũng chỗ có thức ăn ngon hơn. I.2. Đặc điểm sinh lý Giun quế rất nhạy cảm, chúng phản ứng mạnh với ánh sáng, nhiệt độ và biên độ nhiệt cao, độ mặn và điều kiện khô hạn. Nhiệt độ thích hợp nhất với giun quế nằm trong khoảng từ 20 – 30oC, ở nhiệt độ khoảng 30oC và độ ẩm thích hợp, chúng sinh trưởng và sinh sản rất nhanh. Ở nhiệt độ quá thấp, chúng sẽ ngừng hoạt động và có thể chết; hoặc khi nhiệt độ của luống nuôi lên quá cao cũng bỏ đi hoặc chết. Chúng có thể chết khi điều kiện khô và nhiều ánh sáng nhưng chúng lại có thể tồn tại trong môi trường nước có thổi oxy. 7
  8. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Giun quế quế rất thích sống trong môi trường ẩm ướt và có độ pH ổn định, pH thích hợp nhất vào khoảng 7.0 – 7.5, nhưng chúng có khả năng chịu đựng được phổ pH khá rộng từ 4 – 9, nếu pH quá thấp chúng sẽ bỏ đi. Giun quế thích nghi với phổ thức ăn khá rộng, chúng ăn bất kỳ chất thải hữu cơ nào có thể phân hủy trong tự nhiên (rác đang phân hủy, phân gia súc, gia cầm…). Tuy nhiên, những thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao se hấp dẫn chúng hơn, giúp cho chúng sinh trưởng và sinh sản tốt hơn. Trong tự nhiên, giun quế thích sống nơi ẩm thấp, gần cống rãnh hoặc nơi có nhiều chất hữu cơ dễ phân hủy và thối rữa như trong các đống phân động vật, các đống rác hoai mục. Chúng rất ít hiện diện trên các đồng ruộng canh tác dù nơi đây có nhiều chất thải hữu cơ, có lẽ vì tỷ lệ C/N của những chất thải này thường cao, không hấp dẫn và không đảm bảo điều kiện ẩm độ thường xuyên. I.3. Sinh sản và phát triển Giun quế sinh sản rất nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tương đối ổn định và có độ ẩm cao như điều kiện của khu vực phía Nam. Theo nhiều tài liệu, từ một cặp ban đầu trong điều kiện sống thích hợp có thể tạo ra từ 1.000 –1.500 cá thể trong một năm. Giun quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể. Chúng ghép đôi bằng cách quay chéo đầu, áp mặt bụng với nhau, đai sinh dục của con này ép vào lỗ nhận tinh của con kia và trao đổi tinh dịch. Tinh dịch tiết ra từ lỗ sinh dục đực nhờ hệ cơ co giãn sẽ chui vào túi nhận tinh của đối phương. Sau khi thụ tinh hai con rời nhau. Tinh trùng nhận được sau giao phối sẽ nằn trong túi nhận tinh mà sẽ không được thụ tinh ngay bởi vì ở giun, trứng lại chín chậm hơn vài Giun giao phối ngày so với sự thành thục của tinh giun.Vài ba ngày sau đai sinh dục dày dần, dịch nhầy tiết ra tạo thành một vòng. Khi vòng nhầy bong ra, nó sẽ tuột lên phía trước, lúc đi qua lỗ cái nó sẽ nhận lấy một ít trứng rồi chui tọt về phía trước, lấy tinh dịch khi qua túi nhận tinh mà “đối phương” đã gửi từ trước. Sự thụ tinh xảy ra ngay bên trong vòng nhầy, vòng nhầy tuột tiếp lên phía trước rồi qua đầu ra ngoài, bít hai đầu thành kén, trong mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng, kén giun di chuyển dần về phía đầu và hơi ra đất. Kén áo hình dạng thon dài, hai đẩu túm nhọn lại gần giống như hạt bông cỏ, ban đầu có màu trắng đục, sau chuyển sanh xanh nhạt Kén giun rồi vàng nhạt. Mỗi kén có thể nở từ 2 – 10 con. Kén màu nâu đất và sau đó chuyển dần thành màu nâu sẫm. Khi sắp nở nó lại chuyển thành màu xám đen có hình oval. Mỗi kến có từ 1-20 trứng (trung bình là 7 trứng). Phôi phát triển trong kén không qua giai đoạn ấu giung. Khoảng sau 2-3 tuần giun non tự cắt thủng kén để ra ngoài. Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu 8
  9. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương trắng, dài khoảng 2 – 3 mm, sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ thẫm trên lưng. Khoảng từ 15 –30 ngày sau, chúng trưởng thành và bắt đầu xuất hiện đai sinh dục (theo Arellano, 1997); từ lúc này chúng bắt đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản. Con trưởng thành khỏe mạnh có màu mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể. Khoảng từ 6- 8 tháng tuổi, khi giun đỏ (giun quế) đạt tới chiều dài tôi đa của loài mới được gọi là thành thục. Trong điều kiện nuôi đảm bảo độ ẩm, đây đủ thức ăn nhiệt độ thích hợp, một giun quế thành thục có thể sinh sản từ 800- 1200 con cháu trong 7 năm. Giun mẹ sống tới 12 năm mà vẫn đẻ. Chúng sẽ tăng đàn theo cấp số nhân. Đây cũng là đặc tính ưu việt của giun quế. Rõ ràng là nhờ đặc điểm này mà từ phân trâu bò, phân gia súc ta có thể tạo ra vô vàn con giun quế, nguồn động vật quý giá để cung cấp cho các loài vật nuôi . II. QUY TRÌNH NUÔI GIUN ĐẤT II.1. Chuẩn bị chuồng nuôi Tùy theo khả năng và quy mô kinh doanh mà chúng ta làm chuồng trại. Nếu chúng ta nuôi vào mục đích lấy giun nhằm tăng thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm, thủy hải sản thì việc làm chuồng cũng hết sức đơn giản như nuôi trong chum, chậu, những bể nước không còn sử dụng, và nếu quy mô lớn hơn ta có thể làm chuồng bằng tấm bạt nilon. Nếu là chuồng theo quy mô lớn nhằm kinh doanh. Tùy theo diện tích đất ta có thể xây chuồng dài rộng tùy ý. Thông thường chuồng xây ngang 1m 50, cao 0,50 m, dài 2 m trở lên. Chuồng được che phủ bởi lá dừa là tốt nhất vì tạo được bóng mát và giữ được độ ẩm cao. Tuy nhiên chuồng trại phải bảo đảm sự thông thoáng, không khí phải ra vào lưu thông. Hiện nay có một số mô hình nuôi như sau: *Nuôi trong khay chậu Áp dụng cho những hộ gia đình không có đất sản xuất hoặc muốn tận dụng tối đa các diện tích trống có thể sử dụng được, mô hình này có thể sử dụng các dụng cụ đơn giản và rẻ tiền như các thùng gỗ, thau chậu, thùng xô…Các thùng gỗ chỉ nên có kích thước vừa phải (vào khoảng 9
  10. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương 0,2 – 0,4 m2 với chiều cao khoảng 0,3 m). Các dụng cụ này nên được đặt trên những cái khung nhiều tầng để dễ chăm sóc và tận dụng được không gian. Các dụng cụ nuôi nên được che mưa gió, đặt nơi có ánh sáng hạn chế càng tốt. Chúng phải được lỗ thoát nước, những lỗ này cần được chặn lại bằng bông gòn, lưới…để không bị thất thoát nước con giống. Mô hình nuôi này có ưu điểm là dễ thực hiện, có thể sử dụng lao động phụ trong gia đình hoặc tận dụng thời gian rãnh rỗi. Công tác chăm sóc cũng thuận tiện vì dễ quan sát và gọn nhẹ. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tốn nhiều thời gian hơn các mô hình khác, số lượng sản phẩm có giới hạn, việc chăm sóc cho Giun phải được chú ý cẩn thận hơn. *Nuôi trên đồng ruộng có mái che Thích hợp cho quy mô gia đình vừa phải hoặc mở rộng, thích hợp cho những vườn cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm có bóng râm vừa phải. Các luống nuôi có thể đạt độ ẩm trong đất hoặc làm bằng các vật liệu nhẹ như bạt không thấm nước, gỗ…có bề ngang từ 1 – 2 m, độ sâu (hoặc cao) khoảng 30 – 40 cm, bảo đảm thoát nước được nước và thông thoáng. Mái che nên làm ở dạng cơ động để dễ di chuyển, thay đổi trong những thời tiết khác nhau. Độ dày chất nền ban đầu và thức ăn nên được bổ sung hàng tuần. Luống nuôi cần được che phủ để giữ ẩm, kích thích hoạt động của giun và chóng các thiên địch. * Nuôi trên đồng ruộng không có mái che Đây là phương pháp nuôi truyền thống ở các nước đã phát triển công nghệ nuôi Giun như Mỹ, Úc, Canada...và có thể thực hiện ở quy mô lớn. Luống nuôi có thể nổi hoặc âm trong mặt đất, bề ngang khoảng 1 – 2 m, chiều dài thường không giới hạn mà tùy theo diện tích nuôi. Với phương pháp này, người nuôi không phải làm lán trại, có thể sử dụng các trang thiết bị cơ giới để chăm sóc và thu hoạch sản phẩm. Nếu cho lượng thức ăn ban đầu ít và bổ sung hàng tuần thì việc thu hoạch cũng khá dễ dàng. Tuy nhiên, phương pháp nuôi này bị tác động mạnh bởi các yếu tố thời tiết, có thể gây tổn hại đến Giun và cần một diện tích tương đối lớn. 10
  11. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương *Nuôi trong nhà với quy mô công nghiệp và bán công nghiệp Là dạng cải tiến và mở rộng của luống nuôi có mái che trên đồng ruộng và nuôi trong thau chậu. Các khung (bồn) nuôi có thể được xây dựng kiên cố trên mặt đất có kích thước rộng hơn hoặc được sắp thành nhiều tầng. Việc chăm sóc có thể thực hiện bằng tay hoặc các hệ thống tự động tùy theo quy mô. Phương pháp này có nhiều ưu điểm là chủ động được điều Chuồng nuôi giun theo quy mô kiện nuôi. Chăm sóc tốt, nuôi theo quy mô lớn nhưng công nghiệp chi phí xây dựng cơ bản và trang thiết bị cao. Hiện nay, quy mô nuôi công nghiệp vớI những trang thiết bị hiện đại được áp dụng khá phổ biến ở các nước phát triển như Mỹ, Úc, Canada... II.1.1. Chất nền và cách ủ chất nền Chất nền có cơ cấu xốp, kết cấu tương đối thô, có khả năng giữ ẩm tốt, không gây phản ứng nhiệt, pH không nằm, ngoài phổ chịu đựng của giun, có thể là môi trường sống tạm của giun khi gặp điều kiện bất lợi. Là yếu tố quan trọng cho giun trong thời gian đầu sinh sống, là nơi trú ẩn khi giun tiếp xúc với môi trường mới và phải đạt các yếu tố sau: tơi xốp, sạch, giàu dinh dưỡng...Nếu chúng ta thả giống trực tiếp bằng sinh khối thì không cần ủ phân mà bỏ trực tiếp lên luống. II.1.2. Dụng cụ nuôi -Cây chĩa 6 răng: Đây là dụng cụ dùng để xới, thu họach và chăm sóc giun, không dùng các dụng cụ khác có thể làm giung bị thương. -Tấm che phủ: Tấm che phủ thường làm bằng bao tải hoặc bao chiếu. Đặc điểm của giun là ăn cạn và tối. Do đó người ta dùng tấm che phủ thường để tạo bóng tối cho bề mặt luống giun để giun liên tục ở bề mặt ăn thức ăn. Mặt khác cũng dùng để giữ độ ẩm cho luống giun. - Thùng tưới: Nếu không có thùng tưới có thể dùng tay vẫy nước qua sàn rổ. 11
  12. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương II.1.3. Chọn giống Giống giun thường mua của các cơ sở nuôi giun giống hoặc chọn đất có nhiều giun (trên mặt đám đát nơi ẩm có nhiều phân giun) hớt lấy giun giống ở lớp mặt 2- 3 cm, cũng có thể bắt giun con. Những nơi đã nuôi giun thì sàng đất mặt, đất lọt sàng còn lại có nhiều trứng giun, giữ lại làm giống II.1.4. Thức ăn Tất cả các loại phân như phân lợn, phân trâu bò, phân gà, phân thỏ...đều có thể làm thức ăn cho giun đất. Thức ăn sử dụng cho giun đất ở dưới dạng tươi. Thức ăn nuôi giun gồm: 50 % các loại rơm, rạ, bã mía, mùn cưa...đã ủ hoai, 20 % rau các loại, vỏ chuối, thân chuối băm, lá cây họ đậu, vỏ các loại củ,... và 30 % phân gia súc, gia cầm, trong đó phân trâu bò là tốt nhất. Thường dùng phân gia súc trộn với các loại nguyên liệu trên với tỷ lệ 70 % nước, 30% phân rác đem ủ như ủ phân đống, ngoài trát bùn kín chặt, nhiệt độ ủ tăng cao, cho 3-4 tuần lễ. Khi nhiệt độ đống ủ hạ xuống như nhiệt độ môi trường thì đem cho gia cầm ăn. Cứ 2 kg giun giống (khoảng 5000 con) ăn hết mỗi ngày 1-2 kg phân ủ, tính ra cứ 1000 con giun hàng tháng ăn hết 100 kg. Trong phân gia súc có thành phần chất hữu cơ khá cao: Phân bò, phân lợn 30 %, phân gà 52 %, tỷ lệ protein trong phân bò 4,38 %, phân lợn 6,25 %, phân gà 10 %, còn có lân, kali, phân thỏ khô có hàm lượng protein 28,5 %, chất hữu cơ 83 % cho nên phân làm thức ăn chăn nuôi giun tốt. - Ủ phân làm thức ăn cho giun - 50 kg cỏ khô hay rơm lúa, thân đậu, bã mía, mạt cưa, giấy vụn... - 30 kg phân gia súc (trâu, bò, heo...) - 20 kg thực vật tươi (rau, cỏ, vỏ chuối...) Tổng cộng được 100 kg vật chất thô, ở giữa hố ủ cắm một thanh tre hay khúc gỗ dài từ đáy hố nhô lên khỏi mặt hố. Mỗi ngày tưới nước vừa, khi tưới lắt thanh tre nhằm mục đích cho nước ngấm đều hố ủ. Sau thời gian khoảng 03 tháng thì phân hoai, riêng rơm đã mụt sẳn thì thời gian ủ sẽ ngắn hơn. Ủ phân làm thức ăn cho giun gồm: 50 kg cỏ khô hay rơm lúa, thân đậu, bã mía, mạt cưa, giấy vụn với 30 kg phân gia súc (trâu, bò, heo...) và 20 kg thực vật tươi (rau, cỏ, vỏ chuối...). Tổng cộng được 100 kg vật chất thô, ở giữa hố ủ cắm một thanh tre hay khúc gỗ dài từ đáy hố nhô lên khỏi mặt hố. Mỗi ngày tưới nước vừa, khi tưới lắt thanh tre nhằm mục đích cho nước ngấm đều hố ủ. Sau thời gian khoảng 03 tháng thì phân hoai, riêng rơm đã mụt sẳn thì thời gian ủ sẽ ngắn hơn. Riêng phân tươi của gia súc ăn cỏ có thể cho ăn trực tiếp 12
  13. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Riêng phân tươi của gia súc ăn cỏ có thể cho ăn trực tiếp. II.2. Nuôi dưỡng và Chăm sóc II.2.1. Cách thả giống II.2.1.1. Giống thuần (Bố mẹ): Sau khi làm chuồng trại xong, dùng nước tưới trên bề mặt luống mổi ngày 1 lần, sau 3 ngày chúng ta có thể trải 1 lớp chất nền khoảng 08cm và thả giống. Thông thường mổi m2 ta thả khoảng 2 – 3 kg giun giống, dùng tay hốt giun giống và bỏ từng cụm vào luống, sau 1 giờ tự động giun sẽ lẫn vào trong chất nền để trốn, sau đó ta dùng nước tưới phun sương trên bề mặt luống và có thể cho giun ăn ngay. II.2.1.2. Sinh khối (ổ giun): Sau 3 ngày chúng ta lấy phân trâu, bò...Bỏ 1 lớp khoảng 10 cm trên bề mặt luống, tưới qua 1 ít nước và thả sinh khối. Khi thả sinh khối chúng ta cứ để thành cụm, không nên trãi mõng ra, sau 2 giờ thì tưới nước. Thông thường cách thả giống bằng sinh khối là hiệu quả nhất. II.2.1.3. Cách chọn giống: * Giống Thuần: Chúng ta không nên chọn giống bị trộn lẫn với những giống giun đất khác, nếu chúng ta dùng giun thương phẩm 100 % để làm giống thì hoàn toàn không đúng, vì trong quá trình làm sạch giun chúng ta sẽ làm giun hoàn toàn tổn thương. Cách tốt nhất nên bắt giống khoảng 80 %. Khâu bảo quản giống rất quan trọng vì thế chúng ta nên đến những trại có nhiều năm kinh nghiệm trong viêc bảo quản giống để có được con giống khoẻ. II.2.2. Chăm sóc giun - Mật độ Mật độ thả quyết định năng suất thu họach. Mật độ thích hợp khoảng 0,8 - 1 kg/m2, nghĩa là vào khoảng 8 ngàn đến 1 vạn cá thể/m2 mới đảm bảo được sau 30 ngày cho 1 lần thu họach với năng súat 12 - 15 kg/m2, tương đương với 120 - 150 tấn giun/ha. Nếu ta có đầy đủ nguồn thức ăn có thể rút ngắn chu kỳ thu họach là 20 ngày. Ngòai ra, giun đất còn cần chất mùn làm nhà ở. Đất mùn có thể làm từ phân 13
  14. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương động vật và rác độn đem ủ oai, thời gian ủ từ 20 - 30 ngày. Sau khi ủ, phân có màu nâu và hết mùi, lúc đó ta xổ đống phân ra bầm nhỏ và đổ vào luống để làm nền, thường thì lớp chất mùn trên luống giun cao từ 10-15 cm.Ví dụ: Một luống giun có diện tích 2 m2 cần 50 % phân động vật các các lọai, cùng với 50 % rác độn (không dùng những rác thải có chất độc, rác, cay, có tinh dầu) - Nhiệt độ Nhiệt độ thích hợp nhất cho giun phát triển là từ 20 – 280C. đối với bà con một số khu vực ở khu vực phía Bắc cần chú ý: Vào mùa đông nhiệt độ xuống thấp, lúc này chúng ta cần che chắn kỹ, thắp đèn điện vào ban đêm sao cho luôn giữ nhiệt độ ở mức thích hợp, tránh trường hợp giun bị ngủ đông. -Độ ẩm Nước là thành phần quan trọng nhất của cơ thể giun, chúng chiếm khoảng 65 – 80 % trọng lượng cơ thể giun nên chúng ta phải thường xuyên tưới nước cho giun (ít nhất 1 lần/ ngày). Để nhận biết độ ẩm thích hợp bằng cách: Lấy tay nắm phần sinh khối trong chuồng sau đó thả ra, nếu thấy phần sinh khối còn giữ nguyên và tay ta chỉ ướt là đủ, nhưng nếu thấy nước chảy ra hoặc phần sinh khối bị vỡ và rơi xuống như vậy là quá ướt hoặc quá khô. -Ánh Nắng Giun rất sợ ánh nắng nên ta cần phải che chắn chuồng thật kỹ vào ban ngày để tránh ánh nắng trực tiếp rọi vào chuồng làm cho giun sợ và chui xuống phía dưới để sống -Không khí Khí CO2, H2S, SO3, NH4 là kẻ thù của giun nên ta phải chắc chắn rằng thức ăn của giun phải sạch và không có các thành phần hóa học gây bất lợi cho giun. -Cho ăn Thường thì sau khi bỏ giống được 2 ngày thì chúng ta nên cho giun ăn, lượng thức ăn mỗi lần khoảng 8 cm trên mặt luống (không nên bỏ phân bò phủ lên toàn bộ bề mặt luống, vì điều này sẽ làm cho nhiệt độ bên dưới tăng quá cao làm cho kén bị thối, nên cho ăn từng cụm). Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục cho giun ăn khi thấy trên bề mặt luống đã xốp và không còn thức ăn cũ. Chú ý rằng không nên cho giun ăn khi lượng thức ăn cũ còn quá nhiều, vì lượng thức ăn bị tồn đọng phía dưới luống làm cho giun chỉ lo tập trung ăn và sống phía dưới luống mà không sống trên bề mặt. Điều này làm cho giun giảm khả năng sinh sản. Thời gian mỗi lần cho ăn tuỳ thuộc vào số lượng giun có được trong luống, thường thì từ 4 đến 7 ngày. + Cách cho ăn : Khi cho ăn giở tấm phủ và bón thức ăn cho giun. Lượng thức ăn tùy thuộc vào sức tiêu thụ của từng luống cụ thể và tùy mùa. 14
  15. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Vào mùa hè từ 3 - 5 ngày cho giun ăn 1 lần, lượng thức ăn bón trên bề mặt luống dày từ 2- 3 cm, sau khi bón xong đậy bao tải lại và tưới ẩm. Chúng ta cũng có thể bón thành từng ụ, hoặc theo từng dãy dài để khi nhiệt độ trong luống tăng cao giun có khoảng trống chui lên thở. Đến mùa đông lượng thức ăn bón nhiều hơn, dày khoảng 5 cm và bón phủ đầy luống giun. Thời gian cho ăn cũng thưa hơn mùa hè. - Nhân luống Thời gian đầu luống chưa có kén và giun chưa thích nghi được môi trường mới, nên sau 2 tháng đầu thì số giống chúng ta đã được nhân đôi (thay vì 1 tháng). Lúc này chúng ta có thể tách giun để nhân luống hoặc cho gia súc, gia cầm ăn. Trước khi nhân luống 3 ngày, ta cho giun ăn. Lúc này giun tập trung trên bề mặt luống, ta lấy phần trên của luống khoảng 20 cm bỏ vào luống mới và tiếp tục cho luống cũ ăn cho đến khi đầy luống. II.3.Bệnh của giun và biện pháp phòng chống II.3.1. Bệnh no hơi: Do giun ăn nhằm những loại thức ăn quá giàu "chất đạm" như phân bò sữa, heo...làm cho phân có mùi chua. Sau khi cho ăn, giun có hiện tượng nổi lên trên mặt luống và trường dài sau đó chuyển sang màu tím bầm và chết. Cách tốt nhất khi phát hiện trường hợp này nên hốt hết phần phân lỡ cho ăn ra và tưới nước lên luống. II.3.2. Bệnh trúng khí độc: Do đáy chất nền đã bị thối rữa, trong thời gian dài chất nền thiếu O2 làm cho khí CO2 chiếm lĩnh hết khe hỡ của chất nền, làm giun chui lên trên lớp mặt. Cách khắc phục: Dùng cuốc chĩa xới toàn bộ mặt luống và tưới nước. II.3.3. Ngoài ra thật chú trọng với các loại thuốc trừ sâu, xà bông, nước rữa chén...vì giun sẽ lập tức chết khi tiếp súc. II.3.4. Địch hại: Kiến, chim, cóc, nhái...là những địch hại nguy hiểm nhất của giun quế. Đối với kiến hãy diệt tận gốc, dùng vật nhọn moi tận gốc của ổ kiến, xịt thuốc và vệ sinh thật sạch khu vực xung quanh trại. Hàng ngày theo dõi luống giun, nếu thấy kiến phải tiêu diệt ngay. Diệt kiến có thể dùng cách đơn giản là đốt những vệt kiến bò vào luống giun, nhớ khi đốt đậy tấm phủ giun lại, hay cho nước ngập hố giun và kiến nổi lên mặt nước, dùng rọi đốt kiến trên mặt nước, sau đó tháo nước ra. Ngoài ra có thể dùng thuốc diệt kiến quét trên vách chuồng. Một điều cần lưu ý là giun. - Luống giun phải được che chắn hoặc bao lưới xung quanh để tránh gà, ếch nhái, rắn mối hoặc chuột ăn II.4. Thu hoạch: 15
  16. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Có nhiều phương pháp thu hoạch nhưng tùy theo mục đích mà có những phương pháp thu hoạch khác nhau. Nhưng nói chung có 2 phương pháp thu hoạch cơ bản sau: + Phương pháp thu hoạch tươi bằng cách dẫn dụ: Nhằm thu được nguồn giống mà không làm cho chúng bị sốc và thu phân giun. Trước khi thu hoạch khoảng một tuần, cho một tấn lưới vào khoảng giống mới đã dọn ở giữa luống (hoặc trên bề mặt luống) có chứa thức ăn mới đã được bổ sung nước ở mức bão hòa, không tưới trên phần phân chũ ở hai bên. Thức ăn tươi và ẩm độ sẽ hấp dẫn giun và chúng sẽ tập trung cao độ ở đây. Để thu được trên 90 % con giống, nên thực hiện động tác này 2 lần. + Phương pháp thu hoạch khô: thu hoạch giun thịt làm thức ăn gia súc và thu tưới giữ ẩm, nên xới xáo nhiều lần giúp bốc thoát hơi nước. Khi nhận thấy hạt phân tương đối rời rạc, dùng cào gom phân vào giữa, con giun có khuynh hướng chui xuống, cuộn tròn dưới lớp đáy của luống. Hốt lớp phân bên trên và tiếp tục gom phân lại. Thực hiện thao tác này sẽ tách riêng được phân và giun. Sau khi cho giun ăn được 3 ngày, dùng tay hốt trên bề mặt luống, nơi chúng ta đã bỏ phân bò (vì chúng sẽ tập trung vào đây để ăn). Trải tấm nilon ngoài sân trống có ánh nắng càng tốt. Đổ phần hỗn hợp này lên tấm nilon, sau đó gạt bỏ phần phân giun bên trên lần lượt vì khi giun ra ngoài sợ ánh nắng nên trốn Xuống phía dưới cho đến khi chỉ còn giun. Chú ý rằng lớp phân giun bên trên này không được bỏ làm phân mà cho trở lại luống để tiếp tục nuôi như là sinh khối, và giun sẽ được nhân luống rất mau vì trong sinh khối này chứa rất nhiều kén giun. Đối với bà con nuôi giun vào mục đích cải tạo đạm cho vật nuôi ở nhà, bà con nên áp dụng hình thức thu hoạch “cuốn chiếu”. Lấy phần phân còn lại ta có được phân giun. Trong trường hợp luống đã đầy phân mà chúng ta không có chuồng mới (chuồng trống) để nhân giống hoặc vì trời mưa nhiều quá chúng ta không thể tách được giun và phơi phân chúng ta có thể làm như sau: Xúc toàn bộ sinh khối trong chuồng đổ cao lên qua một bên chuồng, sau đó dùng phên tre (là loại bồ được đan bằng tre) để chắn giữ lại, dùng cọc tre để giữ phên. Bỏ thức ăn mới vào phần bên chuồng trống, giun sẽ nghe được mùi thức ăn mới và sẽ chui qua phần bên này để sống. Khi có điều kiện thích hợp ta sẽ bắt giun hoặc trời nắng sẽ phơi phân giun dễ dàng hơn. Đối với luống mới, sau 2 tháng chúng ta mới có thể thu hoạch được, nhưng đợt thu hoạch thứ 2 trở đi sẽ rút ngắn còn 25 – 35 ngày, điều này phụ thuộc hoàn toàn vào kỹ thuật nuôi của bà con. 16
  17. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Nếu mật độ giống thả đạt yêu cầu, cộng với việc chăm sóc tốt, chúng ta sẽ thu 0,8 kg - 1kg/1m2/lần thu hoạch. Khi giun đã phát triển nhiều bò lên cả mặt hố thì hớt lớp đất mặt 2-3cm, sàng lấy giun. Sau khi thu hoạch thì có thể cho gia súc, gia cầm ăn tươi, có thể bắt giun hàng ngày cho ăn, mỗi gia cầm cho 5-10/ngày hoặc chế biến thành bột giun. Bột giun đất là loại thức ăn giàu protein, trên 70 % cao hơn cả bột đậu tương, bột cá...Ở nhiều nước giá bột giun khá đắt - Chế biến giun: Thu hoạch giun, nhặt hết rác rưởi, cát sỏi, rồi đem phơi, sàng sấy cho thật khô và say ra thành bột. Khi phơi phải rửa sạch giun, dùng cát hay cám trộn với giun khi sấy, phơi vì giun tiết ra nhiều chất nhờn. Khi rang khô dòn, sàng bỏ cát, cám, lấy giun đem xay hoặc giã nhỏ rồi đóng bao gói và bảo quản nơi khô ráo. Bột giun bổ sung vào thức ăn lợn, gia cầm 3-5 %. - Ủ mắm giun đất: Thu hoạch giun, làm sạch, cho giun trộn muối như muối mắm tép sau 2-3 tháng giun ngấu thành mắm: Mắm giun đất cho lợn ăn hàng ngày 15-20 g/con, hoặc cho 2 ngày 1 lần 30 g/con. Hoặc làm đông lạnh: thu hoạch giun, làm sạch, đóng gói cho vào máy đông lạnh Một số sản phẩm của giun trên thị trường: Bột trùn (giun) Trùn(giun) đông lạnh 17
  18. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Dịch trùn (giun) phân trùn (giun) II.5. Tình hình nuôi giun đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế có số lượng gia súc, gia cầm tương đối lớn đó là một điều kiện thuận lợi cho việc chăn nuôi giun phát triển. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2007 Thừa Thiên Huế có số lượng đàn trâu là 38 ngàn con, số lượng đàn bò là 28 ngàn con, số heo là 266,8 ngàn con và số gia cầm là 1632 ngàn con, đây là một nguồn cung cấp phân rất lớn làm thức ăn cho giun. Hơn nữa Huế có môi trường ít bị ô nhiễm, vùng dân cư thưa thớt, to trung bình cao nên có thể tiền hành nuôi được quanh năm. Nhìn chung Thừa Thiên huế có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các mô hình nuôi giun đất với quy mô lớn Hiện nay trên địa bàn Thừa Thiên Huế mô hình nuôi giun đất chủ yếu được nuôi kết hợp với các vật nuôi khác để cung cấp thức ăn cho đàn vật nuôi ngay trong từng hộ, chủ yếu là quy mô nhỏ lẻ tự phục vụ, đáp ứng nhu cầu chăn nuôi trong nông hộ, một số ít được bán phục vụ cho các trại câu cá. Ngoài ra giun đất được nuôi để nghiên cứu và cung cấp giống ở một số trại nghiên cứu giống vật nuôi trên địa bàn (như ở trại Thủy An). Và ở một số trang trại lớn chăn nuôi lớn trong tỉnh, giun đất được nuôi chủ yếu để cung cấp thức ăn cho tôm, cá, gia súc, gia cầm và một số vật nuôi khác. Giun đất được nuôi theo quy trình kĩ thuật chủ yếu như sau: Con giống thường được bà con mua từ các trung tâm giống vật nuôi trên địa bàn. Sau khi thả giống thì dùng nước tưới phun sương trên bề mặt luống và có thể cho giun ăn ngay. Một ngày tiến hành tưới nước hai lần, nhưng phải tưới bằng nước đồng (nếu dùng nước giếng giun sẽ chết ngay). Trước đây bà con thường nhân giống bằng giun giống tới 80 % để nhân giống vì vậy phải mất một tháng thì lượng sinh khối mới bắt đầu phát triển và sau 2 tháng thì chúng ta mới thu hoạch được và chi phí đầu tư con giống cao. Nhưng hiện nay bà con đã tự nhân giống bằng sinh khối thì chỉ cần sau 1 tháng chúng ta có thể thu hoạch được và chi phí cho con giống cũng thấp hơn rất nhiều. Thức ăn cho trùng thương được tận dụng bằng nguồn phân gia súc, gia cầm trong gia đình nhưng nguồn thức thường được bà con cho ăn phổ biến nhất vẫn là phân bò, tùy theo lượng trung trong luống mà thời gian cho ăn cung cách nhau từ khoảng 4 đến 7 ngày. 18
  19. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương Do nuôi theo quy mô nhỏ lẻ nên phương pháp thu hoạch của bà con cũng khá đơn giản: Giun thường được thu hoạch theo nhiều cách khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là sau khi cho giun ăn được 3 ngày, dùng tay hốt trên bề mặt luống, nơi đã bỏ phân (vì chúng sẽ tập trung vào đây để ăn). Trải tấm nilon ngoài sân trống ở nơi có ánh nắng. Đổ phần hỗn hợp vừa hốt được lên tấm nilon, sau đó gạt bỏ phần phân giun bên trên lần lượt (vì khi ra ngoài giun rất sợ ánh nắng nên trốn xuống phía dưới) cho đến khi chỉ còn lại giun. Vào mùa mưa do thời gian mưa kéo dài nên phương pháp thu hoạch chủ yếu được sủ dụng là: Xúc toàn bộ sinh khối trong chuồng đổ cao lên qua một bên chuồng, sau đó dùng phên tre (là loại bồ được đan bằng tre) để chắn giữ lại, dùng cọc tre để giữ phên. Bỏ thức ăn mới vào phần bên chuồng trống, giun sẽ nghe được mùi thức ăn mới và sẽ chui qua phần bên này, để giun sống ở đó và bắt cho vật nuôi ăn từ từ. thời gian thu hoạch mỗi lứa cách nhau từ 25 đến 35 ngày. Còn phần phân giun thu dược thi bà con thương dùng để bón cho ao tôm đối với những hộ có ao nuôi, hoặc bón cho rau, một số để bán để xủ lý ao tôm. Nhìn chung các mô hình nuôi giun quế trên địa bàn chủ yếu được nuôi với quy mô nhỏ lẻ để cung cấp nguồn thức ăn vật nuôi trong nông hộ là chính nhưng đã bước đầu góp phần nâng cao năng suất chât lương vật nuôi. Và mô hình này ngày càng được nhiều người dân trong tỉnh quan tâm. 19
  20. Tiểu luận: chăn nuôi đại cương PhầnIII: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ III.1. KẾT LUẬN Giun đất đã và đang mang lại rất nhiều hiệu quả cho ngành chăn nuôi nói riêng và cho đời sống con người nói chung. Nó không chỉ giải quyết vấn đề thức ăn gia súc mà còn còn góp phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do phân gia súc, gia cầm thải ra và phân giun là một trong những loại phân bón rất hữu ích . Giun đất ngày càng mang lại một giá trị kinh tế rất lớn cho người nông dân. Ngoài những giá trị trong ngành nông nghiệp thì giun đất cũng có giá trị rất lớn trong các lĩnh vực khác như y học, mỹ phẩm và thực phẩm. Kĩ thuật nuôi giun quế cũng rất đơn giản và dễ làm, có thể nuôi ngay trong khay chậu nếu không có diện tích lớn, hoặc nuôi ngay trên đồng ruộng có hoặc không có mái che, đối với nhũng hộ gia đình có diện tích lớn thí có thể nuôi trong nhà với quy mô công nhiệp. Chăm sóc giun quế cũng không khó, nếu chú ý đảm bảo đầy đủ điều kiện nước, nhiệt độ, độ ẩm, và địch hại thì giun đất sẽ sinh lợi rất nhanh. Nhìn chung mô hình nuôi giun đất sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho nhiều người chăn nuôi, và thực tế cũng đã có rất nhiều triệu phú làm giàu từ chính những sinh vật nhỏ bé này. Nếu mô hình nuôi giun quế được phổ biến rộng rãi trong nông dân thì chắc chắn nó sẽ góp phần làm tăng giá trị kinh tế cho người nông dân. Giun đất là một con vật nhỏ bé nhưng tác dụng của nó không nhỏ bé chút nào. Nếu biết tận dụng hết khả năng kì diệu của con giun chắc chắn nó sẽ mang lại hiệu quả to lớn. III.2. ĐỀ NGHỊ Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên quá trình tìm hiểu còn rất nhiều thiếu sót. Nếu có điều kiện nghiên cứu lại tôi sẽ cố gắng nghiên cứu tìm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2