intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 103

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

74
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Công cuộc đổi mới, quan điểm toàn diện, thời kỳ đổi mới, cơ sở lí luận,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 103

  1. LỜI MỞ ĐẦU Trải qua 20 năm (1986 ­ 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất  nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng   ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử  trọng đại.  Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con   đường đi lên chủ  nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt  Nam. Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế ­ xã hội,   kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của   các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Đổi mới làm thay đổi  gần như tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội Đảng  VI (12/1986) đến nay đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và  tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách   đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi  đua sản xuất đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ  1987. Xét riêng về  kinh tế, thứ nhất đổi mới đã chuyển nền kinh tế  Việt   Nam từ  nền kinh tế  kế  hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế  thị  trường   định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu   trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ  đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư  nhân đều được khuyến khích phát triển không hạn chế; thứ hai, đã chuyển  1 nền kinh tế  khép kín, thay thế  nhập khẩu là chủ  yếu sang nền kinh tế  mở, chủ  động hội nhập, hướng mạnh về  xuất khẩu, thứ  ba, tăng trưởng  kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới  và phát triển  ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm nghèo và giải quyết công  ăn việc làm là 2 ưu tiên trọng tâm; thứ tư, cùng với đổi mới kinh tế đã từng   1
  2. bước đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo   của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý  quan điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới  kinh tế ở nước ta hiện nay. 2
  3. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN 1. Nguyên lí về  mối liên hệ  phổ  biến ­ cơ  sở  lí luận của quan   điểm toàn diện a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ  là phạm trù triết  học dùng để chỉ  sự  qui định, sự  tác động qua lại, sự  chuyển hoá lẫn nhau   giữa các sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. b. Các tính chất của mối liên hệ   Tính khách quan: Mọi mối liên hệ  của các sự  vật hiện tượng là  khách quan, là vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri  vô giác cũng đang ngày hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật  hiện tượng  khác  nhau (như   ánh sáng,  nhiệt  độ,  độ   ẩm…)  tự  nhiên, dù   muốn hay không, cũng luôn luôn bị  tác động bởi các sự  vật hiện tượng   khác. Đó là tính khách quan của mối liên hệ.  Ngoài ra, mối liên hệ vốn có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối  liên hệ thể hiện: Thứ  nhất, bất cứ  sự  vật, hiện tượng nào cũng liên hệ  với sự  vật  hiện tượng khác, không có sự  vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.  Trong thời đại ngày nàykhông có một  quốc gia nào không có quan hệ, liên  hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội và ngay cả Việt   Nam ta khi tham gia tích cực vào các tổ chức như ASEAN, hay sắp tưói đây   là WTO cũng không ngoài mục đích là quan hệ, liên hệ, giao lưu với nhiều   nước trên thế giới. Thứ  hai, mối liên hệ  biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt cụ  thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng  chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. c. Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện 3
  4. Từ  nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về  mối liên hệ  phổ  biến và về sự phát triển rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và  cải tạo hiện thực. Đó chính là quan điểm toàn diện. Vì bất cứ sự vật nào, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong  mối liên hệ  rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về  sự  vật hiện   tượng ta phải xem xét nó thông qua các mối liên hệ của nó với sự vật khác  hay nói cách khác chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm   phiến diện chỉ  xét sự  vật hiện tượng  ở  một mối liên hệ  đã vội vàng kết   luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng. 2. Nội dung của quan điểm toàn diện Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức sự  vật trong mối   liên hệ  qua lại giữa các bộ  phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính  sự  vật đó với các sự  vật khác, kể  cả  mối liên hệ  trực tiếp và mối liên hệ  gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt  từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ  bên trong, mối liên hệ  bản  chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên… để hiểu rõ bản chất của   sự vật. Quan điểm toàn diện không chỉ  đòi hỏi chúng ta nắm bắt những cái  hiện đạng tồn tại  ở sự  vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển   tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những   biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ  bản là phải khái quát những   biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật. 3. Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt  động của con   người Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự  vật hiện tượng từ nhiều   khía cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật hiện tượng  từ nhiều khía cạnh  4
  5. từ mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác sẽ giúp con người có nhận thức  sâu sắc, toàn diện về sự vật và hiện tượng đó tránh được quan điểm phiến  diện về  sự vật và hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ  đó có thể  kết luận   về bản chất qui luật chung của chúng để đề ra những biện pháp kế  hoạch   có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả  coa nhất cho  hoạt động của bản thân. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động chúng ta   cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ trong điều kiện  xác định. II. QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT  NAM HIỆN NAY 1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm trước đổi mới Sau khi đất nước được giải phóng (năm 1976) và đất nước thống   nhất năm (1976). Mô hình kinh tế  kế  hoạch hoá tập trung  ở  miền Bắc   được áp dụng trên phạm vi cả  nước. Mặc dù có nỗ  lực rất lớn trong xây  dựng và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư  khá lớn nhưng vì trong   chính sách có nhiều điểm duy ý chí nên trong 5 năm đầu (1976 ­ 1980) tốc  độ  tăng trưởng kinh tế  chậm chạp chỉ   đạt 0,4%/năm (kế  hoạch là 13 ­  14%/năm) thậm chí có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Biểu   hiện ở các mặt.  Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ tiêu chủ  yếu của kế  hoạch 5   năm lần thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15 chỉ tiêu kế  hoạch đặt ra  cho năm 1976 ­ 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ  lệ hoàn thành còn ở  mức rất thấp. Chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50 ­ 80% so với kế hoạch (điện, cơ khí,  khai hoang, lương thực, chăn nuôi lợn, than, nhà  ở) còn 8 chỉ  tiêu khác chỉ  đạt 25 ­ 48% (trồng rừng, gỗ tròn, vải lụa, cá biẻn, giấy, xi măng, phân hoá   học, thép). 5
  6.  Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của nền kinh tế Quốc dân còn yếu   kém, thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ  nói chung còn lạc hậu (phổ  biến là   trình độ kỹ thuật của những năm 1960 trở về trước) lại chỉ phát huy được  công suất  ở  mức 50% là phổ  biến công nghiệp nặng còn xa mới đáp  ứng  được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ  bị  phụ  thuộc 70 ­ 80% nguyên  liệu nhập khẩu. Do đó đa bộ phận lao động vẫn là lao động thủ công, nền   kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ. Phân công lao động xã hội kém phát triển,  năng suất lao động xã hội rất thấp.    Cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm  trọng. Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng vưói sức lao động và  vốn đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, phải dựa   vào nguồn bên nogài ngày càng lớn. Toàn bộ  qũy tích luỹ  (rất nhỏ  bé) và  một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài (riêng lương thực  phải nhập 5,6 triệu tấn trong thời gian 1976 ­ 1980. Năm 1985 nợ  nước  ngoài lên tới 8,5 tỉ Rup ­ USD cái hố ngăn cách giữa nhu cầuvà năng lực sản  xuất ngày càng sâu.  Phân phối lưu thông bị  rối ren. Thị  trường tài chính, tiền tệ  không  ổn định. Ngân sách Nhà nước liên tục bị bội chi và ngày càng lớn năm 1980   là 18,1%, 1985 là 36,6% dẫn đến bội chi tiền mặt. Năm 1976, trên phạm vi  cả  nước, lạm phát đã xuất hiện và ngày càng nghiêm trọng giá cả  tăng  nhanh. Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, do đó tiêu cực và bất công   xã hội tăng lên. Trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ  trong  giai đoạn này nước ta bị khủng hoảng kinh tế chính trị, xã hội. Trước tình hình đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xướng lãnh  đạo thực hiện công cuộc đổi mới. 2. Nội dung của đổi mới 6
  7. Tại Đại hội Đảng VI (tháng 12 / 1986) đã xem lại một cách căn bản  về  vấn đề  cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm về  xây dựng nền kinh tế  nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn   diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực   chất là nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ  chế  thị  trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. 2.1.Xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan  Cơ  sở  khách quan cho sự  tồn tại và phát triển kinh tế  thị  trường  ở  Việt Nam, gồm 3 cơ sở chính:  Trong  nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở  hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở  hữu cá thể, sở  hữu   tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ  thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế hàng hoá giữa họ chỉ  có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.   Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ  sở  chung của sản   xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển   cả  về  chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực,   từng địa phương cũng ngày càng phát triển sự phát triển của phân công lao  động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao   của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.  Quan hệ  hàng hoá, tiền tệ  còn cần thiết trong quan hệ  kinh tế  đối  ngoại đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế  ngày càng sâu  sắc, vĩ mô nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ  sở  hữu đối với  các hàng hoá đưa ra tra đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải  theo nguyên tắc ngang giá. Mặt khác xây dựng kinh tế thị trường còn nhiều tác dụng to lớn đối   với nền kinh tế Việt Nam. 7
  8. + Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ  lên CNXH mang   nặng tính tự  cung tự  cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ  phá vỡ  dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã  hội hoá sản xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản   xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc   mỗi chủ  thể  sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ  mới để  giảm chi phí nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả. Quá trình đó thúc đẩy lực   lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. + Kinh tế  hàng hoá kích thích tính năng động sáng tạo của chủ  thể  kinh tế kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng   khối lượng hàng hoá và dịch vụ. Sự phát triển của kinh tế  chuyên môn hoá  sản xuất. Vì thế  phát huy được tiềm năng và lợi thế  của từng vùng, cũng  như  lợi thế  của đất nước có tác dụng mở  rộng quan hệ  kinh tế  với nước   ngoài. + Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và  tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội  hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi,  hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ  lao động lành nghề đáp ứng   vào nhu cầu phát triển của đất nước. Nói tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế  với   nước ta, một nhiệm vụ  kinh tế  cấp bách để  chuyển nền kinh tế  lạc hậu   của nước ta thành nền kinh tế  hiện đại, hội nhập vào sự  phân công lao   động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất,   khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự  nghiệp công nghiệp  hoá ­ hiện đại hoá. 2.2.   Giải   pháp   cơ   bản   để   phát   triển   kinh   tế   thị   trường   định   hướng XHCN ở Việt Nam 8
  9. a. Thực hiện nhất quá chính sách kinh tế nhiều thành phần Đại hội VI đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề  cải tạo XHCN   và đưa ra quan điểm mới về  nền kinh tế  nhiều thành phần: "Đi đôi với   việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích  luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài cần có chính sách  sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác" (1). Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và  xuất phát từ  thực trạng kinh tế  nền kinh tế  Việt Nam. Nó cho phép có  nhiều hình thức sản xuất kinh doanh theo qui mô thích hợp với từng khâu  của quá trình tái sản xuất và lưu thông nhằm khai thác mọi khả  năng của   các thành phần kinh tế. Đảng coi đây là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để  giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.  Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước  Là thành phần nắm giữ  một khối lượng lớn tài sản cố  định và vốn  lưu động, với gần 3 triệu lao động tạo ra khoảng 35 ­ 40% tổng sản phẩm   xã hội và đóng góp trên 50% ngân sách Nhà nước. Trong nhiều ngành công  nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chiếm khoảng từ  70 ­ 100% sản lượng.   Tuy nhiên các xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ  sở  kinh doanh yếu kém và không có hiệu quả  thua lỗ  hoặc không có lãi. Vì   vậy đổi mới các xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp Nhà  nước) là một trong những nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới và  được thực hiện từng bước với các biện pháp: + Từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nước đi  đôi với xoá bỏ chế độ Nhà nước bao cấp tài chính, cung ứng và bao cấp giá   vật tư và định giá đối với hầu hết các sản phẩm do DNNN sản xuất và tiêu  thụ. Chế độ quốc doanh cũng được bãi bỏ thay vào đó là chế độ thuế. 9
  10. + Sắp xếp lại DNNN theo hướng giải thể  các doanh nghiệp hoạt  động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, sát nhập các doanh nghiệp có liên quan  với nhau về  công nghệ  và thị  trường. Tổ chức lại công ty và các liên hiệp   công nghiệp được thành lập trước đây thành lập các Tổng công ty mới,   trong đó Nhà nước bổ nhiệm Hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách  nhiệm trước nhà nước về kết quả hoạt động của Tổng công ty. + Chuyển sang các hình thức sở  hữu khác, cổ  phần hoá DNNN bắt   đầu   thực   hiện   thí   điểm   từ   năm   1992,   đến   năm   1996   mới   có   10   doanh  nghiệp đựơc cổ  phần hoá.Từ  năm 1998 đến năm đến nay Nhà nước đã  thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ  phần hoá,  ngoài ra Nhà nước còn thực hiện nhiều biện pháp chuyển đổi DNNN sang   các hình thức sở hữu và kinh doanh khác như: giao, bán, khoán, kinh doanh   đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ. + Sắp xếp đổi mới phát triển DNNN vẫn được nghiên cứu và tiếp  tục thực hiện theo hướng đa dạng hoá sở hữu, hoàn thiện thể chế làm cho  DNNN có quyền tự  chủ  và hiệu quả  sản xuất kinh doanh ngày một nâng  cao. Năm 2003, chính phủ bắt đầu thực hiện chuyển đổi DNNN, kể cả các  tổng công ty theo mô hình công ty mẹ ­ công ty con.  Đổi mới kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác chủ yếu dưới các hình thức: Tổ hợp tái tập đoàn sản   xuất, hợp tác xã được hình thành trong quá trình cải tạo XHCN đối với  những  người  sản xuất  nhỏ  cá thể  trong nông nghiệp thủ  công nghiệp,   thương nghiệp và dịch vụ. Trong kinh tế hợp tác sở hữu tập thể kiểu chung  chung, không phân định rõ trách nhiệm thêm vào đó là những yếu kém trong  quản lý, nên đã bộc lộ  nhiều hạn chế  đặc biệt mô hình hợp tác xã nông  nghiệp đã rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Nhiều hợp tác xã tồn tại trên hình  thức. Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hợp tác chuyển theo các hướng sau: 10
  11. + Giải thể  các tập đoàn sản xuất hoặc các hợp tác xã làm ăn kém,  thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức. + Giao khoán hoặc nhượng bán tư  liệu sản xuất cho xã viên để  họ  trực tiếp quản lý, sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình. Hợp tác xã chỉ làm  một số khâu dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm cho xã viên. Đối với  các đất đai trong hợp tác xã nông, lâm nghiệp Nhà nước vẫn nắm quyền sở  hữu nhưng giao cho các hộ gia đình nông dân quản lý, sử dụng với 5 quyền   cơ  bản: Thừa kế, cho thuê chuyển đổi, chuyển nhượng và thế  chấp (theo   luật đất đai ban hành năm 1993). + Chuyển các hợp tác xã còn hoạt động kinh doanh thành các hợp tác  xã cổ phần, hoạt động theo luật hợp tác xã (ban hành năm 1997).  Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp. Trước khi đổi mới khu vực kinh tế tư nhân và cá thể vẫn  còn tồn tại  ở   nước   ta,   chiếm   tới   29,1%   trong   tổng   sản   phẩm   xã   hội.   Nhưng   chủ  trương của Nhà nước là hạn chế, cải tạo nên khu vực này từng bước được  khôi phục và phát triển theo chủ trương cải cách của  Nhà nước. Với chủ trương giao ruộng đất cho xã hội hợp tác xã nông nghiệp thì  ở nông thôn, các hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ hoàn toàn.   Sự tan rã của các tập đoàn sản xuất và các hợp tác xã đã thúc đẩy sự phục  hồi rất nhanh của kinh tế cá thể. Hiến pháp năm 1992 qui định mọi công dân được tự  do kinh doanh  theo pháp luật không hạn chế  qui mô vốn là số  lao động sử  dụng. Sau đó   hệ thống luật pháp tiếp tục được hoàn chỉnh và nhiều chính sách mới được   ban hành nhằm khuýến khích phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. Các hình thức sở  hữu, kinh doanh hỗn  hợp mới ra đời. Đặc biệt từ  năm 1988, khi Nhà nước ban hành Luật đầu tư  nước ngoài thì các liên  doanh với nước ngoài phát triển dưới nhiều dạng khác nhau, như là: doanh  11
  12. nghiệp   liên   doanh,   doanh   nghiệp   hợp   đồng   hợp   tác   kinh   doanh   doanh  nghiệp 100% vốn nước ngoài… riêng năm 2000 đã có 1063 doanh nghiệp  có vốn đầu tư nước ngoài 2787 doanh nghiệp hỗn hợp. Đẩy mạnh công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá (CNH­HĐH)  ứng dụng   nhanh tiến bộ khoa học công nghệ trên cơ sở đó phân công lao động xã hội. Phân công lao động là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá   vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá phải đẩy mạnh phân công lao động xã  hội mà sự  phân công lao động xã hội do sự  phát triển của lực lượng sản   xuất quyết định cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội còn đẩy  mạnh công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá đất nước để  xây dựng cơ  sở  vật   chất, kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại.  Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội  từ một nước nông nghiệp lạc hậu  cơ sở vật chất ­ kỹ thuật thấp kém, trình độ  của lực lượng sản xuất chưa   phát triển, quan hệ sản xuất XHCN mới được thiết lập, chưa hoàn thiện vì  vậy, quá trình công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ  sở  vật chất cho   nền kinh tế. Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển   mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ  thuật và công nghiệp   hiệnd  đại phát triển rất nhanh chóng: những thuận lợi và khó khăn về  khách quan và chủ  quan, có nhiều thời cơ  và thách thức, nền kinh tế  của  chúng ta đan xen với nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, đất nước chúng ta  phải chủ động, sáng tạo nắm lấy thời cơ, phát huy những thuận lợi để đẩy  nhanh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế và lực mới để  vượt qua những   khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế  tăng trưởng phát triển bền   vững.  Tác dụng của công nghiệp hoá. 12
  13. Trước hết nó có tác dụng thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế  xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh   tế  xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công  nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày  càng thể  hiện đầy đủ  hơn bản chất  ưu việt của chế  độ  mới xã hội chủ  nghĩa. Thực hiện công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật  chất kỹ  thuật cần thiết về  con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  nhằm huy động năng suất lao động làm cho  nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho   nhân dân, thực hiện tiến bộ  và công bằng xã hội bảo vệ  và cải thiện môi  trường sinh thái. Công nghiệp hoá là cơ sở để củng cố vững chắc khối liên minh giữa   giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng  xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây   dựng nền kinh tế  độc lập tự  chủ, vững mạnh trên cơ  sở  đó mà thực hiện  tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.  Đặc điểm của công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Thứ nhất, công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá phải gắn liền với hiện đại  hoá sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra được cách mạng và khoa  học công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh   tế  công nghiệp sang kinh tế  tri thức nên phải tranh thủ   ứng dụng những  thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế  tri  thức để  hiệnd dại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều  kiện nhảy vọt. Thứ  hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả  các nước chậm phát  13
  14. triển nhưng với mỗi nước , mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có   thể  khác nhau  ở  nước ta, công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ  sở  vật chất   kỹ  thuật cho chủ  nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để  bảo vệ  nền độc  lập dân tộc. Thứ  ba, công nghiệp hoá trong điều kiện cơ  chế  thị  trường có sự  điều tiết của Nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn  hiện nay có sự khác biệt, nó không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước mà  nó đòihỏi phải vận dụng các qui luật khách quan mà trước hết là các qui  luật thị trường. Thứ tư, công nghiệp hoá trong điều kiện "chiến lược" kinh tế mở có  thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế  giới và sự giúp đỡ của quốc tế. Tuy nhiên nó cũng gây không ít trở ngại do  những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới, mà các nước tư bản phát   triển thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công  nghiệp hoá ­ hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nước ta một nền kinh tế  độc lập tự chủ.  Những nội dung cơ bản của CNH ­ HĐH ở Việt Nam Phát triển lực lượng sản xuất ­ cơ  sở  vật chất kỹ  thuật của chủ  nghĩa xã hội trên cơ  sở  thực hiện cơ  khí hoá nền sản xuất xã hội và áp  dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Chuyển đổi cơ  cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá hợp lý và hiệu   quả  cao. Cơ  cấu kinh tế  được gọi là hợp lý kho nó đáp  ứng đủ  các điều   kiện sau đây: + Nông nghiệp phải giảm dần về tỉ trọng, công nghiệp, xây dựng và   dịch vụ phải tăng về tỉ trọng 14
  15. + Trình độ  kỹ  thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp  với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão  trên thế giới. + Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các  ngành các địa phương, các thành phần kinh tế. + Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu   hoá kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu. Thiết lập quan hệ  sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Đó là nội dung công nghiệp hoá  ở  nước ta, mà cụ  thể  hơn nội dung  của công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá và hiện đại hoá ở nước ta trong những  năm trước mắt: + Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp  nông thôn. + Phát triển công nghiệp hoá chú trọng các ngành: nghề  chế  biến  lương   thực   thực   phẩm,   sản  xuất   hàng  tiêu   dùng,  hàng   xuất  khẩu   công  nghiệp điện tử và công nghiệp thông tin. + Cải tạo, mở  rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết   cấu hạ tầng, vật chất của nền kinh tế. + Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ. + Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Đại hội VI đã chỉ  rõ:"Cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh   thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa dạng để  phát triển kinh tế  đối ngoại" (1). Thực hiện chủ  trương đó, Nhà nước đã  ban hành chinhs ách "mở cửa" để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, từng   bước gắn nền kinh tế  quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong   15
  16. nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đảm  bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia.   Về   ngoại   thương,   cải   cách   ngoại   thương   được   thực   hiện   theo  hướng từng bước mở cửa và hội nhập quốc tế. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là: Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp   ứng nhu cầu nhập khẩu, coi xuất khẩu là một trong 3 chương trình trọng   điểm của chặng đường đầu tiên, là hướng  ưu tiên của kinh tế  đối ngoại  trong suốt thời kỳ đổi mới. Các giải pháp cụ thể là: + Nhà nước xoá bỏ  bao cấp bù lỗ  trong kinh doanh xuất nhập khẩu   đối với các DNNN từ  cuối năm 1987 các doanh nghiệp này phải tự  hạch   toán kinh doanh sao cho có hiệu quả. + Nhà nước bỏ nguyên tắc  độc quyền ngoại thương (từ năm 1990) + Điều chỉnh tỷ  giá hối đoái để  khuyến khích xuất khẩu. Từ  năm  1991 chế độ 2 tổ quốc được xoá bỏ, chuyển sang thực hiện tỷ giá linh hoạt   có quản lý củ Nhà nước.  Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước nogài Năm 1987, Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài, sau đó được  bổ sung và sửa đổi nhiều lần nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư  nước ngoài  như đơn giản hoá thủ tục hành chính, xây dựng các khu chế xuất, cơ sở hạ  tâng thuận tiện.  Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc  tế  và thu hút đầu tư  của nước ngoài, kết hợp các nguồn lực bên trong và   bên ngoài để phát triển kinh tế. d. Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ  chế quản lý kinh tế của Nhà nước 16
  17. Cơ  chế  quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ  nhiều năm nay đã  không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực  trong xã hội. Do đó, đại hội VI đã chủ  trương đổi mới về  cơ  chế  quản lý   kinh tế  và chỉ  ra thực chất của cơ  chế  mới đó là: "Cơ  chế  kế  hoạch hoá  theo hướng  phương  thức  hạch  toán  kinh doanh xã hội chủ  nghĩa,  đúng   nguyên tắc tập trung dân chủ"(1) Trên cơ  sở  đánh giá những vấn đề  thực tiễn trong đổi mới cơ  chế  quản lý ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp  tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ  chế  quản lý kinh tế  theo   hướng "xóa bỏ  cơ  chế  tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" (2). Điều đó  thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống các công cụ, chính sách quản lý  và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước. (1). Báo cáo chính trị  tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VI,   trang 46 (2) Đảng cộng sản Việt Nam, trang 98 3. Những thành tựu sau 20 năm đổi mới 3.1. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao Trong suốt thời kỳ  đổi mới từ  năm 1986 cho đến nay nền kinh tế  Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ  tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt thời gian từ 1986­1997. Trong 5 năm đầu đổi mới (1986­1990), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ  dần, các doanh nghiệp Nhà nước và các hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu   vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa phát triển nền kinh tế rơi vào tình trạng  bất ổn định, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng năm 1986 đạt 0,3%) và lạm  phát cao kéo dài. Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục tăng  17
  18. trưởng  ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong  kế hoạch 5 năm (1991­1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiều   chỉ  tiêu của kế  hoạch này. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đã nhận  định: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế  xã hội nhưng một số  mặt   còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ  đề  ra cho chặng đường đầu của thời kỳ  quá độ  và chuẩn bị  tiền đề  cho công nghiêp hoá đã hoàn thành, cho phép   chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tất cả các mục tiêu kinh tế ­ xã hội của kế hoạch 5 năm (1996­2000)   và chiến lược kinh tế 10 năm (1991­2000) đều đạt và vượt kế hoạch; GDP  trong 10 này tăng bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ  vậy GDP năm 2000  đã gấp 2,07 lần năm 1990. Riêng 2 năm 1998­1999 nền kinh tế tăng trưởng  châm hơn trước (5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài  chính tiền tệ  cùng với thiên tai xảy ra trong nhiều vùng trên cả  nước. Tuy   nhiên đến năm 2000­2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đạt 6,7%; 68% và  70% đặc biệt năm2005 là 8,0% đưa tốc độ  tăng trưởng bình quân trong 5  năm 2001­2005 từ 7,5%. Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà  còn dành một phần để  tích luỹ   (năm 1991: 10,1%; 1995: 20%; năm 2000:  27% GDP). Dưới đây là thành tựu của một số ngành.   Nông nghiệp phát triển toàn diện cả  về  trồng trọt và chăn nuoi  nghề rừng và thủy sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc,   an toàn lương thực quốc gia. Sản lượng lương thực đã tăng nhanh: từ 21,5   triệu tấn (năm 1990) lên 27,5 triệu tấn (năm 1995) và 34,5 triệu tấn (năm  2000) gần 36 triệu tấn (năm 2002). Bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn.  Sản lượng lương thực bình quân đầu người nhờ  đó cũng tăng lên. Việt  Nam đã từ  một nước thiếu lương thực (trước năm 1989 trở  thành nước   xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới sau Thái Lan). 18
  19. Những chuyển biến trên mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng  vào việc ổn định đời sống nhân dân. Các vùng cây ăn quả tập trung cũng được hình thành, nhiều mặt hàng  nông sản đã chiếm được vị  trí đáng kể  trong kim ngạch xuất khẩu. Trong   10 năm 1991­2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%; cao su  tăng 12,4%; cà phê tăng 17,7%; rau quả tăng 10,8%; hạt tiêu tăng 24,8%; hạt  điều tăng 37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm khoảng 40% tổng   giá trị  xuất khẩu của cả  nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá đã hình  thành gắn với thị trường quốc tế.   Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ  2 con số.   Bình quân thời kỳ  1991­1995 tăng 13,7%, thời kỳ  1996­2000 tăng 13,2%.  Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp nhưu điện,  than, vải, thép, xi măng… tăng nhanh trong những năm đổi mới và đáp ứng   tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống nhân dân và xuất khẩu. Thời kỳ này đã hoàn thành một số công trình lớn: thuỷ điện Hoà Bình,  Trị  An, Yaly, đường dây 500 KV Bắc ­ Nam, nhiệt  điện Phả  Lại, Phú  Mỹ… Sản lượng điện đã tăng từ  5,7 tỷ  KWh năm 1986 lên 26,6 tỷ  KWh  năm 2000. Nhờ đó điện lưới quốc gia đã phủ tới 98% số huyện 70% số xã,   90% số hộ thành thị, 60% số hộ nông dân.  Hệ  thống đường giao thông, bưu điện được xây dựng mới và nâng  cấp đang vươn tới mọi miền của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa. Hoạt   động thương mại có nhiều khởi sắc, cơ  chế  cung cấp theo tem phiếu và  thu mua theo nghĩa vụ  bị  bãi bỏ  thay thế  vào đó là tự  do lưu thông, thống  nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hoá và dịch vụ, giá cả ổn định, chất  lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện. 3.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ  Cơ cấu ngành kinh tế  19
  20. Cơ  cấu ngành kinh tế  đã có sự  chuyển dịch theo hướng khu vực I   (gồm nông, lâm nghiệp và thuỷ  sản) tuy vẫn đạt tốc độ  tăng trưởng cao   liên tục nhưng tỉ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của khu vực II   (gồm công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực II (các ngành dịch vụ đã  tăng lên).  Cơ cấu các thành phần kinh tế  Các thành phần kinh tế trong GDP đã có sự chuyển dịch từ chủ yếu là  quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ  đạo kinh tế  quốc doanh vẫn được tăng cường. Doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại để hoạt động có hiệu quả  hơn: số doanh nghiệp đã giảm từ hơn 1200 (đầu 1990) xuống còn gần 6000  doanh nghiệp vào cuối năm 1990, tuy vậy tỉ  trọng kinh tế  Nhà nước vẫn   tăng lên từ  29,4% năm 1990 lên 39% năm 2000. Doanh nghiệp Nhà nước  từng bước được đổi mới và phát triển. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có sự biến đổi khá nhanh. + Kinh tế hợp tác: từ  năm 1988 đến 1994, cả  nước đã giải thể 2998  hợp tác xã yếu kém và 33804 tập đoàn sản xuất. Tính đến năm 1997 cả  nước có 13000 hợp tác xã nông nghiệp, 38000 tổ hợp tác. Nhiều hợp tác xã  nông nghiệp chuyển sang mô hình kiểu mới. + Kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình thức khác nhau đã tăng lên  nhanh chóng: từ  132 doanh nghiệp năm 1991 tăng lên 42393 doanh nghiệp  vào cuối năm 1999. Đặc biệt từ khi Nhà nước ban hành luật doanh nghiệp   1/1/2000, thì khu vực kinh tế tư nhân tăng lên rất nhanh. + Kinh tế cá thể và tiểu chủ cũng rất phổ biến, tính đến năm 1995 có  gần 2 triệu hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ và  hơn 3 triệu hộ gia đình nông dân cá thể. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2