intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 18 - Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:41

403
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 18 - Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

  1. A­ ĐẶT VẤN ĐỀ  I­ Lý do chọn đề tài Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ  cuối năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9­ 1960) của Đảng lao   động Việt Nam đã quyết nghị “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền  Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát  triển công nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn tiếp tục. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và  điều kiện: ­ Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hóa, tình hình trong nước và  quốc tế  luôn diễn biến rất sôi động, phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu  công nghiệp hóa được bốn năm thì đế  quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại  miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền   Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng; miền Nam thực   hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ  nghĩa xã hội được vài năm thì kẻ  thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh  biên giới kết thúc lại kéo theo cấm vận của Mỹ. ­ Nếu những năm 60, hệ  thống xã hội chủ  nghĩa lớn mạnh, phát triển  nhanh không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy   tín trên thế  giới đã tạo ra hoàn cảnh quốc tế  thuận lợi cho công nghiệp hóa ở  nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc tế  lại gây bất lợi cho quá  trình   công   nghiệp   hóa   ở   nước   ta.   Sau   cuộc   khủng   hoảng   dầu   lửa   của   thế  giới( 1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công  nghệ chậm hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị  trường quốc tế giảm, cộng các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô  và các nước Đông Âu, làm mất đi thị trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các  nước này( ước tính 1 năm 1 tỷ đô la, chiếm 7% GDP ). 1
  2. Công nghiệp hóa ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh  tế­ xã hội, về  phát triển lực lượng sản xuất và từ  trạng thái không phù hợp   giữa quan hệ  sản xuất với trình độ  và tính chất phát triển của lực lượng sản  xuất. Năm 1960 công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao   động xã hội trong các ngành kinh tế  quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ  lệ  tương   ứng là 42,35 và 83%; sản lượng lương thực bình quân đầu người dưới 300 kg;   GDP bình quân đầu người khoảng dưới 100 đô la. Trong khi phân công lao động   xã hội chưa phát triển và lực lượng sản xuất  ở  trình độ  thấp thì quan hệ  sản  xuất đã được đẩy lên trình độ  tập thể  hóa và quốc doanh hóa là chủ  yếu. Đến  năm 1960: 85,8% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã; 100% hộ tư sản được cải   tạo trong tổng số tư sản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ  thủ công cá thể vào hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp Đứng trước thực trạng này Đảng ta đã quyết định xóa bỏ  cơ  chế  hành  chính, quan liêu, bao cấp, và xây dựng một quan hệ  sản xuất phù hợp với tính  chất và trình độ  của lược lượng sản xuất  ở nước ta hiện nay để  thúc đẩy quá   trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa , nhanh chóng đi lên chủ nghĩa cộng sản. Chính vì những lý do trên mà em quyết định chọn đề  tài: “ Vấn đề  đổi   mới lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất trong quá trình công nghiệp   hóa, hiện đại hóa  ở  Việt Nam”. Em nghĩ rằng việc nghiên cứu đề  tài này sẽ  giúp em và các bạn tìm  hiểu về vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam liệu có phải   là tất yếu và liệu nó có tuân theo một quy luật nào của tự nhiên hay không?.  Em xin chân thành cảm  ơn thầy giáo Phạm Duy Anh, người đã hướng   dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập cũng như trong việc hoàn thành   bài tiểu luận đầu tay này. 2
  3.   B­ NỘI DUNG  I­ Cơ sở triết học của đề tài  1­ Phương thức sản xuất Với tính cách là phạm trù của chủ  nghĩa duy vật lịch sử,   phương thức   sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất  ở  những giai đoạn lịch sử  nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức   nhất định của sự  sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ  xuất hiện những   tính chất, kết cấu và những đặc điểm tương ứng về mặt xã hội. Đối với sự vận động của lịch sử  loài người, cũng như  sự  vận động của  mỗi xã hội cụ  thể, sự  thay đổi phương thức sản xuất bao giờ  cũng là sự  thay  đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội...  được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người  ta có thể  phân biệt được sự  khác nhau của những thời đại kinh tế  khác nhau.   Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta   hiểu thời đại lịch sử  đó thuộc về  hình thái kinh tế  xã hội nào. C. Mác viết: “   Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà  là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” (1). Phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất  chính là sự  thống nhất giữa lực lượng sản xuất  ở  một trình độ  nhất định và   quan hệ sản xuất tương ứng. 3
  4.  2­ Lực lượng sản xuất  Trong hệ  thống các khái niệm của chủ  nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng   sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C. Mác  gọi là “ quan hệ  song trùng” của bản thân sự  sản xuất xã hội: quan hệ  của  người với tự nhiên và quan hệ của con người với nhau. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên.   Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự  sản xuất xã hội, con người chinh phục  giới tự  nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó  được chủ  nghĩa duy vật lịch sử  khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.  Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người trong quá trình  sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động   với  kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để  tạo ra của cải vật chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư  liệu sản xuất, trước hết là công cụ  lao động kết hợp với nhau tạo thành lực   lượng sản xuất. Trong đó, “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể  nhân  loại là công nhân, là người lao động”( 2). Do đặc trưng sinh học­ xã gội riêng có của mình, cong người, trong nền  sản xuất có sức mạnh và kỹ  năng lao động thần kinh cơ­ bắp. Trong lao động  sức mạnh và kỹ  năng  ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động  của con người ngày càng trở  thành lao động có trí tuệ  và lao động trí tuệ. Trí  tuệ con người không phải là cái gì siêu tự nhiên,mà là sản phẩm của tự nhiên và   4
  5. của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ  hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm   lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều  kiện của khoa học công nghệ  hiện nay, đã làm cho con người trở  thành một  nguồn kực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư  liệu lao động có công cụ  lao động và những tư  liệu lao động  khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm.... Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động  vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động không phải   là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào  sản xuất. Con người không chỉ  tìm trong giới tự  nhiên những đối tượng lao   động sẵn có, mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của   sản xuất có liên quan đến việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn  vào   quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn có tính quy luật bởi chính những vật liệu  mới mở  rộng khả  năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động chính là  yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại: + Loại có sẵn trong tự  nhiên. Loại này thường  là  đối tượng của các  ngành công nghiệp khai thác. + Loại đã qua chế  biến, nghĩa là đã có sự  tác động của lao động gọi là   nguyên liệu. Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến. Với sự phát triển của Cách mạng khoa học­ kỹ thuật hiện đại, vai trò của  nhiều đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động  có chất lượng mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn   là đất đai, tự  nhiên: “ lao động là cha, còn đất là mẹ  của mọi của cải vật   chất”( 3). 5
  6. Tư  liệu lao động: là một vật hay hệ  thống những vật làm nhiệm vụ  truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi  đối tượng lao động theo mục đích của mình. Tư  liệu lao động bao gồm công cụ  lao động, hệ  thống các yếu tố  vật   chất phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng, kho tàng,   bến bãi, ống dẫn, băng chuyền, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải,   thông tin liên lạc...). Trong các yếu tố  hợp thành tư  liệu lao động thì công cụ  lao động có ý  nghĩa quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ  lao động, theo Ph. Ăngghen là “ khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh   của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “ nối dài bàn tay” và nhân lên sức   mạnh trí tuệ của con người. Còn Mác gọi là hệ thống xương cốt và cơ bắp của  nền sản xuất Công cụ lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người   đặt giữa mình với đối tượng lao động. Trong quá trình sản xuất, công cụ  lao  động luôn luôn được cải tiến, tinh xảo hơn để  lao động bớt nặng nhọc và đạt  hiệu quả cao hơn. Nó là yếu tố  động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng   sản xuất. Cùng với sự  biến đổi vá phát triển của công cụ  lao động thì kinh   nghiệm sản xuất, kỹ  năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng  tiến bộ, phong phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự  phân công   lao động phát triển. Chính sự  chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng   của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho  cùng chính đó là nguyên nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ  phát   triển của công cụ  lao động là thước đo trình độ  chinh phục tự  nhiên của con  người, là cơ sở xác định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân  biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới, những tư  liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển   tương lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử. 6
  7. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao  động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh   nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa  đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được   tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã nêu một tư tưởng  quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ  xã hội. C. Mác viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những   lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay  đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách  kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả  quan hệ  xã hội của mình. Cái   cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi   nước đưa lại xã hội nhà tư bản công nghiệp”( 4).  3­ Quan hệ sản xuất Trong hệ  thống các khái niệm của chủ  nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm   lực lượng sản xuất biểu thị  mặt thứ  nhất của mối “ quan hệ  song trùng” của  bản thân sự  sản xuất xã hội­ quan hệ  của con người với tự  nhiên; còn khía   niệm quan hệ  sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó­ quan hệ  của con   người với con người trong sản xuất. Sở dĩ qúa trình sản xuất xã hội có thể diễn  ra bình thường, chính là vì trong sự  sản xuất đó, mối quan hệ  giữa con người   với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự  nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành   những trình độ  khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ  đó  được xây dựng trong và thông qua những quan hệ  khác nhau giữa người với   người, tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư  bản, C. Mác viết: “ Trong sản xuất, người ta không chỉ  quan hệ  với giới tự  nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một   7
  8. cách nào đó để hoạt động chung và để  trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản   xuất được người ta phải có những mối liên hệ  và quan hệ  nhất định với nhau;   và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”( 5). Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù  muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định   với nhau. những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào ý muốn  của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất( 6). Cố nhiên, quan hệ sản xuất   là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan sự  vận động của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây: + Quan hệ  giữa người với người đối với việc sở  hữu về  tư  liệu sản   xuất. + Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý. + Quan hệ  giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm lao   động. Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào  ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất  thuộc đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản  xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong   quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ  thống mang   tính  ổn định tương đối  so với sự  vận động không ngừng của lực lượng sản  xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao   gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức.   Mỗi mặt quan hệ  của hệ  thống quan hệ  sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng  biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ  tiến trình lịch sử nói chung. 8
  9. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở  hữu đối với tư liệu sản xuất­ biểu hiện thành chế  độ  sở  hữu­ là đặc trưng cơ  bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi  nền kinh tế­ xã hội xác định, quan hệ sở  hữu về tư  liệu sản xuất luôn luôn có  vai trò quyết định đối với tất cả  các quan hệ  xã hội khác . Quan hệ  sở  hữu là  quan hệ  xuất phát,  quan hệ  cơ  bản,  quan hệ  trung tâm  của các quan hệ  sản  xuất. Chính quan hệ sở hữu­ quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm  hữu các tư  liệu sản xuất đã quy định địa vị  của từng tập đoàn trong hệ  thống  sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống   sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau,  quy định cách thức mà các tập đoàn tổ  chức quản lý quá trình sản xuất. Cuối   cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm   cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ  thống sản xuất xã hội. “   Định nghĩa quyền sở  hữu tư  sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả  những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.( 7). Trong các hình thái kinh tế­ xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử  đã chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở  hữu cơ bản đối với tư  liệu   sản xuất: sở hữ tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà  trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ  sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với  nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất   là tài sản chung của cả  cộng đống nên các quan hệ  xã hội trong sản xuất vật  chất và trong đời sống xã hội nói chung, trở  thành quan hệ  hợp tác, tương trợ  giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong  tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số  ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống  trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế  độ  tư  hữu tiềm tàng  9
  10. khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác­ Lê  nin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch   sử( sở  hữu tư  nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở  hữu tư  nhân trong chế  độ  phong kiến và sở  hữu tư nhân trong chế  độ  tư bản) thì chế  độ  sở  hữu tư  nhân   tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế  đọ  tư  bản chủ  nghĩa  không phải là hình thức sở  hữu cuối cùng trong lịch sử  xã hội loài người. Chủ  nghĩa xã hội dựa trên chế  độ  công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn   cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản   lý sản xuất là các quan hệ  có khả  năng quyết định một cách trực tiếp quy mô,  tốc độ, hiệu quả  và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ  thể. Bằng cách nắm  bắt các nhân tố  xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ  chức cách  thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có  khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất. Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng   thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do   vậy, việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép  toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường   hợp ngược lại, các quan hệ  quản lý và tổ  chức có thể  làm biến dạng quan hệ  sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế­ xã hội. Hiện nay, nhờ   ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý  hiện đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc   biệt đối với việc điều hành sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất  ở tầm vĩ mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập kỷ trước đây. Đây   là điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trò của các quan hệ  sản xuất hiện đại. 10
  11. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức­ quản lý, trong hệ thống các quan  hệ sản xuất, các quan hệ về  mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những  nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế­   xã hội. Mặc dù bị  phụ  thuộc vào các quan hệ  sở  hữu và vào trình độ  tổ  chức  quản lý sản xuất, song do có khả  năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con  người, nên các quan hệ phân phối là “ chất xúc tác” của các quá trình kinh tế­ xã  hội. Quan hệ  phân phối có thể  thúc đẩy tốc độ  và nhịp điệu của sự  sản xuất,  làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế­ xã hội; hoặc trong trường hợp ngược   lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.  4­ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính  chất và trình độ của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất, chúng tồn tại không tách rời   nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ  biến của toàn  bộ  lịch sử  loài người­ Quy luật về sự  phù hợp quan hệ  sản xuất với tính chất  và trình độ  của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch ra tính chất phụ  thuộc   khách quan của quan hệ  sản xuất vào sự  phát triển của lực lượng sản xuất.   Đến lượt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều   hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ  cũng bắt đâù từ  sự  biến  đổi  và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là của công cụ  lao động.  Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố  có tác dụng quyết định đối với sự  biến   đổi của phương thức sản xuất: Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai   đoạn của lịch sử  loài người  thể  hiện trình độ  chinh phục tự  nhiên của con  người trong giai đoạn lịch sử  đó. Khái niệm trình độ  của lực lượng sản xuất  11
  12. nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực   hiện quá trình cải biến giới tự  nhiên nhằm đảm bảo cho sự  sinh tồn và phát   triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở: + Trình độ tổ chức lao động xã hội. + Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. + Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người. + Trình độ phân công lao động. Trình độ  của phân công lao động thể  hiện rõ ràng nhất trình độ  của lực   lượng sản xuất. Bên cạnh khái niệm trình độ  của lực lượng sản xuất, còn có khái niệm  tính chất của lực lượng sản xuất. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này  để  phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau.  Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra sản   phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động.   Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất  là sử  dụng công cụ  thủ  công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ.  Những công cụ sản xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử  dụng để sản xuất vật dùng, không cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất  cóa tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử  dụng được, để làm ra một sản phẩm cần phải có sự  hợp tác của nhiều người.  Mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy cho   nên lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định  giai cấp tư  sản “ không thể  biến những tư  liệu sản xuất có hạm  ấy thành   những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng từ  chỗ  là tư  liệu sản xuất do cá nhân sử  dụng thành những tư  liệu sản xuất xã hội, chỉ  có   thể được sử dụng chung bởi một số đông người”( 8). Trên thực tế, tính chất và  trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau. 12
  13. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản   xuất quyết định. Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao  hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế  tạo ra những công vụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát  triển của công cụ  lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ  năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản  xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là  yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực   lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất,  còn quan hệ  sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ  giữa nội   dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức; hình thức phụ  thuộc vào  nội dung; nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tất   nhiên, trong quan hệ  với nội dung , hình thức không phải là mặt thụ  động, nó  cũng tác động trở lại đối với việc phát triển của nội dung. Cùng với sự  phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ  sản xuất cũng   hình thành, biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ  của lực lượng sản  xuất. Sự phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất pats triển mạnh mẽ.   Nhưng, lực lượng sản xuất luôn phát triển còn quan hệ  sản xuất có xu hướng   tương đối  ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ  mới,  quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với  sự  phát triển của nó, sẽ  nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương   thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ  quan  hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính   chất và trình độ  mới của lực lượng sản xuất, mở  đường cho lực lượng sản   xuất phát triển. 13
  14. Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất  mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và   sự  ra đời của một phương thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu  thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách  quan của các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các  cuộc cách mạng xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát triển   nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với   những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản   xuất vẫn phát triển. Từ  chỗ  là những hình thức phát triển của lực lượng sản  xuất, những quan hệ   ấy trở  thành những xiềng xích của các lực lượng sản   xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”( 9). đó là nội dung  quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ  phát triển nhất định   của lực lượng sản xuất. Chủ  nghĩa duy vật lịch sử  chứng minh vai trò quyết định của lực lượng  sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao   giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản   xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó  tác động trở  lại đối với lực lượng sản xuất: có thể  thúc đẩy hoặc lìm hãm sự  phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ  sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ  của lực lượng sản   xuất trở  thành động lực cơ  bản thúc đẩy mở  đường cho lực lượng sản xuất   phát triển. Ngược lại, quan hệ  sản xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính   chất và trình độ  của lực lượng sản xuất, bộc lộ  mâu thuẫn gay gắt với lực   lượng sản xuất thì trở thành “ xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát triển của   lực lượng sản xuất. Song tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu  khách quan, cuối cùng nó sẽ  bị  thay thế  bằng kiểu quan hệ  sản xuất mới phù  hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. 14
  15. Sở  dĩ quan hệ  sản xuất có thể  tác động mạnh mẽ  trở  lại đối với lực   lượng sản xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản   xuất, quy định hệ  thống tổ  chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định   phương thức phân phối phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được   hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động­ lực  lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích  hoặc hạn chế  việc cải tiến công cụ  lao động, áp dụng những thành tựu khoa   học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động.... Tuy nhiên, không được hiểu một cách giản đơn tính tích cực của quan hệ  sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất  là một hệ  thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan   hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới   trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất. Quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất với tính chất và trình độ  của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác  động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản  xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư  bản chủ nghĩa và  phương thức sản xuất cộng sản tương lai. Quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất với tính chất và trình độ  của lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay   thế  kế  tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không  phải bất cứ nước nào cũng phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương   thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thự  tế  phát triển của lịch sử  nhân   loại cho thấy, tùy theo điều kiện lịch sử­ cụ  thể, một số  nước có thể  bỏ  qua  một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới   cao hơn. Đó chính là sự  biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ  thể  của mỗi nước. Quy luật chung chi phối sự vận động phát triển của tất cả  các   15
  16. nước; còn hình thức, bước đi cụ thể lại tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi   nước.  II­ Cơ sở lý luận của quá trình công nghiệp hóa­ hiện đại   hóa 16
  17.  1­Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện   các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ  và quản lý kinh tế, xã hội từ  sử  dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động   cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên  sự  phát triển và tiến bộ khoa học­ công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội   cao.   2­ Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện  đại hóa Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ  sở  vật chất­ kỹ  thuật tương ứng. Cơ  sở  vật chất của một xã hội là toàn bộ  hệ  thống các yếu tố  vật chất  của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật( công nghệ) tương  ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải   vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất­ kỹ thuật của một xã  hội là: sự  biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự  phát triển khoa  học­ kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ  sản xuất thống trị. Nói cơ sở vật chất­ kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói  cơ sở  vật chất­ kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho   phương thức sản xuất đó được khẳng định sự  thay thế  phương thức sản xuất  cũ và được phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó. Đặc trưng của cơ  sở  vật chất­ kỹ  thuật của các phương thức sản xuất  trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật   17
  18. chất­ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của nó là nền đại công nghiệp   cơ khí hóa và chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó, phương thức sản xuất tư bản chủ  nghĩa mới trở thành phương thức sản xuất thống trị. Chủ nghĩa xã hội­ giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn   chủ nghĩa tư bản­ đòi hỏi một cơ sở vật chất­ kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt:   trình độ  kỹ  thuật và cơ  cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa   học­ kỹ thuật hiện đại. Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất­ kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là   nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ  xã hội hóa   cao dựa trên trình độ khoa học­ công nghệ hiện đại được hình thành một cách   có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa   xã hội, xây dựng cơ sở vật chất­ kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một  tất yếu   khách quan và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đó là  vì: cơ sở vật chất­ kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên  quan đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất, và năng suất lao động;   đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và  đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội. Có hai loại nước quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội: các nước quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ  lên  chủ  nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa( các nước có  nền kinh tế kém phát triển). Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước  này đã có sẵn nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần   điều chỉnh nền đại công nghiệp đó theo yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ  bản đã có cơ sở vật chất­ kỹ thuật của xã hội mới. Do đó, vấn đề  công nghiệp  hóa không cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều chỉnh nền đại công nghiệp   18
  19. cơ khí của chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại công nghiệp cơ  khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội   mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ  tư hữu tư bản chủ nghĩa, phân bố không đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu  phải điều chỉnh nó. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ  lên chủ nghĩa  xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa, những nước này nền   kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở  vật chất­ kỹ  thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại thì phải tất yếu tiến hành   công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách   quan vì: + Nó là con đường duy nhất để  tạo ra sự  phát triển về  chất đối với lực   lượng sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ  thống công cụ lao động hiện đại với trình độ công nghệ hiện đại. + Công nghiệp hóa tạo điều kiện để  đáp  ứng nhu cầu vật chất và tinh  thần ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì công nghiệp hóa sẽ  làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của  cải sản xuất ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp  ứng được nhu cầu ngày  càng cao của xã hội nói chung và của con người nói riêng. + Là con đường duy nhất để  đảm bảo sự  thắng lợi cuối cùng vủa chủ  nghĩa xã hội. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những là tất yếu mà còn  là điều kiện sống còn của chủ  nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu khách   quan đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.  3­ Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa 19
  20. ­  Tạo điều kiện biến đổi về  chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao  động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và   phát triển kinh tế; do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân;  góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.    ­ Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của   Nhà nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự  phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người­ nhân   tố trung tâm của nền sản xuất xã hội. ­ Tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng. ­ Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ,   đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự   phân   tích   trên   cho   thấy   mối   quan   hệ   gắn   bó   trực   tiếp   giữa   công  nghiệp hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa là để thực hiện xã hội hóa  về mặt kinh tế, kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng có ý  nghĩa cực kỳ  quan trọng và toàn diện; do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển  lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước... là nhiệm vụ  trung tâm”( 10)  của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  4­ Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa  a­ Trang bị  kỹ  thuật và công nghệ  theo hướng hiện đại  trong các ngành của nền kinh tế quốc dân Nội dung này được thực hiện qua hai cách:  * Tiến hành cách mạng khoa học­ kỹ  thuật, xây dựng cơ  sở  vật chất­ kỹ   thuật để tự trang bị Thế  giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ  thuật: cuộc cách mạng kỹ  thuật mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2