intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 29 - Triết học Phật giáo

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

163
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, triết học Phật giáo, thế giới quan Phật giáo, thuyết vô thường, thuyết vô ngã,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 29 - Triết học Phật giáo

  1. TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO I. Thế giới quan Phật giáo. Thế  giới quan Phật giáo chịu  ảnh hưởng của hai luận điểm, thể  hiện  qua 4 luận thuyết cơ  bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân   quả, thuyết nhân duyên khởi. 1. Thuyết vô thường. Vô   thường   là   không   thường   còn,   là   chuyển   biến   thay   đổi.   Luật   vô  thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự  vật luôn luôn biến đổi  không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm   tưởng sự  vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn  ở  thể  động, nó chuyển biến không ngừng. Sự  chuyển biến  ấy diễn ra dưới hai  hình thức. a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự  chuyển biến rất   nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một  hơi thở, một niệm, một sự  chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật   dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn. b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự  chuyển biến trong từng giai   đoạn. Sự  vô thường thứ  nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên  tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả  là gây ra sự  vô  thường thứ  hai. Nhất kỳ  vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết   thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ   trụ đều tuân theo luật: Thành ­ Trụ ­ Hoại ­ Không. Vạn vật được cấu thành, trụ  một thời gian, sau đó chuyển đến diệt,  thành, hoại, không. Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt. 1
  2. Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ  vũ trụ  kéo dài hàng triệu năm,  một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm   năm, bông hoa phù dung chỉ trụ  trong một ngày ­ sớm nở, chiều tàn. Xung  quanh ta sự  vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không  phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng  phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để  mà chết và chết để  mà sống.   Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn. Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không  ngừng chuyển biến. Như  dòng nước thác, như  bọt bể, trong Satna này,  trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có  thể  khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như  thế  Phật  gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ  năng Nghiệm quyển một Phật gọi   cái tâm phan duyên  ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng  động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi,  chuyển biến mà không Satna nào ngừng. Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời  gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ   ­­> Xã hội chiếm hữu  nô lệ ­­> Xã hội phong kiến ­­> Xã hội tư bản ­­> Xã hội XHCN. Đó là quy   luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật. Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật,  là cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con  người tu dưỡng theo giáo lý phật. Trong thế  gian có những người không biết lý vô thường   của Phật, có  những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không  chuyển biến. Nhận thức sai lầm như  thế  phật giáo gọi là  ảo giác hay   huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra  ảo giác muốn   2
  3. kéo dài sự  sống để  hưởng thụ, để  thoả  mãn mọi dục vọng. Khi luật vô   thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ. Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết,  đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất,   phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong  vũng bùn của ngũ dục, sống phiền não đau khổ  trước sự chuyển biến của   sự vật, trước sự sinh­ trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra   hàng ngày. 2. Thuyết vô ngã. Từ  thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta.   Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi  không ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna. Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái  ta bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần: Cái ta sinh tức thân. Cái ta tâm lý tức tâm. Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố  của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong. Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt,   các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,... Thủy đại là những chất lỏng như  mật  ở  trong gan, máu, mồ  hôi,  bạch huyết, nước mắt,... Hoả  đại là những rung động của cơ  thể  như  hơi thở, chất hơi  ở  trong dạ dầy, ở ruột. Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ  đó không thuộc về ta. 3
  4. Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi   sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không  gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi. Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng  là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở  về   thể của nó thì không có gì ở  lại để  có thể  gọi là cái ta được nữa. Cho  nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý   mà thôi. Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc  ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta  Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức,   cảm giác, suy tưởng, là sự  kết hợp của  thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ,  dục. Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh   cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự  tin có một   linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín. Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh  ra những tình cảm, những tư  tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ  của  những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta  mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị  bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời  phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau. Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ  bản trong giáo lý Phật.   Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh   là đầu mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên  hai thuyết vô thường và vô ngã  Phật đã xây dựng cho đệ  tử  một phương   thức sống, một triết lý sống lấy vị  tha làm lý tưởng cao cả  cho cuộc sống   4
  5. của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người,  mọi người vì một người. 3. Thuyết Lý nhân duyên sinh. Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy  sự  vật vạn vật phát triển trên thế  gian đều do các nhân duyên hội họp mà   thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã. Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như  cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng   là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả  mọi hiện tượng  đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự  vật tác   động, kết hợp, chi phối,  ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên.  Nói về thứ nhân duyên trong kinh Phật có câu: Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu. Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh. Nhược thử vô, tắc bỉ vô. Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt. Có nghĩa là: Cái này có thì cái kia có. Cái này sinh thì cái kia sinh. Cái này không thì cái kia không. Cái này diệt, thì cái kia diệt. Tất cả  các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự  liên hệ  mật thiết với   nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối. Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường. Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “. Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “. 5
  6. Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có,  là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự  vật ( sinh mệnh, danh vọng,   tiền tài...). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan  dã thì người thế gian thương tiếc, đau khổ. Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng  trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà  có, một cáh giả  hợp mà sinh ra. Bởi thế  tìm kiếm đến cùng cũng không  thấy vạn pháp có “ thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp   có “ chung “. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp  hay cái chung cùng của sự vật. Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà  hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người   làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ  là đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như  vậy, con   người tìm được một phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì  hạnh phúc của mọi  người, sống an lạc, tự tại, giải thoát. 4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả. Thuyết nhân duyên quả  báo gọi là thuyết nhân quả  là một trong những   thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà  có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng  thiêng liêng nào tạo ra sự  vật. Sự  vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái  nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên  thì mới tạo ra quả được. Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.   Trồng dưa được dưa. 6
  7. Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả  có thể  khác nhân sinh ra nó. Quả  có thể  hơn nhân nếu gặp đủ  duyên tốt, trái lại có thể  kém nhân nếu gặp duyên  xấu. Nhân gặp đủ  duyên thì sẽ  biến thành quả, quả  sinh ra nếu hội đủ  duyên lại có thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác. Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh   hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng. Trong nhân lại có mầm mống của quả  sau này nhưng quả  không nhất  định phải đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả ­ Đó  là thuyết “Bất định pháp” trong luật nhân quả. Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và  tiến tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì  mỗi ý nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta  cũng là những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi   gặp đủ duyên sẽ nảy nở thành quả. Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức   là   gây   nghiệp:   Ý   nghiệp,   thân   nghiệp,   khẩu   nghiệp.   Kết   quả   đền   đáp  những hành động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân  và hái quả có thể dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là  nhân quả  nối liền nhau, vừa tạo nhân, quả  liền phát sinh  không phải đợi  một thời gian sau mới thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo  ra đời trước, đời sau mới kết thành quả. Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện  hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta  khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào  cũng không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân  chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể nào   khác được.  7
  8. Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thề  giới quan  phật  giáo.  Phật   quan niệm  các  hiện tượng  trong vũ  trụ   luôn  luôn biến  chuyển không ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh  không phải là do một nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự  mà có mà do nhiều nhân duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có  liên quan đến tất cả các hiện tượng trong vũ trụ. Kinh Hoa Nghiêm có ghi: Nhất tức đa. Đa tức nhất. Nhất tức nhất thiết.  Nhất thiết tức nhất. Có nghĩa là: Một tức là nhiều. Nhiều tức là một. Một là tất cả. Tất cả là một. Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả  sự  vật có danh có tướng, có thể  nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác  được hay dùng ngôn ngữ  luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các  pháp đều thuộc một giới gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các   pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là tính của pháp giới nên gọi là pháp giới   tính. Do pháp giới tính là bản tính của các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp   giới tính còn gọi là chân như tính. Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận   thức đầy đủ, sâu sắc về  pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ  được bản lai tự  tính còn  phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường   hợp khác để thấy được cái dụng to lớn của pháp giới tính. 8
  9. Như  vậy, người tu hành chỉ  khi nào công hạnh giác tha được viên mãn  lúc đó mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói  một cách khác là chứng được toàn thể  của sự  vật gồm cả  ba vẻ: thể,   tưởng, dụng, chứng được pháp thân. II.  Nhận thức luận Phật giáo.  1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận. Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn   đối tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ. Vạn vật là vô thuỷ  vô chung, không có sự  vật đầu tiên và không có sự  vật cuối cùng. Mọi vật đều liên quan  mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn  đến đâu nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được.  Để diễn đạt ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ: Càn khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm  giới trí trung. Có nghĩa là: Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu. Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng. Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai   trạng thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng. Sau khi đã tìm hiểu về  sự  vật, hiện tượng chúng ta sẽ  tìm hiểu cái tâm  trong đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật. Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật  có câu   ”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ  “ duy tâm “  ở  đây không  phải là duy tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như  trên. Chữ  tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể  cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất,  là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử  9
  10. nhỏ  nhiệm nhất, đến phần cuối cùng thì phần tử   ấy là bản thể  mà  ở  đây   cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại   là to lớn vô biên. Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật   lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật  lý sinh ra các hiện tượng tâm lý. Hiểu như  vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm.  Những hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương   sinh tương thành. 2.  Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.  Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng  ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người  tự chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức  là : Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “  trí hữu sư”. Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “. Với hai phương pháp  ấy sự  nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia  đoạn: Giai đoạn một là từ  tuỳ  giác đến thể  nhập. Nhận thức bắt đầu từ  cảm  giác và phụ  thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả  là con người biết được   cái tiếp xúc giữa thế  giới khách quan và giác quan của con người và từ  sự  tiếp xúc này tạo nên yếu tố” thọ  “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ  thọ   ở  đây là sự  tiếp xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố  thọ. Căn  cứ ở đây là những khả năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích  thích từ  thế  giới bên ngoài. Nếu kích thích tương  ứng với các căn thì con  người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc,  10
  11. thanh, hương, vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những  hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường   hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ  những tri thức cảm tính kinh nghiệm  nêu trên, con người sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được   cái bên trong, bản chất đó là tri thức định lý. Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết  quả  của giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự  vật hữu hình tái thế  và đặc biệt là cái tâm  ở  trong mỗi con người và nâng   lên để nắm được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung. Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương  pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.  Tam học là giới, định, tuệ. Giới: Gồm có nhứng phương tiện để  thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh  hoạt hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn  hướng về thiện. Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư  tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành. Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó  chỉ nghĩ đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh. Tam huệ: là văn, tu, tư.  Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh   tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật  pháp. Tư  : là suy nghĩ về  các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác  ngộ bản lai tư tính của mình. 11
  12. Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà  tụ  tập gột rửa những thói quen mà lầm từ  nhiều kiếp để  lại đi đến nhập  với một pháp giới tính. Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp   pháp để  đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không.   Với nhận thức như  thế, người tu hành sẽ  được sống trong sự  giải thoát,  sinh tử luân hồi sẽ không còn nữa. III.  Nhân sinh quan Phật giáo.  Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự  vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô  thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo  Phật về vấn đề  nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu   hỏi: –  Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?    Vị trí của con người trong Đạo Phật. –  Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ.... – Có phải cuộc sống chỉ  toàn là đau khổ  ? và vấn đề  giải thoát trong   Đạo Phật là gì ? Trước khi trả  lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ  tìm hiểu và phân tích Tứ  diệu đế  vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn  đề trên. 1. Tứ diệu đế:  Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp  đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ  khưu  trước kia đi theo Phật. Tứ  đế  là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ  sở  của các thuyết khác trong giáo lý Phật. 12
  13. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. a.  Khổ đế:    Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì   sao mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời   chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc  đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay   cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ  hãi, chán nản bởi những đau   khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo  chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát. Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ  là chưa thật hết   nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên. Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả  thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ  thụ  mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh   nghịch sinh ra khổ  thụ  nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các  cảnh có thể  làm cho người ta vui hoặc khổ  hoặc không vui, không khổ.  Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà   còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui  ấy, cũng như  những cái khổ   ấy đều bao gồm trong danh từ  Dukkha, vì những cái vui,  cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả. Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì   những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa   thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả. Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái  Dukkha ấy chứ không phải  là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu,  thường lầm. Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại: 13
  14. 1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ  vì đã sinh nhất định có diệt, bị  luật vô  thường chi phối nên khổ. 2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn   cứ  đến. Cái già vào mắt thì mắt bị  mờ đi, cái già vào lỗ  tai thì tai bị  điếc,   vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến   đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não. 3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già   yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ. 4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu  cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình   thì khi chết thì phiền não vô cùng. 5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình  ưa  thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não,  khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc. 6,  Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly. 7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ  tiến đến bên  mình. 8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng  ấm, hành  ấm, thức  ấm. Ngũ  ấm  ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ  luân hồi trong  vô lượng kiếp. b.  Tập đế:  Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những   nguyên  nhân   đó  không  phải  tìm  đâu  xa  mà   ở   ngay  trong  mỗi  chúng  ta.  Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau: 1. Tham lam. 2. Giận dữ. 3. Si mê. 14
  15. 4. Kiêu mạn. 5. Nghi ngờ. 6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn). 7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ). 8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ). 9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng). 10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ). Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn  gốc của mọi sự  khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh   được thể hiện trong công thức sau: Nghiệp Ái dục + Vô minh   ––––>  Sự khổ. Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ  đi đến suy đắm trước những  cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh  nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và  ước   muốn. Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ  không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự  chuyển biến không  ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là  thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn  luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của   ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta. Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân  nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào   của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như  : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì  không gây nghiệp báo. 15
  16. Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác. Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho  mình. Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho  mình. Như  vậy, Phật đặt số  mệnh của con người trong chính tay họ. Tự  con   người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị  nhân duyên để  thấy được nguồn gốc của sự  vật trong thế  gian. 12 nhân  duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó  là: 1. Vô minh 5. Lục nhập   9. Thù 2. Hành 6. Xác 10. Hữu 3. Thức 7.Thụ 11.Sinh 4. Danh sắc. 8.Ái 12. Lão tử. Tập đế  là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan  hệ  nhân quả  và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các   nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên  cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho   lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế  là chưa đề  cập   đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc   lột trong xã hội. Luận điểm này thể  hiện rõ từ  trào hướng nội hướng nội  trong nhận thức luận Phật giáo. c. Diệt đế: Diệt đế  là tích quả  Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế  mang  lại. Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết  không còn luân hồi sinh tử nữa. 16
  17. Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả.  Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn  khởi lên, tâm hồn luôn an trụ  trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết   Bàn. Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường ­ Lạc ­ Ngã ­ Tịnh. Thường là thường còn, không biến đổi. Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại. Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn. Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm. Niết Bàn là sự  chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải  ở  một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế  gian  này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc   biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt. Phật dạy rằng: khi môn đệ  làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng   giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn.  Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ  được lửa dục, lửa sân,   lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại. d. Đạo đế: Đạo đế  là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được  đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư  rất nhiều, nhưng thường   được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm. Phương pháp này gồm có: 1. Tứ niệm xứ:    4. 2. Tứ chính cần: 4. 3. Tứ như ý túc:  4. 4. Ngũ cân:         5. 5. Ngũ lực:          5. 17
  18. 6. Bát chính đạo: 8. 7. Thất giác :       7. Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường  giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ  đi tới cảnh giới Niết Bàn tự  tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có: 1. Chính ngữ  : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai   trái. 2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi  người. 3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính. 4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các  đường tà. 5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ  những kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính. 6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên   để trí tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn. 7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người ph ải có  ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật. 8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy  nghĩ một cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy. Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định,   tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ  xung cho nhau. 1. Giới học: là cả  một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích  để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi  lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống   theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện . 18
  19. Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho  nam giới, nữ  giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu   hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất  con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được. 2. Định học là đình chỉ  mọi tư  tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên  nhân phát sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn  là tập trung tư  tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ  đó nảy sinh một   trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra. 3. Tuệ  học : là trí tuệ  sáng suốt của người tu hành đã diệt được   dục vọng, đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường,   vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh. Với pháp tứ  diệu đế  Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác   nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con  đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ  diệu đế, bây giờ  chúng ta   có thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên. 2.  Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.  a.  Con người:  Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm  hai yếu tố  chính: yếu tố  sinh lý( sắc) và yếu tố  tinh thần ( thụ, tưởng,   hành, thức). Yếu tố  tinh thần chỉ  phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân  thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt. Như vậy,  con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh,  tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối   thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như  con người không phải tự  nhiên mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người  sinh, khi nhân   duyên tan rã thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng   19
  20. không bất tử  chuyển từ  kiếp này sang kiếp khác. Con người  ở  kiếp này  sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con người  ở kiếp sau không  phải là con người  ở  kiếp trước nhưng cũng không khác với con người  ở  kiếp trước. Con người không phải là một thực thể  trường tồn mà chỉ  là  một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện,  ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất  hiện nghiệp báo ở kiếp sau. Từ  nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong  một ý nghĩ, lời nói việc làm. b.  Nhân vị trong đạo Phật.  Đạo Phật là đạo chủ  trương tự do, bình đẳng, từ  bi, bác ái. Ở  một thời   đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức   tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói: “ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt  cũng mặn như  nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây  chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”. Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của  mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả  mọi đẳng cấp, không  phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người  ở  tầng lớp dưới sau khi tu   đắc đạo đã được các đệ  tử  khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến   thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến. Không dừng lại  ở sự  bình đẳng giữa con người với con người mà Phật  còn đi xa hơn, nêu lên sự  bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính   như  nhau và  đang cùng nhau: người  trước,  vật sau, tiến bước  trên con   đường giải thoát. Tự  do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải  thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị  chi phối bởi ngũ dục. Con  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2