intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 64 - Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

151
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 64 - Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

  1. LỜI NÓI ĐẦU Bước lên từ  nền kinh tế  phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua  hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế n ước ta vốn đã lạc hậu   lại càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ  cơ  sở kinh   tế  lạc hậu, trì trệ  đó, nước ta xây dựng nền kinh tế  kế  hoạch hoá tập trung  quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh   tế  nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ  sử  dụng triệt để  kinh tế  thị  trường mà  CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế­ xã hội, phát triển lực lượng   sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ  kinh tế  thị trường, quản lý  xã hội đạt được những thành quả  về  văn minh hành chính, văn minh công   cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua  tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời  nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường  theo định hướng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu  dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.    Mới chập chững bước vào nền kinh tế  thị  trường đầy gian khó, phức tạp,   nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại  trên cơ  sở  cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của   Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác­ Lênin, đặc biệt là phạm  trù triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động  nhận thức về kinh tế thị trường.  Để  góp thêm một tiếng nói  ủng hộ  đường lối phát triển kinh tế  mà   Đảng và nhà nước ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề " Mối quan hệ giữa cái   riêng và cái chung và vận dụng trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường   ở nước ta" làm công trình nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này, tôi hi vọng có thể  góp một phần nhỏ  của   mình trong việc làm rõ, củng cố  lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi   1
  2. mới của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế  mới được áp dụng  ở  Việt Nam­ nền kinh tế  thị  trường định hướng XHCN   trong điều kiện thế giới hiện nay. 2
  3. CHƯƠNG 1 CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI NHÌN  CỦA TRIẾT HỌC MACXIT 1.1. Các khái niệm: Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một số sự vật   hiện tuợng quá trình khác nhau.Mỗi sự vật hiện tuợng đó được gọi là một cái  riêng ,đồng thời chúng ta cũng thấy giữa chung lại có mặt giống nhau tưc là  tồn tại cái chung giữa chúng .  Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,   một quá trình riêng lẻ nhất định trong  thế giới khách quan.        Ví dụ: Một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái  đơn nhất trong giới tự  nhiên. Cái riêng trong lịch sử  xã hội là một sự  kiện  riêng lẻ  nào đó, như là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn.  Một con người nào đó: Huệ, Trang,...  cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể  hiểu là một nhóm sự  vật gia nhập vào  một nhóm các sự  vật rộng hơn, phổ  biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản  thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất  này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm  trù triết học dùng để  chỉ  những thuộc tính, những mặt chỉ  có  ở  một sự  vật  nhất định mà không lặp lại  ở những sự vật khác. Ví dụ  chiều cao, cân nặng,   vóc dáng... của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của  chỉ  riêng người đó, không lặp lại  ở một người nào khác. Cần phân biệt “cái  riêng” với cái “đơn nhất”. Mặt  khác, giữa  những cái riêng có  thể  chuyển hóa qua lại với  nhau,  chứng tỏ  giữa chúng có một số  đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm  chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung.               Cái chung là một phạm trù triết học dùng để  chỉ    những mặt, những   thuộc tính chung không những có  ở  một kết cấu vật chất nhất định ,mà còn   được lặp lại trong nhiều sự  vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ  khác,   những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng.  3
  4.        Cái chung thường chứa đựng  ở  trong nó tính qui luật, sự  lặp lại. Ví dụ  như qui luật cung­ cầu, qui luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà  mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. 4
  5.     1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:    Trong lịch sử  triết học, mối liên hệ  giữa cái riêng và cái chung được quan   niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế  với cái chung và cho  rằng chỉ  có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản   sinh ra cái riêng. Đối lập lại chủ  nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh   như P. Abơla (1079­ 1142), Đumxcot (1265­ 1308) cho rằng chỉ những sự vật,   hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có   thực còn khái niệm cái chung chỉ  là sản phẩm của tư  duy của con người.   Thấy được và khắc phục hạn chế  của hai quan niệm trên, triết học duy vật  biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ  biện chứng mật   thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.      Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện   sự  tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ  qui  luật bóc lột giá trị  thặng dư  của nhà tư  bản là một cái chung, không thế  thì  không phải là nhà tư  bản, nhưng qui luật đó được thể  hiện ra ngoài dưới   những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không  có cái Riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập ,Thí dụ:Mỗi con người là  một cái   riêng nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoàI mối liên hệ  với tự nhiên   và xã hội. Nền kinh tế  nào cũng bị  chi phối bởi quy luật cung­cầu,quy luật   QHSX phù hợp với tính chất và trình độ  của LLSX,dó là cái chung .Như vậy  sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung Cái chung là bộ phận,nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn   bộ  nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn   cái chung vì  ngoài đặc điểm chung ,cái  riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn   cái   riêng   vì   cái   riêng   phản   ánh   những   thuộc   tính   ,những   mối   liên   hệ   ổn  định,tất nhiên, lặp lại  ở  nhiều cái riêng   cùng loại .Do vậy cái chung là cái  gắn liền với bản chất,quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái   chung. Có thể khái quát một công thức như sau:                Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất 5
  6.       Công thức trên có thể  là không hoàn toàn  đúng một cách tuyệt  đối,  nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác  quan hệ  bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung   chỉ  giữ  phần bản   chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là   một thực thể  sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả  cái   chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa  có thể  tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự  " va chạm" giữa   những cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa   làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa  những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về điểm này, Lênin nói:   "... Cái riêng chỉ  có thể  tồn tại trong mối liên hệ  dẫn tới cái chung". Ví dụ,  nguyên tử  của mọi nguyên tố  đều khác nhau, đều là cái " riêng", chúng có  trọng lượng nguyên tử  của mình, có hoá trị  của mình, có điện tích hạt nhân   của mình, có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình... Nhưng tất cả những nguyên tử  đều có cái chung: trong mọi nguyên tử  đều có hạt nhân, vỏ  điện tử, đều có  những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử  đều có thể  bị  phá vỡ.  Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử  mà khoa học mới có   khả  năng biến nguyên tử  của một nguyên tố  này thành nguyên tử  của một  nguyên tố  khác. Nguyên tử, cũng như  bất cứ  hiện tượng nào khác trong thế  giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn  nhất và cái phổ biến. Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể  chuyển hoá thành  cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế  thị  trường, khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp;  nhưng từ  sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế  thị  trường lại dần trở  thành cái   chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong   một số ngành như an ninh quốc phòng... Sự  phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ  mang tính  tương đối. Có những đặc điểm xét ở  trong nhóm sự  vật này là cái đơn nhất,  nhưng nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là   một   đặc   điểm   chung   khi   xét   tập   hợp   các   cây   như   bạch   đàn,   phượng   vĩ,  bàng… nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm   6
  7. đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét  một ví dụ  khác, qui luật cung­ cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường,   nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn   nhất, đặc trưng cho kinh tế  thị trường mà không thể  là đặc điểm chung cho   mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. Trong một số  trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng  định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh   tế  thị  trường theo định hướng XHCN là kinh tế  thị  trường”... Những trường   hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của  cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những   định nghĩa như  trên chỉ  nhằm mục đích tách sự  vật ra khỏi những phạm vi  không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự  vật. Trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện  nhất định “cái đơn nhất” có thể  biến thành “cái chung” và ngược lại “cái  chung” có thể  biến thành “cái đơn nhất”  ,nên trong hoạt động thực tiễn có  thể  và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để  “cái đơn nhất” có lợi cho con   người trở thành”cái chung” và “cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.   Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đưa ra  một số  giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế  thị  trường của Việt nam một   cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ  tăng trưởng của các nước phát triển  trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã  hội. 7
  8. CHƯƠNG 2: CÁI CHUNG  VÀ CÁI  RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ KINH TẾ VIỆT NAM VÀ KINH TẾ THẾ GIỚI Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang   hoà nhập với nền kinh tế  thị  trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch   vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế  nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả  của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá   quốc tế. Thị trường trong nước gắn liền với thị trương thế giới . Nền Kinh tế  Việt Nam là một bộ  phận của nền kinh tế  thế giới. Chính điều này tạo nên  một chỉnh thể hoàn chỉnh  của nền kinh tế thế giới Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế  của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh   tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ  khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính   sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của   mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất   nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở  thành thước đo chủ  yếu, vai trò và sức   mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ  chủ  yếu để  bảo vệ  uy tín và duy trì sức   mạnh của các đảng cầm quyền.         Như  vậy với tư  cách là một bộ  phận của nền kinh tế  thế  giới thì việc  tiếp thu những đặc trưng cơ  bản những nét chung trong tổng thể đó để hoàn   thiện nền kinh tế Việt Nam là tất yếu . Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp  thu một cách hình thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với đièu kiện   đất nước .Phải giữ  dược nhưng nét đặc trưng riêng tưc là phải bảo tồn cái  đơn nhất của kinh tế Việt Nam  từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị  trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền   kinh tế thị trường TBCN.  8
  9. CHƯƠNG 3  NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT  NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 3.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan: 3.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường: Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách  khách quan cùng với sự  tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và lưu   thông hàng hoá. ở  đâu và khi nào có  sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có  thị  trường. "Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở  rộng ra thì quy mô  sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn" (1).   Theo David Begg, thị trường "là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông   qua đó các quyết định của các gia đình về  tiêu dùng các mặt hàng nào, các  quyết định của các công ty về  sản xuất cái gì, sản xuất như  thế  nào và cái  quyết định của người công nhân về  việc làm bao lâu, cho ai đều được dung  hòa bằng sự  điều chỉnh giá cả". Ta cũng có thể  định nghĩa thị  trường là nơi   diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.     Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có   năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch  vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi  mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo  cơ  chế  thị  trường, với những đặc trưng cơ  bản như: phát triển kinh tế  hàng  hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả,  đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung­ cầu... 3.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan Xét về  hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế  nước ta là  kinh tế  phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh  giữ nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở  vật chất vốn đã ít ỏi còn bị  tàn phá nặng   nề.      Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế  bao cấp, kế  hoạch   hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Trong thời gian   9
  10. đầu sau chiến tranh, với sự  nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự  giúp đỡ  của các   nước trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính  ưu việt của nó. Từ  một nền kinh tế  lạc hậu và phân tán, bằng công cụ  kế  hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng   về  đất đai, tài sản và tiền bạc để   ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế  kế  hoạch hoá trong thời kỳ  này tỏ  ra phù hợp, đã huy động  ở  mức cao nhất   sức người sức của cho tiền tuyến.      Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta   tồn tại một lúc cả  ba gam màu: kinh tế  tự  cấp tự  túc, kinh tế  kế  hoạch hoá  tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự  chủ  quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự  phù hợp của cơ  chế  quản lý mà   chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế   phát triển mà   còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời  cũng bị  cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả  những nguyên   nhân đó đã khiến cho nền kinh tế  nước ta trong những năm cuối thập kỷ  80   lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở  một số  nơi còn bị  nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự  suy thoái này là từ  những sai lầm cơ bản như:  Ta đã thực hiện chế  độ  sở  hữu toàn dân về  tư  liệu sản xuất trên một  qui mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ  phận tài  sản vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan   hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao  2, 2%.  Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho   phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp   đã dùng hình thức vừa phân  phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động   lực của sự phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,   mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự  do lựa chọn  của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự  sáng tạo của  hàng triệu người lao động. 10
  11.    Trong khi đó, nhờ  sử  dụng triệt để  kinh tế  thị  trường, CNTB đã đạt  được những thành tựu về kinh tế­ xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng  cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được  những thành quả  về  văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người  nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự  thách thức đua tranh phát triển.  Do  mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước   ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như trước. Với   tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI  của Đảng đã chủ  trương phát triển nền kinh tế  nhiều thành phần và thực  hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế  hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới  cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn   ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh   tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một  sự  thay đổi về  nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như  trong thực tế.  Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế  thị  trường một cách cơ  bản, cùng  những  ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà không còn đơn thuần   phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng có của  CNTB; nước ta không đi theo CNTB thị  cũng không thể  áp dụng kinh tế  thị  trường  trong phát triển kinh tế).  Đảng ta còn chỉ  rõ rằng nền kinh tế  thị  trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và  với xu thế của thời đại: Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không  thể nào có đủ  sản phẩm để  tiêu dùng chứ  chưa muốn nói đến tích luỹ  vốn để  mở  rộng sản xuất. Thực tế  những năm cuối của thập kỷ  tám   mươi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục   chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ  chế  quản lý kinh tế, nhưng  hiệu quả  của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không  đáp  ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ  hầu như  không có,  đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. 11
  12.  Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có  tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác  dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy  ở nước ta   tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể  trong  việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng   tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xét về  sự  tồn tại thực tế   ở  nước ta những nhân tố  của kinh tế  thị  trường. Về  vấn đề  này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý  kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế  kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát   triển khác nhau  ở  hầu hết các đô thị  và các vùng đồng bằng ven biển.   Thị  trường trong nuớc đã được thông suốt và vươn tới cả  những vùng  hẻo lánh và đang được  mở  rộng với thị  trường quốc tế. Nhưng thị  trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất   đai và về  cơ  bản vẫn là thị  trường tự  do, mức độ  can thiệp của nhà  nước còn rất thấp.    Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế  của mỗi nước không thể  tách rời sự  phát triển và hoà nhập quốc tế  chính là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia  là tạo được tốc độ  phát triển kinh tế  cao, đời sống nhân dân được cải  thiện, thất nghiệp thấp. Kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò  và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để  bảo vệ  uy tín và  duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.  Như  vậy việc chuyển sang kinh tế  thị  trường là điều kiện không thể  thiếu để  phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ  tiếp thu hình  thức kinh tế  thị  trường từ  chế  độ  TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát   triển rất cao so với những thời kỳ  trước) mà từ  đó còn phải xây dựng một   nền kinh tế  thị  trường mới về  chất, thể  hiện sự  phát triển, phủ  định biện  chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN.  3.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: 12
  13. 3.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị  trường thế giới: Trước hết, nền kinh tế  nước ta là nền kinh tế  thị  trường, nên nó tuân   theo mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung­ cầu, quy luật giá trị  thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ...      Các loại thị trường, các mối quan hệ  thị trường được phát triển phong  phú, đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân công lao động thành nhiều  ngành nghề. Sự  khác biệt về  sở  hữu tài sản đã được chấp nhận (không còn  chỉ  chấp nhận hình thức sở  hữu nhà nước, tập thể  như  trước) và lợi nhuận   trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp người mới năng   động hơn, bám sát thị  trường hơn và "biết làm kinh tế  hơn".  ở  nước ta hiện   nay cũng hình thành và tồn tại cả  những khuyết tật của kinh tế  thị  trường:   tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực giàu nghèo  quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối…. Kinh tế thị trường nước ta cũng có  sự  quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó cùng   những tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn tồn tại  âm ỉ trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người.              Nền kinh tế  thị  trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung   phát triển kinh tế  thế  giới là sự  phát triển kinh tế  của mỗi nước không thể  tách rời sự  phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị  trường chung trên toàn thế  giới. Tương quan giá cả  của các loại hàng hoá  trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc  tế.  3.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế  thị  trường định hướng   XHCN ở Việt nam: Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của   nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh   tế  thị  trường nằm dưới sự  quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ  lợi   ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì   con người. Để  thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không  giản đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề  sở  13
  14. hữu, quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự  phát triển trên cơ  sở  xây dựng   vật chất­ kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,  biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh  tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh   tế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ  vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về  mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp.       Chúng ta không coi kinh tế  thị  trường là mục tiêu mà chỉ  là một công  cụ, giải pháp, phương tiện để  phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh  tế  phục vụ  lợi ích của đa số  nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu,  nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cùng với việc sử  dụng động lực  của kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng   sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ  sản xuất, đặc biệt là những yếu   kém về  quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ  con người với con người,   một xã hội giàu tình thương và lòng nhân ái; tăng trưởng kinh tế  phải đi đôi  với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn.       Dưới CNTB, kinh tế  thị  trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn  nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội  XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển  nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã  hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân  cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được đạo đức, bản  sắc văn hoá dân tộc.      Trong quá trình phát triển, kinh tế  nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại,   khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu   làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng   dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng.     Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ  phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ  sỏ  khuyến khích mọi người tự  do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp,  đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ  trương chống bóc   lột, bất công, chăm lo sự  nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo  14
  15. đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ  có kết hợp mục tiêu kinh tế  với mục  tiêu xã hội mới thể  hiện được bản chất của chế  độ  mới. Tuy nhiên, để  có  động lực cho sự  phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng kiến cá  nhân, chấp nhận phân hoá do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xoá bỏ  phân hoá do bất công).      Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,  trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ  chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại   tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo  sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài  năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả  là hiện nay,   trình độ  phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự  túc là chủ  yếu, cơ  sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/ người, trình độ quản lý kinh tế  còn non yếu, khả  năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có thời gian làm  quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là   quản lý và phát triển kinh tế.         Không chỉ  có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chiến   tranh khốc liệt, kéo dài. Do  hai cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã   thấp lại còn bị  tàn phá nặng nề. Ta không đủ  khả  năng về  vốn, kỹ  thuật để  có thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại,   với các công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã  có tới ba thế kỷ tích luỹ.      Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loạn và nhiều   yếu tố  tự  phát. Ngoài ra thị  trường  ở  nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình  thức thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ  ở dạng manh nha như thị trường tiền   tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động..., nên chưa thể thực sự hoà nhập  với thị trường thế giới.       Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự  khéo léo  cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế  cần có độ  tinh xảo, khéo  léo cao như  trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành phần kinh tế  truyền   thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm trai...   Tuy nhiên, trong lịch sử  nước ta có thể  nói chỉ  là lịch sử  của những cuộc  chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát triển kinh tế,   15
  16. trong vốn từ  truyền thông dường như  rất xa lạ  với thuật ngữ "làm kinh tế".  Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thuộc "thế hệ  cũ"­ thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị  ứng" với kinh tế thị tr ường, coi kinh   tế  thị  trường là một thứ  gì đó rất xấu xa mà mình không thể  chấp nhận, và   làm theo được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với tốc độ  phát  triển của kinh tế thị trường.       Quan tâm đến các vấn đề  chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho  những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những làng tình  thương giúp đỡ  nhiều người không nơi nương tựa..., kiểm soát, giảm thiểu  những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra; đó là những biện pháp giảm   khuyết tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ đó,   nhà nước không còn là "kẻ  gác cổng trung thành cho sở  hữu tư  nhân" mà đã  trở  thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã hội, khống chế  khuyết tật xã hội.     Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới,   ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự  chủ  về  kinh tế, chính trị  và đảm   bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc.  3.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại:     Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay  đã thể hiện sự năng  động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị  trường) hơn hẳn so với những   năm tám mươi.          Xét về  lĩnh vực kinh tế, nhờ  chuyển sang xây dựng kinh tế  thị  trường   theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con  người, tự  nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) củaViệt nam mà nền kinh tế  cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể:  So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong   đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim   ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu  hút được vốn đầu tư  nước ngoài với số  vốn đăng ký 10 tỷ  USD. Nền   kinh tế  đã bắt đầu có tích luỹ  nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy  16
  17. lại thế  cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế  so   sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.  Sản xuất nông nghiệp phát triển từ  chỗ  thiếu lương thực triền miên đến  nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế  giới. Theo số  liệu thu thập được,  ước tính chỉ  số  GNP của Việt nam đã tăng   đáng kể sau vài năm đổi mới:  Chỉ tiêu 1971 1983 1986 1996 Thu nhập quốc dân (tỷ đô la) 4,97 5,14 5,78 12,46 Trên đầu người 101 94 101 175 Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới                                                        ( Nhà xuất bản thống kê 1996)         Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm   soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế  thị trường mang lại,   bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi   xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội... 3.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam   những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng củaViệt Nam Nước ta đi lên từ  một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ  sở  vật   chất nghèo nàn. Mặt khác, có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là lịch sử  của những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không phải  là lịch sử  của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm với cơ  chế  bao   cấp nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh tế  nước ta   vốn đã bị tàn phá nặng nề  còn "chây lười", ỷ  lại vào nguồn tài trợ  của nước  ngoài. Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người.  Xuất phát từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả  đó, nền kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý   còn non yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so   với thế giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của  các nước phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường   tự  do sang kinh tế  thị  trường hiện đại như  là hướng phát triển kinh tế  thị  trường chung của toàn thế  giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế  thị  17
  18. trường hiện đại. Nhưng muốn "đi tắt" được như  vậy đòi hỏi ta phải chấp   nhận những thách thức rất gay gắt, và sự  nỗ  lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp   dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy  mạnh năng suất lao động cả về số  lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta  phải đào tạo được "lớp người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không  cảm thấy lạ lẫm với những máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động phải   có trình độ  cao. Để  đáp  ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa   học, giáo dục đào tạo, cũng như  có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng  và giữ gìn nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám.             Nước ta có vị  trí vô cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam   thắng cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao   thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ  "thèm" được có  điều kiện như Việt nam về vị trí địa lý, và nếu có được thì họ sẽ thu về một   doanh thu khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở  nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một  yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh phát   triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu ngoại   tệ từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành nghề  khác trong nền kinh tế.         Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề  thủ  công mỹ nghệ  nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ  chẳng hạn. Nhiều nước tỏ  ra ưa chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nhưng do hàng rào   thuế  quan, phong cách quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp dụng   khoa học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng sản xuất   ra ít, không đủ  trang trải cho những lệ  phí phải chịu do thuế  quan nên ta đã   mất nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề thủ công   như Đảng ta đã dự kiến đòi hỏi một sự đổi mới toàn diện trong cách làm việc   của những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, không  chỉ đơn thuần làm bằng tay như trước; đồng thời phải làm giảm sự  rối rắm   trong hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước ngoài vào Việ  nam. 18
  19.      Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế,  về  hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế  quốc doanh vẫn phải giữ vai   trò chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị  trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự  thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn   còn chịu  ảnh hưởng của cơ  chế  bao cấp  ở  tính chất thiếu năng động,  ỷ  lại  vào nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả  kinh doanh của đơn vị.  Điều này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở  thành gánh  nặng cho nền kinh tế, không thể  giữ  vai trò chủ  đạo như  trước. Theo thống   kê, hàng năm tuy 75% số vốn đầu tư  cho phát triển kinh tế  nhà nước, và chỉ  có 25% dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại  của hai thành phần kinh tế  này chỉ  chênh lệch rất nhỏ  so với tỷ  lệ  vốn đầu  tư. Trong những điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề  nâng cao năng   suất làm việc của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ  quan nhà nước   phải trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn   và quan tâm đến hiệu quả  sản xuất hơn thì mới có thể  tiếp tục giữ  vai trò   chủ đạo, định hướng như trước.          Hiện nay, sự  quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ  hở, tạo  điều kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết  lập luật pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự  giác tuân theo   pháp luật, sông văn minh, có văn hóa, và tạo một môi trường cạnh tranh công  bằng, lạnh mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh.      Nền kinh tế  có sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự  quản lý của  nhà nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã  hội và con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế  thị  trường  mang lại. 19
  20. KẾT LUẬN Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,   một quá trình riêng lẻ nhất định trong  thế giới khách quan. Cái  chung là một  phạm trù triết học dùng  để  chỉ  những thuộc tính,   những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại  ở nhiều cái riêng. Cái  chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ  gắn bó chặt chẽ  với   nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự  tồn tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở  Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh  tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng,   vốn có, riêng của Việt nam. Chủ  trương lãnh đạo của Đảng đã thể  hiện sự  sáng suốt trong nhận  thức nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót khiến cho kinh  tế  thị  trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng như  khắc   phục hoàn toàn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và chưa  thể  hiện được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc của  Việt nam. Trong việc quản lý vẫn còn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn   cho các doanh nghiệp trong việc làm ăn. Vì thế mà nhiều doanh nghiệp nước  ngoài không muốn đầu tư  vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị  trường   rộng mở, có nhiều tiềm năng để phát triển. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2