intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ NIỀM TIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

132
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: vấn đề xây dựng và củng cố niềm tin trong đời sống xã hội ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ NIỀM TIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ NIỀM TIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Trên cơ sở phân tích hiện trạng niềm tin tôn giáo và niềm tin khoa học trong xã hội Việt Nam hiện nay, tác giả đã luận chứng cho một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây dựng và củng cố niềm tin khoa học cho nhân dân. Cụ thể là: 1/ Nâng cao mặt bằng dân trí tạo cơ sở cho nhân dân xác định, lựa chọn và phấn đấu theo những niềm tin đúng đắn, khoa học; 2/ Xây dựng những cơ sở thực tiễn nhằm củng cố niềm tin đúng đắn, khoa học và 3/ Xây dựng thế giới quan khoa học cho nhân dân thông qua việc đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Niềm tin là một lĩnh vực đặc biệt của ý thức, liên hệ mật thiết với sự hiểu biết về thế giới khách quan, tồn tại trong từng con người và xã hội nhằm phản ánh thế giới khách quan. Niềm tin được hiểu là sự thừa nhận một tính chân lý. Do vậy, niềm tin có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người nói riêng, sự phát triển xã hội nói chung. Niềm tin chỉ được hình thành và phát triển khi đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của con người và xã hội, hướng con người tới nhu cầu, lợi ích... Ở Việt Nam hiện nay, niềm tin là một trong những vấn đề không chỉ được Đảng và Nhà nước, mà cả xã hội đều rất quan tâm. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến hai loại niềm tin: niềm tin tôn giáo và niềm tin khoa học trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Niềm tin tôn giáo trong đời sống xã hội Việt Nam được thể hiện trước hết quanhững hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có từ rất sớm, trước khi có sự du nhập của các tôn giáo ngoại sinh. Hệ thống tín ngưỡng ở nước ta đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác nhau, từ các lễ thức trong chu kỳ đời sống con người (sinh thành, cưới xin, ma chay...) đến lễ thức thờ cúng tổ tiên và những người có công với làng, nước. Mỗi nhà đều thờ cúng ông bà, mỗi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng xã thì thờ thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ
  3. ngành, nghề, danh nhân văn hoá,... trong phạm vi vừa biểu hiện tình cảm nhớ ơn những người có công sinh thành và dưỡng dục, vừa cầu mong sự che chở "phù hộ độ trì" của tổ tiên, ông bà cho con cháu mạnh khoẻ, được hưởng phúc, tránh tai hoạ ở ngay thế giới hiện hữu. Hoạt động thờ cúng thần địa phương thể hiện tình cảm coi trọng những người có công dựng nước và giữ nước, được phản ánh rõ nét trong tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Trong quá trình giao lưu văn hoá Đông – Tây, có nhiều tôn giáo ngoại lai đã du nhập vào Việt Nam, song các tôn giáo đó đều đã được bản địa hoá và mang dấu ấn Việt Nam. Với tinh thần khoan dung, độ lượng và tính nhân ái vốn có cùng với yêu cầu cố kết cộng đồng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, người Việt đã chấp nhận một sự hoà nhập, đan quyện các yếu tố tôn giáo khác nhau vào mình, miễn là nó không phạm đến lợi ích quốc gia và không đi ngược lại truyền thống văn hoá của dân tộc. Tính dung hợp, đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam làm cho ở nước ta, về cơ bản, không có xung đột đức tin, chiến tranh tôn giáo. Đối với nhiều người Việt Nam, khó xác định đức tin tôn giáo cụ thể ở họ. Dưới con mắt của họ, các thánh thần đều như nhau, đều có thể làm toại nguyện lời cầu xin, thoả mãn được nhu cầu tâm linh. Vì thế, không ít người đặt niềm tin vào nhiều vị thánh, thần; vái tứ phương với quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”; sẵn sàng chấp nhận cả thần, thánh, tiên, phật, thượng đế, ma quỷ, thổ công, hà bá…; lễ bái ở đình, chùa, miếu… nhưng vẫn chăm thờ cúng tổ tiên. Như vậy, có thể nói rằng, ngoài những mặt hạn chế, niềm tin tôn giáo còn đáp ứng nhu cầu tâm lý, đời sống tâm linh của một bộ phận dân cư có tín ngưỡng; đồng thời, nó cũng góp phần lưu giữ và thể hiện một số giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong điều kiện như vậy, việc thực hiện nhất quán chính sách của Đảng về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân trong công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội mới. Nhờ những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của đồng bào các tôn giáo được cải thiện về mọi mặt và do vậy, ngoài niềm tin tôn giáo vốn có, niềm tin của họ vào Đảng và Nhà nước cũng ngày càng được nâng lên. Đồng bào ngày càng thấy rõ lợi ích của bản thân và lợi ích của tôn giáo gắn bó mật thiết với lợi ích của đất nước.
  4. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, hiện nay, tình trạng gieo rắc mê tín dị đoan và các niềm tin tôn giáo không lành mạnh, thậm chí lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để kích động, thực hiện “diễn biến hoà bình” và tuyên truyền chống phá cách mạng vẫn đang ngấm ngầm diễn ra. Đây là một nguy cơ đối với sự ổn định và phát triển của xã hội cần sớm được ngăn chặn một cách tích cực và có hiệu quả. Về vấn đề tôn giáo nói chung và niềm tin tôn giáo nói riêng, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là tiếp tục "thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật... Đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, làm phương hại đến lợi ích chung của đấtnước"(1). Cùng với sự phát triển của lịch sử, khả năng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người cũng ngày càng được nâng cao đã tạo điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển của niềm tin mới. Sự vận dụng từng bước những tri thức mang tính kinh nghiệm và sau này là những tri khoa học - kỹ thuật vào hoạt động thực tiễn của nhân dân ta là cơ sở dẫn đến sự biến đổi của niềm tin, từ niềm tin mang mầu sắc thần bí của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo sang niềm tin có căn cứ khoa học của con người và xã hội. Như chúng ta đã biết, sự du nhập của nhiều trào lưu tư tưởng Đông - Tây vào Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến niềm tin trong đời sống xã hội. Trong thời kỳ Trung đại, cha ông ta đã khai thác những giá trị trong các trào lưu tư tưởng Nho, Phật, Lão; đưa ra lời giải cho bài toán về sự thống nhất tinh thần, hình thành nên sức mạnh cộng đồng phục vụ cho sự cường thịnh của quốc gia, cho nền văn minh Đại Việt. Song, các học thuyết đó cũng không đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển xã hội trong giai đoạn hiện đại. Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, các học thuyết phát triển xã hội thuộc ý thức hệ phong kiến và ý thức hệ tư sản đã không giúp được gì cho con đường giải phóng dân tộc cũng như xây dựng niềm tin mới cho nhân dân. Trong vô số những học thuyết, chủ nghĩa đã có, học thuyết Mác - Lênin với tính cách hệ tư tưởng của giai cấp vô sản được Hồ Chí Minh tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam, trở thành nền tảng lý luận của cách mạng Việt Nam, thành hạt nhân trong đời sống tinh thần của xã hội. Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng vĩ đại, là thế
  5. giới quan khoa học trong thời đại hiện nay; nó có khả năng vạch ra bức tranh tổng quát về thế giới, tính quy luật phổ quát của sự phát triển tự nhiên, xã hội và ý thức, cũng như con đường phát triển xã hội - quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là hệ thống lý luận khoa học về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; tạo thành thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là phương pháp luận phổ quát để nhận thức và cải biến thế giới. Tính khoa học của thế giới quan mà học thuyết Mác - Lênin mang lại thể hiện ở sự tiếp cận, giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội và ý thức con người từ lập trường duy vật biện chứng, ở sự đấu tranh phê phán thế giới quan phản khoa học và chưa khoa học; ở sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, tích cực cải tạo hiện thực bằng hành động cách mạng trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan;... Thế giới quan duy vật biện chứng mà học thuyết Mác - Lênin mang lại là ánh sáng khoa học chỉ đường, soi lối cho nhân dân Việt Nam trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó ươm mầm cho sự nảy nở, bén rễ và phát triển của một niềm tin mới - niềm tin khoa học. Niềm tin khoa học dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng ấy đã ngày càng được củng cố, phát triển cùng với tiến trình vận động, phát triển của đất nước kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; trở thành động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của nhân dân. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã thắp sáng nên trong quần chúng nhân dân niềm tin vào tương lai. Với niềm tin vào sức mạnh của con người mà lý luận khoa học ấy mang lại, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta luôn giữ vững một niềm tin sắt đá: “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Niềm tin ấy là một niềm tin khoa học, nó dựa vào truyền thống lịch sử kiên cường của dân tộc, vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, vào năng lực nắm bắt và vận dụng sáng tạo các quy luật đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam cũng như dự báo đúng đắn về xu thế phát triển của thời đại. Thực tiễn của các cuộc kháng chiến cùng với sự giáo dục, tuyên truyền của Đảng ta đã thâm nhập vào đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân, thổi bùng nên niềm tin của họ vào ngày toàn thắng. Nó góp phần làm cho định hướng giá trị của từng cá nhân và của xã hội hoà quyện vào
  6. nhau, tạo nên sức mạnh của dân tộc và xung lực cho hành động anh hùng, dũng cảm của nhân dân để đưa sự nghiệp đấu tranh bảo vệ và thống nhất Tổ quốc đến thắng lợi hoàn toàn. Có thể nói, trải qua thực tiễn, niềm tin của nhân dân ta vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố và phát triển. Sau “cơn bão chính trị” xảy ra vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, không ít người rơi vào tình trạng hoang mang, dao động. Trong bối cảnh đó, với niềm tin mãnh liệt vào tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì con đường phát triển đất nước đã lựa chọn, chủ động và tích cực tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự phát triển trên mọi phương diện của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội,... của đất nước trong 20 năm đổi mới là bằng chứng thực tiễn xác nhận đường lối đúng đắn của Đảng; đồng thời, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tính cách Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, những mặt trái của toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường đang tạo ra không ít vấn đề có ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của nhân dân. Những khuyết điểm và yếu kém trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ ra, như tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, tính hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn chậm đổi mới... cũng là những nguyên nhân đáng kể. Vì vậy, hơn bao giờ hết, hiện nay, việc xây dựng và củng cố niềm tin khoa học cho nhân dân là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Có rất nhiều việc phải làm để đạt được mục tiêu đó, song quan trọng nhất là: Trước hết, Đảng ta cho rằng, phải “nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước”(2). Đây là nhiệm vụ quan trọng vừa có tính chiến lược, vừa có tính cấp bách. Ngoài ý nghĩa là sự chuẩn bị các điều kiện cầnvà đủ để sẵn sàng và nhanh chóng tranh thủ cơ hội thuận lợi do xu thế toàn cầu hoá, hội nhập
  7. kinh tế quốc tế mở ra nhằm thực hiện rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, việc "nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo những tri thức cần thiết" còn là sự khai thông về mặt nhận thức cho nhân dân, tạo cơ sở để họ xác định, lựa chọn niềm tin đúng đắn, phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại, cụ thể là hướng tới những niềm tin khoa học, góp phần tích cực làm cho xã hội phát triển bền vững. Tri thức nói ở đây là năng lực, kỹ năng và thói quen suy nghĩ, hành động một cách khoa học để bắt nhịp với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Muốn vậy, phải đổi mới giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh sự phát triển của khoa học và công nghệ. Cụ thể là, trong những năm tới, nhiệm vụ của chúng ta, như Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ, là cần đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam; đồng thời, phấn đấu đưa năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng(3). Thứ hai, phải xây dựng những cơ sở thực tiễn nhằm củng cố, xây dựng niềm tin khoa học. Theo quan điểm của Đảng ta, việc “kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ”(4) chính là nhằm tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Có thể khẳng định rằng, thực hiện được những nhiệm vụ đó cũng có nghĩa là chúng ta đã trực tiếp tạo nên cơ sở thực tiễn - tiền đề quan trọng để xây dựng, củng cố và phát triển niềm tin khoa học trong quần chúng nhân dân. Thực tiễn cho thấy, niềm tin của nhân dân sẽ giảm sút khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng và không phát triển, các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người, như lao động và việc làm, thu nhập và mức sống, giáo dục và y tế, đạo đức và văn hoá, an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng... không được cải thiện và nâng cao. Vì vậy, Đảng ta rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế – xã hội nhằm xây dựng, củng cố niềm tin khoa học cho nhân dân. Đây là bài học kinh nghiệm lớn mà Đảng ta đã rút ra từ thực tiễn đất nước cũng như từ sự nhận thức lại
  8. một cách đầy đủ, đúng đắn và khoa học hơn những di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này. Thứ ba, một yêu cầu cấp bách đối với xã hội ta hiện nay là phải có tầm nhìn mới về những thời cơ và thách thức đối với công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. Cụ thể là, phải có những quan điểm khoa học về thế giới, về quy luật phát triển chung của thế giới, về con đường nhận thức và biến đổi thế giới (thế giới quan khoa học) để thay thế cho những quan điểm của thế giới quan phản khoa học hoặc chưa khoa học - một trong những cái gọi là tàn dư của xã hội cũ hiện vẫn còn tồn tại trong đời sống tinh thần của một bộ phận đáng kể quần chúng nhân dân, nhất là ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Muốn vậy, cần “đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(5) cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Đảng ta đã khẳng định rằng, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, “tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(6), là "nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động" của Đảng và nhân dân trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, cùng với những thành tựu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận vững chắc để chúng ta xây dựng và củng cố niềm tin khoa học. Bởi vậy, việc tiếp tục giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn Đảng, toàn dân là nhiệm vụ trọng tâm của công tác lý luận – tư tưởng. Niềm tin là một bộ phận của ý thức con người, có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần và tác động mạnh đến hoạt động của con người và xã hội. Nhiều nhà khoa học và triết học tiến bộ đã cho rằng, niềm tin khoa học chỉ được xây dựng và củng cố dựa trên cơ sở hệ thống tri thức khoa học và tình cảm tích cực của con người. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ trước đến nay cho thấy, Đảng ta luôn nhận thức đúng vai trò của niềm tin, luôn quan tâm tới việc xây dựng, củng cố và phát triển niềm tin khoa học trong nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng niềm tin khoa học cho nhân dân phải được tiến hành đồng bộ, gắn liền với nâng cao dân trí, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với xã hội, phải giáo dục thế giới quan và phương pháp
  9. biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh./. (*) Tiến sĩ, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.42 - 43. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr198. (3) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 95, 98. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 101. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr .283. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 84. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA – MẤY ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI NGUYỄN VĂN HUYÊN (*) Phân tích thực trạng của công tác nghiên cứu và đào tạo triết học ở các viện nghiên cứu và các trường đại học nước ta trong 30 năm trở lại đây và làm rõ một số vấn đề đang đặt ra trong công tác này, bài viết đề xuất một số phương hướng đổi mới. Đó là: đối với việc nghiên cứu triết học Mác - Lênin, không nên tách rời triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử thành hai mảng riêng biệt, mà nên theo hướng xây dựng tri thức theo các khía cạnh: triết học giá trị, triết học về đời sống tinh thần và tư duy, triết học chính trị – xã hội, triết học kinh tế, triết học hành động, triết học văn hoá. Đối với đào tạo triết học, cần biên soạn lại giáo trình triết học theo tinh thần mở, phương pháp tiếp cận đa dạng và phong phú; đồng thời đổi mới
  10. phương pháp giảng dạy, gắn giảng dạy với nghiên cứu. 1. Thành tựu và những vấn đề đang đặt ra Nghiên cứu và đào tạo triết học ở Việt Nam từ ngày có Đảng đến nay, đặc biệt là từ 30 năm (từ 1975) trở lại đây, đã thu được những thành tựu to lớn, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng trong lịch sử phát triển nền triết học nước nhà. Với kho tàng tư tưởng dân tộc quý báu, tiếp thu tinh hoa triết học nhân loại bằng triết học Mác - Lênin và đứng trên nền tảng triết học khoa học đỉnh cao đó, sự nghiệp nghiên cứu và đào tạo triết học Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn, đã nâng văn hoá triết học của nhân dân ta lên một tầm cao mới, trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho đội ngũ cán bộ của Đảng. Nhà nước và các đoàn thể vận dụng sáng tạo và hiệu quả tri thức và văn hoá triết học vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, phát triển con người, hình thành một đội ngũ các nhà triết học có trình độ, năng lực, khả năng đảm đương sự nghiệp xây dựng và phát triển nền triết học theo hướng hiện đại: đối thoại được với những tư tưởng, trào lưu triết học thế giới, khẳng định được năng lực trí tuệ, năng lực tư duy và năng lực sáng tạo của giới khoa học nói chung, giới triết học Việt Nam nói riêng. Có thể nói, cùng với hệ thống các ngành khoa học xã hội và nhân văn, nền triết học nói chung, hoạt động nghiên cứu – đào tạo triết học 30 năm qua nói riêng ở Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, phát triển đời sống tinh thần, phát triển trí tuệ, năng lực tư duy, khả năng khám phá và sáng tạo trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội, khoa học, giáo dục của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy hơn nữa sức mạnh và nguồn lực triết học nước nhà, phát huy những thành tựu nghiên cứu và đào tạo triết học thời gian qua, đặc biệt là nghiên cứu và đào tạo triết học trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, tất cả chúng ta đều nhận thấy, dù là trực quan hay cảm tính (vì chưa có cứ liệu điều tra cụ thể), những bất cập của cả quá trình nghiên cứu và đào tạo của chúng ta. Trước hết, cần khẳng định rằng, ở nước ta trong thời gian qua, nghiên cứu và đào tạo nói chung, triết học nói riêng chưa có sự gắn kết thực sự có hiệu quả. Sự hợp tác trong nghiên cứu và đào tạo giữa các trường đại học đã được thiết lập, nhưng có thể
  11. khẳng định, hiệu quả của sự hợp tác đó chưa cao. Trong khi đó, như chúng ta đều biết, nghiên cứu và đào tạo luôn là một quá trình thống nhất – quá trình tìm tòi khám phá, làm giàu tri thức, tạo ra tri thức mới và nạp tri thức cho con người. Do đó, phải có nghiên cứu triết học tốt mới có đào tạo triết học tốt. Đào tạo triết học không thể nào khác là phải trên cơ sở và bằng những thành tựu triết học mới. Cho nên, cần có cách nhìn nhận mới, cách triển khai, cách tổ chức mới để làm sao có thể kết hợp giữa nghiên cứu và đào tạo một cách tốt nhất trong cả quá trình này. Chỉ khi có được một cơ chế thích hợp trong hoạt động đó, chúng ta mới có thể tạo ra chuyển biến cả trong nghiên cứu lẫn trong đào tạo triết học. Phải chăng, đó là mô hình viện gắn với trường, viện trong trường, trường trong viện, người làm công tác giảng dạy đồng thời là nhà nghiên cứu và nhà nghiên cứu cũng phải tham gia giảng dạy. Thứ hai, điều quyết định nhất để bảo đảm tính đúng đắn và do vậy, cả kết quả của nghiên cứu và đào tạo triết học, trước hết phải có quan niệm đúng về triết học. Quan niệm đúng thì dù nhanh hay chậm, quá trình nghiên cứu – đào tạo sẽ cho ta kết quả đúng và đi tới mục tiêu; quan niệm sai thì hướng đi sẽ lệch lạc, nghiên cứu và đào tạo sẽ cho ra những sản phẩm méo mó, què quặt. Quan niệm về triết học của chúng ta, theo tôi, còn nhiều vấn đề cần phải bàn, nhưng phải chăng, một nhược điểm căn bản nhất là còn cứng nhắc và máy móc, nếu không nói là thô thiển đối với tính chất và đặc điểm của bản thân triết học. Suốt một thời gian dài – cho đến những năm 90 của thế kỷ XX, chúng ta quan niệm và nghiên cứu triết học như là một hệ thống triết học hoàn chỉnh với một số quy luật, phạm trù cố định. Những năm gần đây đã có nhiều đổi mới, nhưng trong nhận thức và trong tư duy, và do đó, cả trong cách tiếp cận và thực hành, chúng ta vẫn theo hướng tách nhận thức về tự nhiên khỏi nhận thức về xã hội. 2. Về nghiên cứu triết học Triết học là khoa học về tư duy và về thực chất, là một hệ thống luận lý về thế giới (tự nhiên, xã hội, con người). Như vậy, có thể nói, triết học là các cách luận lý của loài người, chúng tồn tại từ cổ đại đến hiện đại, từ Đông sang Tây. Luận lý ấy diễn ra dưới vô vàn hình thức và phương pháp: lôgíc – lịch sử, phân tích – tổng hợp, khái quát hoá - trừu tượng hoá, v.v. để cuối cùng, đưa ra những đánh giá dưới dạng kết quả tổng hợp của con người về thế giới. Luận lý về đối tượng (sự vật, hiện tượng) có
  12. thể đem lại các kết quả khác nhau, tùy theo các quan niệm khác nhau, nhưng trong mỗi loại luận lý lại là thống nhất ở cách thức, ở phương pháp. Triết học Mác - Lênin là đỉnh cao trong luận lý của loài người về thế giới, về xã hội và tư duy. Cho nên, trong nghiên cứu, chúng ta không thể tách triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử thành hai mảng riêng biệt. Về thực chất, triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là một thể thống nhất, là một cách luận lý về tự nhiên, xã hội và con người. Yếu tố duy vật biện chứng, duy vật lịch sử luôn hoà quyện trong quá trình luận lý về kinh tế, lúc đó ta có triết học kinh tế; về chính trị – ta có triết học chính trị; về xã hội – ta có triết học xã hội; về văn hoá - ta có triết học văn hoá; về khoa học – ta có triết học về cái đúng – chân lý; triết học về đạo đức – (cái thiện), triết học về thẩm mỹ (cái đẹp), v.v.. Do tư duy triết học theo kiểu cũ đó mà nghiên cứu triết học của ta bị xơ cứng, thô thiển. Chúng ta nói sự vật, hiện tượng và nói chung là đối tượng triết học luôn vận động và phát triển, nhưng cách tiếp cận của chúng ta mang tính một chiều (duy vật hay duy tâm), nhiều cái đã an bài, không đặt ngược vấn đề để nghiên cứu: những vấn đề xã hội, con người, thế giới tâm linh; chúng ta đóng khuôn trong các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu đối tượng, không thấy rằng các phương pháp nghiên cứu, cả lý luận lẫn thực tiễn, còn phải có các cách khẳng định bằng phủ định, thực hiện định đề ngược, không chỉ chứng minh nó đúng, mà còn chứng minh cái khác sai để khẳng định cái đúng; không chỉ có thế, triết học còn có các phương pháp cảm nhận để đi vào thế giới bí ẩn. Dường như chúng ta coi phương Tây là cách quan niệm, cách tư duy, cách nghiên cứu của các nhà triết học phương Tây với các điều kiện đặc thù, có thể là nổi trội, nào đó của họ (như tiền đề tư tưởng, điều kiện kinh tế – xã hội, khoa học – kỹ thuật, v.v.). Triết học phương Đông có cách quan niệm, cách tiếp cận, cách nghiên cứu của người phương Đông với các điều kiện, đặc thù riêng có của người phương Đông. Thực tế, triết học phương Đông không tiếp cận đối tượng bằng hệ thống các phạm trù như triết học phương Tây, mà bằng thế giới nội tâm, bằng cảm quan; nó có thể đi sâu khám phá thế giới tinh thần, sự huyền bí, tính linh diệu riêng của tâm hồn phương Đông. Với điều kiện và đặc điểm của riêng mình, các nhà triết học Việt Nam cũng phải trên nền tảng ưu thế của mình mà quan niệm, tư duy, khám phá thế giới, xã hội, con
  13. người theo cách của mình. Kế thừa, phát triển triết học thế giới, đặc biệt là triết học phương Đông, trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, với sức mạnh riêng của những đặc điểm tư duy Việt Nam, chúng ta sẽ tạo ra những sản phẩm triết học đích thực mang giá trị Việt Nam và giá trị nhân loại. Với tinh thần như vậy, triết học Việt Nam có thể nghiên cứu theo tinh thần không phân chia triết học duy vật biện chứng – duy vật lịch sử (chúng là một thể tư duy thống nhất, có mặt trong mọi nhận thức và nghiên cứu đối tượng triết học), v.v., mà là nên theo hướng khám phá, tìm tòi, xây dựng tri thức (theo các khía cạnh triết học sau: - Triết học giá trị, gồm: chân lý, đạo lý, mỹ lý… nói chung và chân lý, đạo lý, mỹ lý của Việt Nam nói riêng; - Triết học về đời sống tinh thần và về tư duy; - Triết học chính trị – xã hội; - Triết học kinh tế; - Triết học hành động, thực hành nói chung và của Việt Nam nói riêng; - Triết học văn hoá (về các mô thức văn hoá với bản sắc của chúng, phong tục, tập quán các dân tộc); - Triết học tâm linh (triết học về niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo, các hiện tượng khác mà con người chưa giải thích được). Sản phẩm nghiên cứu của giới triết học Việt Nam có một hạn chế rõ nét là không thể hiện rõ tư tưởng độc lập, thiếu một sự luận giải đạt đến tầm, theo một lôgíc riêng; giữa công trình này và công trình kia ở một nhà nghiên cứu chưa thể hiện rõ một lôgíc chung theo cả quá trình, theo một hệ thống và do vậy, suốt cuộc đời nghiên cứu, dẫu người đó có thể có tới hàng trăm công trình, nhưng không xây dựng được một chủ thuyết riêng, không ai hiểu hệ thống tư tưởng triết học của người đó là gì. Do vậy, chúng ta khó có thể tìm ra được những gương mặt triết học, không tìm thấy các tư tưởng chủ đạo của từng nhà triết học. Nguyên nhân của thực trạng đó là do triết học ở Việt Nam bị khuôn mẫu, phương pháp tiếp cận sáo mòn, không đặt vấn đề nghiên cứu là tìm tòi, khám phá, sáng tạo cái mới và kết quả là ít có những đột phá, ít có những khuynh hướng triết học mới, diện mạo triết học không rõ, thiếu sắc thái riêng, không có những đóng góp lớn về giá trị phổ quát.
  14. Từ đó, theo tôi, cần đổi mới cách đặt vấn đề trong nghiên cứu triết học theo hướng: - Trên cơ sở lợi ích dân tộc, sự phát triển đất nước, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng các nhà triết học tới quan niệm triết học đúng đắn, tự do tìm tòi, khám phá, sáng tạo; - Xây dựng các quan điểm, lý thuyết, trường phái triết học bằng các cách tư duy phong phú, phương pháp nghiên cứu đa dạng để trong thời gian ngắn, có thể hình thành những trường phái triết học, những hiện tượng triết học, những gương mặt triết học có vị trí nhất định trong giới khoa học và nền khoa học Việt Nam. 3. Về đào tạo triết học Quan niệm, cách tư duy và nghiên cứu triết học đã vậy thì đào tạo triết học cũng không thể thoát khỏi quan niệm, cách tư duy, nội dung kiến thức, chương trình đào tạo, cách truyền thụ kiến thức tương ứng: xơ cứng, máy móc, thô thiển và kết quả của đào tạo là đưa ra những sản phẩm (con người) thiếu căn bản, méo mó, thiếu hụt tri thức, đặc biệt là thiếu tư duy triết học. Nhận định này là có tính xu hướng chung, còn trong thực tế, có nhiều người, do biết kết hợp nhiều nguồn tri thức, do biết cách học, cách nghiên cứu, nên đã đạt được những kết quả nhất định. Nghiên cứu và đào tạo là các công đoạn, các khâu của cả quá trình xây dựng và phát triển triết học cho từng con người, cho cả nền triết học nước nhà. Dù đến nay, trong đào tạo của ta đã được bổ sung nhiều tri thức mới theo quy luật phát triển tri thức chung của xã hội loài người và theo sự sáng tạo của chúng ta trên cơ sở triết học Mác - Lênin; song, về cơ bản, chúng ta vẫn đào tạo theo cách cũ và trong khuôn khổ triết học cũ (như đã nói ở phần trên). Chương trình đào tạo của ta vẫn phân ra triết học duy vật biện chứng – duy vật lịch sử; điểm xuất phát để nghiên cứu và đào tạo của ta thường vẫn đóng khung trong một cách nhìn nhận thế giới, xã hội, con người; dường như ta vẫn còn bị chi phối bởi cách nhìn và cách làm là lấy một số tiêu chí có tính khuôn mẫu để soi xét thế giới (tự nhiên, xã hội, con người), mà ít lấy thế giới như là đối tượng chứa đựng vô vàn những ẩn số để khám phá nó từ mọi góc độ, từ mọi cách thức. Theo chúng tôi, nghiên cứu – đào tạo cần phá vỡ tính khuôn mẫu này; phải tìm tòi, khám phá, sáng tạo để tạo ra được những sản phẩm (con người) có tư duy mở hết sức uyển chuyển, có khả năng tìm tòi, khám phá, sáng tạo cao.
  15. Chúng ta cần soạn lại nội dung giáo trình, giáo khoa giảng dạy – đào tạo theo tinh thần mở, phương pháp tiếp cận đa dạng và phong phú, đặc biệt là cần quan tâm phát triển thế giới quan và phương pháp luận. Đối với đối tượng đào tạo sau đại học và trên đại học, cần khắc phục và từng bước vượt thoát các nội dung giáo trình, giáo khoa có tính khuôn mẫu. Các giáo trình, giáo khoa của các cấp đào tạo cần khác biệt về trình độ khoa học, cả nội dung lẫn phương pháp tiếp cận. Chương trình đào tạo trên đại học phải được xây dựng theo hệ thống chuyên đề, bảo đảm cập nhật kiến thức mới và hiện đại, những vấn đề triết học cấp bách mà nhân loại đang đặt ra, thời cuộc đang thách thức, đặc biệt là vấn đề toàn cầu và hội nhập quốc tế. Phương pháp giảng dạy cũng cần phải đổi mới theo hướng: - Không truyền đạt lại nguyên xi giáo trình, giáo khoa (phần này học sinh tự đọc); - Lý giải những vấn đề mới về phương diện khoa học, những vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn đang đặt ra; - Chỉ gợi mở để người học suy tư, tìm tòi, đề xuất cách hiểu, cách lý giải; - Khuyến khích tính chủ động, tích cực, độc lập suy nghĩ, khám phá cái mới; - Chấp nhận, khuyến khích các đề xuất ý tưởng táo bạo, khác truyền thống (tất nhiên là phải thuyết phục); - Luận án của nghiên cứu sinh phải là sự tìm tòi, phát kiến, sáng tạo mới (không chấp nhận các luận án viết theo kiểu trả bài). Thống nhất với cách tiếp cận trong nghiên cứu, nên chăng, chúng ta cần triển khai quá trình đào tạo theo hướng đi vào các khía cạnh của đối tượng triết học, thí dụ: - Triết học về giới tự nhiên, về xã hội, về con người; - Triết học kinh tế, triết học chính trị, triết học văn hoá, triết học khoa học - công nghệ, triết học đạo đức, triết học pháp quyền, triết học thẩm mỹ; - Triết học thực tiễn - hành động; - Triết học tinh thần, tâm linh (tín ngưỡng, tôn giáo). Bởi theo tôi, có đào tạo triết học theo hướng như vậy mới cung cấp và đào tạo được cho người học: - Cách nhìn nhận đúng về thế giới, về xã hội, về con người; - Cách xây dựng và phát triển xã hội Việt Nam về kinh tế, chính trị, xã hội, đời sống, con người;
  16. - Sử dụng tốt các phương pháp nhận thức, phân tích, đánh giá triết học như phép biện chứng duy vật, lôgíc - lịch sử, phân tích – tổng hợp, khái quát hoá - trừu tượng hoá, phép tổng hợp, v.v. của triết học nhân loại. Có như vậy, triết học mới thực sự trở thành thế giới quan, phương pháp luận cho tư duy và hành động cải tạo xã hội, xây dựng và phát triển cuộc sống tương lai; và có như vậy, mới thấy triết học thực sự là thế giới quan và phương pháp luận, nền tảng tư tưởng và công cụ sắc bén cho hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá một cách có hiệu quả. Ngay từ bây giờ, chúng ta phải khẩn trương đổi mới cách suy nghĩ, hướng đi, hướng phát triển tư duy và phương pháp nghiên cứu, đào tạo. Và, điều quan trọng, có tính quyết định là phải biến suy nghĩ thành hành động, phải bắt tay làm ngay từ bây giờ. Suy nghĩ đúng, hướng đi đúng, cách nghĩ và cách làm đúng ngay từ hôm nay thì mới có thể sau 50, thậm chí 100 năm, nền triết học Việt Nam mới có thể đạt được những thành tựu rõ nét, mới có thể nói tới sự đóng góp những giá trị triết học riêng, đặc sắc của Việt Nam vào nền triết học thế giới./. * Giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. TỪ ĐẠO HIẾU TRUYỀN THỐNG, NGHĨ VỀ ĐẠO HIẾU NGÀY NAY NGUYỄN THỊ THỌ (*) “Hiếu” được hình thành từ xa xưa, gắn liền với phong tục thờ cúng tổ tiên, về sau được Nho giáo phát triển và thể chế hoá thành chuẩn mực đạo đức. Về cơ bản, nội dung phạm trù “hiếu” mang một ý nghĩa tích cực, đó là bổn phận làm con phải có hiếu với cha mẹ. Trong việc thực hành đạo hiếu, người Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, song đạo hiếu ở Việt Nam vẫn có nét đặc sắc riêng, không hà khắc và cứng nhắc như trong quan niệm của Nho giáo. Đặc biệt, truyền
  17. thống “hiếu” của dân tộc được kế thừa và nâng cao trong tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Ở Người, phạm trù“hiếu” được chuyển đổi mang tính cách mạng. Trong điều kiện hiện nay, tác giả cho rằng, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trò của chữ “hiếu” trong gia đình cũng như ngoài xã hội; kế thừa, phát triển “hiếu” theo tinh thần Hồ Chí Minh, gắn với yêu cầu của xây dựng gia đình văn hoá mới. Đã từ lâu, cha ông ta hết sức coi trọng việc giáo dục đạo lý làm người cho con cháu, mà trước hết là phải lấy chữ hiếu làm đầu: “Làm trai nết đủ trăm đường, Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay”. Bởi lẽ, một con người mà không có hiếu đối với ông bà, cha mẹ, không biết yêu thương, kính trọng những người sinh thành dưỡng dục mình, thì khi ra ngoài xã hội, con người ấy khó trở thành người có tình cảm, biết yêu thương những người xung quanh. Trách nhiệm, nghĩa vụ đối với ông bà, cha mẹ được cô đúc trong khái niệm hiếu. Hiếu không những được xem là đứng đầu của đức hạnh, mà còn là cội nguồn để có được phúc thiện: “Điều hiếu đứng vững, Muôn điều thiện theo. Phúc thiện đúng đạo, Phúc lành được gieo”. (Xuân đình gia huấn) Theo đó, mỗi cá nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của gia đình, gia tộc, tuân theo nề nếp gia phong “trên kính dưới nhường”, khác đi đều bị coi là bất hiếu. Hiếu được hình thành từ xa xưa, gắn liền với phong tục và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, về sau được Nho giáo phát triển và thể chế hoá thành chuẩn mực đạo đức. Nho giáo quan niệm, cái gốc của đạo nhân là ái và kính, mà ái và kính có cội nguồn từ chữ hiếu. Khi nói về đạo trị nước của nhà vua, Khổng Tử cho rằng: “Lòng nhân ái có được bắt đầu từ chỗ yêu người thân như cha mẹ, như vậy mới dạy dân hiếu mục được. Muốn dạy dỗ người khác phải bắt đầu từ người lớn trước mới dạy dân thuận
  18. theo được. (Trong sự nghiệp) dạy dỗ dùng tình nhân ái hoà mục thì dân quý và coi mình như người thân. Dạy biết kính bậc tôn trưởng nên dân quý mà nghe theo. Lấy lòng hiếu ra thờ cha mẹ, thuận theo mệnh lệnh thì đức giáo sẽ rộng ra khắp thiên hạ, không ai là không theo”(1). Như vậy, trong sự giáo hoá của mình, Nho giáo lấy hiếu làm trọng. Theo Nho giáo, hiếu bao hàm nhiều yêu cầu. Trước hết, trong gia đình, con cái phải có trách nhiệm phụng dưỡng bố mẹ khi về già và tế tự khi bố mẹ mất. Khổng Tử nói: “Khi cha mẹ sống thì theo lễ mà phụng sự cha mẹ, khi cha mẹ chết thì theo lễ mà an táng, và khi cúng tế cũng phải theo đúng lễ”(2). Điều đó có nghĩa là phận làm con phải có hiếu với cha mẹ không những lúc còn sống, mà cả khi cha mẹ đã mất. Khổng Tử cho rằng, nuôi cha mẹ thì phải một lòng kính trọng, nếu không kính trọng thì không phải là người có hiếu, đến như giống chó, ngựa đều có người nuôi. Nuôi mà không kính thì chẳng khác gì nuôi thú vật. Vậy nên, nuôi cha mẹ cốt yếu nhất là ở lòng thành kính, dẫu phải ăn gạo xấu, uống nước lã mà làm cho cha mẹ được vui, ấy gọi là hiếu. Thứ hai, người con trong gia đình phải có khả năng và điều kiện để kế tục sự nghiệp của cha. Có như thế mới là nhà có phúc. Cha có con trai thì con cũng phải có con trai, nghĩa là ông phải có cháu trai, nếu không được như thế thì bị coi là nhà vô phúc và người con trai đó bị coi là bất hiếu. Do quá chú trọng đến dòng dõi tông tộc, cộng với hạn chế về mặt lịch sử trong việc nhận thức về sinh lý con người, nên Nho giáo có nhận định mang tính hà khắc, chủ quan. Thứ ba, phận làm con trong gia đình không được phép trái lời cha mẹ. Xét trong quá trình lịch sử thì chữ hiếu của đạo đức Nho giáo quả đúng như vậy. Trong giai đoạn đầu của Nho giáo, quan niệm về hiếu có những nét tích cực nhất định. Ví như Khổng Tử nói: “Trong khi cha mẹ còn sống phận làm con chớ có đi chơi xa. Nếu đi chơi đâu thì thưa trước cho cha mẹ biết”(3). Hoặc khi cha mẹ làm điều gì trái với đạo thì con cái phải dùng cách ôn hoà mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe thì lại tỏ lòng cung kính và hiếu thảo, rồi dần lựa cách mà nói cho cha mẹ biết lẽ phải để sửa đổi lại: “Những điều gì tốt trông cha mẹ nên, Những điều hư hèn trông cha mẹ khỏi”. Đó là những nét mang tính nhân văn, nó không chỉ cần cho xã hội Nho giáo xưa mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ đạo hiếu với cha mẹ ở xã hội hiện đại ngày
  19. nay. Nho giáo cũng cho rằng, những người con có hiếu còn là những người biết khéo tiếp nối được cái chí của cha mẹ, biết khéo noi gương được việc làm của cha mẹ, biết phân biệt để xem những cái nào hay thì theo, cái nào dở thì bỏ. Khổng Tử nói: “Xét người con thì khi cha còn sống, xem chí hướng của người ấy, khi cha chết thì xem hành vi của người ấy. Ba năm không thay đổi so với đạo của cha, thì có thể gọi là hiếu vậy”(4). Dạy về hiếu, Khổng Tử cho rằng phải giữ đạo trung dung. Theo Khổng Tử, việc thờ cha mẹ không phải là cái lẽ cuối cùng của sự hiếu, mà cái lẽ cuối cùng của sự hiếu là lấy hiếu gây thành đạo nhân, vì người có hiếu tức là có nhân.Nhân với hiếu thường đi cùng nhau, nên những người có địa vị trọng yếu trong xã hội phải là những người rất chú ý về đạo hiếu: “Người quân tử ngồi ở trên mà trọn đạo với cha mẹ, thì dân chúng sẽ hướng về “nhân”; người ở ngôi trên không bỏ rơi bạn bè xưa cũ, thì dân chúng sẽ không ăn ở bạc bẽo lạnh lùng”(5). Người quân tử ở đây là những người có quyền hành, địa vị trong tay, làm gương cho dân chúng. Những người ấy mà bất hiếu, tình cảm đơn bạc thì không thể khiến cho người dân có nhân, có nghĩa, có tình cảm được. Vậy nên, Tăng Tử mới nói rằng: “Thận chung, truy viễn, dân đức quy hậu hỹ” (nghĩa là: Người trên mà thận trọng trong tang lễ cha mẹ và lo tế tự tổ tiên các đời trước, thì đạo đức của dân chúng sẽ quy về trung hậu)(6). Tuân Tử cho rằng, cái biết của thánh nhân là cái biết sâu sắc, cái biết từ nguyên tắc, từ tính lý biết đi – cái biết mà Tuân Tử gọi là “Tri thông thống loại” – nghĩa là biết lấy đạo nghĩa làm nguyên tắc căn bản để rồi từ đó suy ra. Cái biết đó hơn hẳn cái biết của người thường. Tỷ dụ: người thường biết hiếu với cha, trung với vua là nghe theo mệnh lệnh của cha, của vua; nhưng “tri thông thống loại” thì biết “ theo đạo chẳng theo vua, theo nghĩa chẳng theo cha, đó mới là cái hạnh lớn của con người”. Ông phân biệt, người con hiếu có ba lý do “bất tòng mệnh”: Tòng mệnh thì người thân nguy, bất tòng mệnh thì người thân yên, người con hiếu bất tòng mệnh là “chung” - đúng phải. Tòng mệnh thì người thân nhục, bất tòng mệnh thì người thân vinh, người con hiếu bất tòng mệnh là nghĩa. Tòng mệnh thì không khác cầm thú, bất tòng mệnh thì hợp lễ giáo, người con hiếu bất tòng mệnh là kính.
  20. Cho nên nên tòng mà bất tòng là bất hiếu, không nên tòng mà tòng là bất “chung”(7). Như vậy, về cơ bản, nội dung phạm trù hiếu mang một ý nghĩa tích cực, bắt nguồn từ tình cảm xa xưa - đó là phận làm con phải có hiếu với cha mẹ. Đây cũng là tình cảm và yêu cầu đạo đức có ý nghĩa phổ biến phù hợp với mọi dân tộc, trước hết là các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi lại biết bao tấm gương hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Trong việc thực hành đạo hiếu, người Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo. Tuy vậy, đạo hiếu ở Việt Nam vẫn có những nét độc đáo riêng, không hà khắc và cứng nhắc như trong quan niệm của Nho giáo. Ngay cả những người thuộc tầng lớp trên, được đào tạo Nho giáo một cách đầy đủ, họ cũng tiếp biến đạo hiếu song đã biến đạo hiếu trở thành giá trị và chuẩn mực đạo đức mang bản sắc Việt Nam. Chẳng hạn, dưới triều Trần, trước khi lâm chung, Trần Liễu nhắc con phải báo thù cho ông. Tuy vậy, Trần Quốc Tuấn đã bỏ đi hiềm khích riêng, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, không nghe lời cha, giữ hoà khí với Trần Quang Khải, anh em đồng lòng đánh thắng giặc Mông - Nguyên, báo hiếu cho xã tắc. Vào thời Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa về Chi Lăng, Nguyễn Trãi đã theo khóc đến tận ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh nói: “Con phải trở về mà lo báo thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì”. Vâng lời cha, Nguyễn Trãi trở về, ngày đêm lo việc phục thù, bày kế giúp Bình Định Vương đánh thắng quân xâm lược. Dưới thời Nguyễn, Phan Bội Châu nuôi chí lớn của cha, gắng sức học tập, thi đỗ giải nguyên để người cha đang hấp hối trên gường bệnh được yên lòng nhắm mắt ra đi. Ông đã mở rộng đạo hiếu với cha ra đạo hiếu đối với dân tộc, giống nòi, hoạt động cách mạng và trở thành nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Trong dân gian, đạo hiếu được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi con người mới sinh ra, còn nằm trong nôi: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” Nội dung chữ hiếu trong dân gian đơn giản, thiết thực, bất kỳ ai cũng có thể thực
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2