intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Mai Đức | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

198
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn giới thiệu tới các bạn về cơ sở của việc hiến xác của cá nhân sau khi chết; những yếu tố ảnh hưởng đến quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết; quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết theo pháp luật hiện hành; thực trạng về việc áp dụng quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết và một số kiến nghị.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

  1. MỤC LỤC                                                                                                                  Trang A – ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………   2 B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:…………………………………………...   2 I – CƠ SỞ CỦA VIỆC HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.  2 1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………...   2 2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………   3 II – NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC  CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT………………………………………   4 1. Yếu tố kinh tế và xã hội………………………………………………..   4 2. Yếu tố tôn giáo và tâm lý………………………………………………   4 3. Yếu tố văn hóa truyền thống…………………………………………..   4 4. Yếu tố trình độ dân trí…………………………………………………..  5 III – QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT THEO  PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH………………………………………………..  5 1. Khái niệm, đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết……  5 a. Khái niệm………………………………………………………………...  5 b. Đặc điểm………………………………………………………………….  5 2. Các nguyên tắc trong vấn đề hiến xác của cá nhân sau khi chết……….   7 3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết……………………………..  12 a. Điều kiện về  chủ  thể………………………………………………………  12 b.  Điều kiện về  sức  khỏe…………………………………………………….  12 c. Điều kiện về  trình tự  và thủ  tục…………………………………………..  13 d. Được pháp luật bảo đảm đúng mục đích của người hiến………………  14 1
  2. IV – THỰC TRẠNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC CỦA  CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ………………… 14 1.   Thực   trạng…………………………………………………………………  14 2. Một số kiến nghị………………………………………………………… 16 C – KẾT THÚC VẤN ĐỀ.........................................................................    21 A ­ ĐẶT VẤN ĐỀ Trải qua quá trình đấu tranh phát triển của xã hội, các quyền của cá nhân  ngày càng được phát triển, mở  rộng. Trong các quyền dân sự  của cá nhân thì   quyền nhân thân là một phần rất quan trọng. Quyền nhân thân là một trong những   nội dung cơ bản của quyền con người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.        Trong pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được quy định cụ  thể  trong pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự (BLDS). Việc Nhà nước ban   hành và quy định các quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS là sự  khẳng định   của Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân thân. Trong đó, đặc biệt phải kể  đến Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể (BPCT) sau  khi chết; Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT 2006 cũng quy định về  các điều kiện   của cá nhân hiến xác, hiến mô, BPCT của mình sau khi chết. Đây được xem là  những quy định rất mới trong lịch sử lập pháp ở  Việt Nam, là một bước đột phá  và được coi là cuộc cách mạng trong quan niệm về  sự  sống, cái chết của con  người. Trong phạm vi bài tiểu luận này, em không đi sâu vào tất cả  các khía cạnh  của ý nghĩa xã hội xung quanh vấn đề  hiến BPCT, hiến xác sau khi chết của cá  nhân mà chỉ tập trung về  Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ­ Một   số vấn đề về lý luận và thực tiễn.  B ­ GIẢI QUYẾT VẤN  ĐỀ      I ­ C  Ơ SỞ CỦA VIỆC HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT   1. C  ơ sở lý luận:  2
  3. Con người  luôn là trung tâm, là tâm điểm hướng tới của mọi cuộc cách  mạng xã hội. Việc ghi nhận các quyền của con người là một trong những yếu tố  đánh giá sự tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử, của từng nhà nước khác nhau. Nhà  nước Việt Nam luôn coi trọng các quyền của con người – trong đó có quyền nhân  thân.  Con người có quyền quyết định đối với những gì thuộc về mình như quyền  nhân thân, con người có quyền được bảo vệ tên tuổi, danh dự…có quyền cho hay  không cho người khác sử  dụng bộ  phận của quyền nhân thân. Khi hiến xác thì  những bộ phận trên cơ thể con người sẽ được dùng vào các mục đích y tế, nghiên  cứu khoa học… Về  mặt sinh học, con người là một cơ  thể  thống nhất bao gồm nhiều bộ  phận hợp lại để hoạt động. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các BPCT cũng hoàn  thiện mà có những người họ  bị  khuyết thiếu một bộ phận nào đó hay có những   người sinh ra họ phát triển bình thường nhưng vì một lý do nào đó họ  bị mất đi.  Mặt khác, trên thực tế có những người do tai nạn hay vì tình thương, vì sự  nhân   đạo, họ  tự  nguyện hiến xác mình cho người khác để  cứu chữa bệnh hay nhằm  mục đích phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học.  Về mặt pháp lý, quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy  định trong Hiến pháp 1992 và BLDS 1995, và lần đầu tiên quyền hiến xác sau khi  chết được thừa nhận và quy định tại Điều 34 BLDS 2005.  2. C  ơ sở thực tiễn  Thực tế cuộc sống cho thấy rằng nhiều tr ường hợp con người do tai nạn, do  sự  kiện bất ngờ  dẫn đến chết lâm sàng hay chết thực sự. Tuy nhiên, một số  bộ  phận trên cơ  thể của họ vẫn còn có thể dùng để chữa bệnh hoặc để nghiên cứu  khoa học. Vì vậy mà họ  muốn hiến xác cùng với các bộ  phận trên cơ  thể  của  mình cho các trung tâm nghiên cứu y học nhằm mục  đích chữa bệnh hoặc nghiên  cứu khoa học. Ở nước ta những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là  rất lớn. Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2006 đã có 6000 người chết do tai  3
  4. nạn giao thông, cứ  bình quân mỗi tháng là 1000 người chết (Báo Tuổi trẻ  ngày  10/8/2006). Đó là một việc không may nhưng một người chết có thể cứu được ít  nhất bảy người: 2 quả thận – 2 người, 2 lá phổi – 2 người, tim – 1 người, gan có  thể  cho 2 hoặc 3 người, chưa kể giác mạc và ruột cũng có thể  cứu chữa người   bệnh. Như  vậy việc hiến xác của cá nhân có vai trò hết sức quan trọng và có ý  nghĩa vô cùng to lớn. Sự  nghiệp đổi mới mở  cửa phát triển kinh tế, nhiều nhà máy, xí nghiệp ra  đời và đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện nhưng bên cạnh đó là mặt trái  của quá trình phát triển kinh tế  đã dẫn  đến cạn kiệt tài nguyên, môi trường ô  nhiễm, ngày càng nhiều loại bệnh phát sinh: viêm gan A, B, teo thận… Thực tế  cho thấy một số nước trên thế giới như Pháp, Mỹ…đã cho phép hiến xác sau khi  chết và đã đem lại những kết quả  ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép  thận, gan có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với   chạy thận nhân tạo… Việc pháp luật thừa nhận quy định quyền hiến xác sau khi  chết sẽ tạo hành lang pháp lý để ngành giải phẫu học nước ta có những bước đột  phá trong những năm tới.  II – NHỮNG YẾU TỐ   ẢNH H  ƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA   CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT 1. Yếu tố kinh tế ­ xã hội Pháp luật nước ta có sự điều chỉnh quy định nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều   quy định mới được ban hành để  điều chỉnh quan hệ  xã hội mới. Kinh tế  phát   triển, đời sống nhân dân nâng cao, quyền lợi của con người ng ày càng được bảo  đảm, bảo vệ. Kinh tế phát triển sẽ có điều kiện đầu tư khoa học trong đó có giải  phẫu nhằm phục vụ  tốt hơn cho nhu cầu chữa trị bệnh cho con người để  nâng  cao chất lượng đời sống. Kinh tế  phát triển, phúc lợi xã hội ngày càng cao, việc  hiến xác được Nhà nước đài thọ hay Nhà nước lập qũy để hỗ trợ người bệnh, thu  hút nhiều loại hình bảo hiểm hơn nữa để  có thể  hỗ  trợ  người bệnh trong qúa   trình hiến, cấy ghép bộ phận cơ thể người khi hiến xác. 2. Yếu tố tôn giáo và tâm lý 4
  5. Yếu tố  này có  ảnh hưởng vô cùng lớn đối với việc hiến xác kể  cả  khi   người đó còn sống hay  đã chết. Ngày nay tuy khoa học kĩ thuật ngày càng phát  triển, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao trí tuệ nhưng tôn giáo vẫn không mất đi mà vẫn  còn tồn tại do nhiều vấn đề con người vẫn chưa tìm ra lời giải đáp. Mặt khác, do  yếu tố  tâm lý con người vẫn chưa thoát khỏi ý thức hệ  tư  tưởng tôn giáo. Việc   thừa nhận, quy định và thực hiện quyền hiến xác sau khi chết ở mỗi quốc gia có   sự  khác nhau do  ảnh hưởng bởi những tôn giáo khác nhau, những tôn giáo khác  nhau có những triết lý khác nhau, do đó có tác động khác nhau đến vấn đề này.  3. Yếu tố v ăn hoá truy   ền thống  Yếu tố  văn hóa là cơ  sở  nền tư  tưởng của đời sống xã hội của một quốc  gia, nó có tác động không nhỏ đến xây dựng, tạo lập nội dung của văn bản pháp  luật của mỗi nước. Đặc biệt là những vấn đề nhạy cảm trong đó có quyền hiến  xác sau khi chết. Đại bộ phận người dân Việt Nam có quan niệm “sống thác, gửi   về”, “sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả  bát cơm” hay “thế giới bên kia của   người chết” do vậy những thủ  tục mai táng, giữ  gìn phần mộ, phần tro của hài   cốt do  được hóa thân của người chết được coi là những việc quan trọng trong  cuộc sống của cá nhân, mỗi cộng động dòng họ, nó thể hiện bản chất hiếu, nghĩa  và lễ  đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi con người Việt Nam. Vì thế  việc hiến  xác là những quy định hiện hành trong chừng mực nào đó được thực hiện trong xã  hội Việt Nam đương thời không hẳn là không có những cản trở nhất định.  4. Yếu tố trình  đ   ộ dân trí  Đây là yếu tố tác động sau và xâu chuỗi hầu hết các vấn đề bảo đảm quyền  hiến xác người được quy định và đáp  ứng được thực tế  cuộc sống phù hợp với  quy luật cuộc sống. Việc phát triển đội ngũ tri thức sẽ  giúp xây dựng hệ  thống  pháp luật hoàn chỉnh về quyền hiến xác sau khi chết và có thể  đảm bảo cho việc  thực thi quyền này có hiệu quả hơn. III ­ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT THEO QUY   ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN H ÀNH     5
  6.  1. Khái niệm và  đ   ặc điểm về quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết  a. Khái niệm Quyền hiến xác là quyền nhân thân của cá nhân quy định ở  Điều 34 BLDS  2005: “Cá nhân có quyền hiến xác, BPCT của mình sau khi chết vì mục đích chữa   bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, BPCT   của người chết được thực hiện theo quy  định của pháp luật”.  Cũng như  các  quyền nhân thân khác, quyền hiến xác sau khi chết luôn gắn liền với một chủ thể  nhất định, không thể  dịch chuyển cho chủ  thể  khác, không xác định được bằng   tiền. b) Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết: Với tư  cách là một quyền nhân thân, quyền hiến xác của cá nhân mang   những đặc điểm chung của quyền nhân thân, đó là: ­ Tính chất cá nhân tuyệt đối.  Quyền   nhân   thân   luôn   gắn   với   một   cá   nhân   xác  định,   không   được   phép  chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân thuộc về  cá nhân cụ  thể  từ  khi   người đó được sinh ra hoặc theo những căn cứ khác do pháp luật quy định. L à các  yếu tố cấu thành không thể tách rời khỏi cá nhân chủ thể, những giá trị nhân thân  được cá thể  hoá, làm cho bản thân người mang các giá trị  đó là hoàn toàn không  thể lặp lại.  ­ Tính không được xác định bằng tiền.  Về  cơ  bản, chủ  thể  của quyền nhân thân chỉ  được hưởng lợi ích tinh thần   mà không được hưởng lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, có những trường hợp đặc  biệt, quyền nhân thân mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi ích   vật chất mà chủ  thể  quyền được hưởng  ở  đây có được là do giá trị  tinh thần  mang lại. Như  vậy, một trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa  vào yếu tố  tài sản, theo đó, có thể  chia quyền nhân thân làm 2 loại: quyền nhân  thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Theo cách phân   loại này, quyền hiến xác thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài sản. 6
  7.   ­ Quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự  kiện pháp lý   mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.    ­ Quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Người có quyền này đối  kháng với một phạm vi không xác định các chủ  thể  có nghĩa vụ  tôn trọng giá trị  nhân thân được bảo vệ.      Bên cạnh các đặc điểm chung của quyền nhân thân, quyền hiến xác c òn  có đặc điểm riêng biệt, đó là: mục đích chủ  yếu của việc thực hiện quyền n ày  không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền nhân thân  khác, mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà  chủ  thể  quyền đạt được chủ  yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống   được người khác đang mắc bệnh hiểm nghèo,  đặc biệt khi người bệnh lại là  người thân thích, ruột thịt của mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho   sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất khiêm tốn   so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận  được từ việc người đó thực hiện quyền của   mình. Rõ ràng, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết  định đối với thân thể  của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi  một cá nhân đã có nguyện vọng hiến xác mình  để  chữa bệnh hoặc nghiên cứu  khoa học, thì những người khác, kể  cả  những người thân thích, ruột thịt cũng  không được cản trở. Thông thường, việc hiến xác không chỉ  là một quyết định  khó khăn đối với người hiến mà còn có thể tác động lớn về mặt tinh thần đối với  gia đình, với những người thân thích của người đó, bởi không ai muốn bản thân   mình và những người thân yêu của mình khi chết  đi có một cơ  thể  không toàn  vẹn. Vì vậy, việc ghi nhận “quyền” hiến xác chính là một bảo đảm cho sự tự do  ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy  cảm này. Tuy nhiên, dù cho mỗi cá nhân có quyền tự quyết  định, tự định đoạt đối  với thân thể của mình, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật  2.  Các nguyên t   ắc trong vấn  đ   ề hiến xác của cá nhân sau khi chết  Với mục tiêu cao nhất là bảo vệ con người, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để  ngành y tế  Việt Nam triển khai các hoạt   động cấy, ghép, thay thế, trị  liệu của   7
  8. mình, đảm bảo nhu cầu bảo vệ sức khỏe cho nhân dân tr ên cơ sở tôn trọng những  giá trị tốt đẹp và nhân bản vốn có của y học, pháp luật các nước trên thế giới đã  cho ra đời bộ nguyên tắc về hiến xác sau khi chết. Pháp luật mỗi nước khác nhau thì bộ nguyên tắc này có những cách thể hiện   rất khác nhau nhưng nội dung mấu chốt vẫn xoay quanh các nguyên tắc cơ  bản   được thừa nhận trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, chúng được ghi nhận tại  Điều 4  Luật Hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác 2006, cụ thể : a. Tự nguyện Hiến xác là quyền cơ bản của mỗi cá nhân không phải là nghĩa vụ, không ai  có quyền ép buộc hoặc cản trở  người hiến thực hiện quyền này. “Tự  nguyện”   được hiểu là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ  ý chí ra bên ngoài. Vì vậy, muốn chứng tỏ người hiến xác là tự nguyện, người đó   phải bày tỏ  ý chí của mình cho mọi người xung quanh được biết. Do ý nghĩa và   tính chất quan trọng của việc hiến bộ  phận cơ  thể, ý chí của người hiến phải  được thể  hiện một cách rõ ràng bằng văn bản, chứ  không chỉ  bằng lời nói như  một số giao dịch dân sự thông thường Tự nguyện luôn là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong pháp luật của  tất cả  các nước, được đòi hỏi như  là điều kiện cần cho hoạt động hiến xác.  Trong hoạt động này nhất thiết phải có sự  đồng ý của chủ  thể  hiến, không thể  đề cập đến nguyên tắc nào khác nếu không nhắc đến sự tự nguyên. Tự nguyện ở  đây không phải là tự nguyện hoàn toàn, có nghĩa quyết định hiến của cá nhân phải  được đưa ra trong trạng thái bình thường, minh mẫn, sáng suốt trên cơ  sở  họ  được thông tin.  Nguyên tắc tự    nguyện cho phép chủ  thể  có quyền thay đổi, hủy bỏ  việc   hiến bất cứ thời điểm nào họ muốn mà không cần đưa ra lý do hay sự giải thích. Ngoài ra, việc sử  dụng xác hiến khác với mục  đích đã xác  định ban đầu của  người hiến thì phải có sự  đồng ý của người đó. Ở đây, mọi lựa chọn của người   hiến đều được tôn trọng; không một cá nhân, tổ chức nào có thể can thiệp vào sự  định đoạt ấy của họ.  8
  9. b) Mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học          Bởi CON NGƯỜI là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách,  pháp luật, tất cả  là vì con người và cho con người, trong đó, quyền sống là một  trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ  sở  để  thực hiện các quyền  con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho con người   chính là tạo điều kiện cả  về  mặt kỹ  thuật, cả  về  mặt pháp lý để  y học có thể  cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa   bệnh của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu Trên cơ  sở  bảo vệ  nhân phẩm con người chống lại mọi hình thức sử  dụng  thân thể  như  một phương tiện nhằm thỏa mãn bất kỳ  một mục  đích nào, pháp  luật luôn đặt con người  ở  vị  trí chủ  thể, phân biệt rõ ràng con người với những  vật thể khác. Vì thế, bằng cách này hay cách khác “thủ thuật y học chỉ hợp pháp   nếu thủ thuật đó tôn trọng một số điều kiện có bản chất là giữ gìn và bảo vệ con  người”, theo cách đó cơ thể con người không thể bị xâm hại. Pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ thể để có thể tiến hành một sự  xâm hại  đến cơ  thể  người  đó nhưng chỉ  là  điều kiện cần, có tính tiên quyết  nhưng chưa đủ. Người ta không thể  xâm hại đến cơ  thể  một người chỉ  với sự  cho phép của chính họ, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu khoa học phục vụ  cộng đồng và toàn bộ  hoạt động này đều phải tiến hành trên tinh thần phi lợi   nhuận. Nguyên tắc hiến vì mục  đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên cứu  khoa học đòi hỏi hoạt động hiến xác mục đích hiến luôn phải xác định trước và  rõ ràng, không thể khác mục đích đó. Mọi hoạt động hiến xác ngoài mục đích trên  đều bị  coi là vi phạm pháp luật. Đây là sự  cụ  thể hóa Điều 34 BLDS 2005, một  biểu hiện cao đẹp của lòng nhân ái, tinh thần giác ngộ khoa học, khẳng định tính  nhân bản vì con người của cộng đồng. Trong đó, mục đích chữa bệnh, giảng dạy   hay nghiên cứu khoa học rất rõ nét nhưng mục đích nhân đạo mà luật đề  cập   tương đối không rõ ràng vì khả  năng này quá rộng, hiểu chung nhất là vì lợi ích  cộng động nên khó hình dung và có thể gây tranh cãi. 9
  10. c) Không nhằm mục đích thương mại( phi thương mại) Nguyên tắc này được áp dụng với tư  cách là điều kiện đủ  trong hoạt động  hiến xác sau khi chết. Và vì thế nó trở thành nguyên tắc quan trọng, bao trùm lên  toàn bộ hệ thống các quy định của pháp luật về vấn đề hiến xác sau khi chết. Ta  đã biết nguy cơ  xác người trở  thành hàng hoá giao dịch trên thị  trường   đang hiện hữu ngày càng rõ nét. Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán   BPCT người, nhưng quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại   hoá các BPCT người. Nguyên tắc không nhằm mục đích thương mại xuất phát từ  đối tượng đặc biệt của quyền hiến xác là xác, BPCT người, đây là những bộ  phận tạo nên một con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình   thường của con người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến   tặng xác người là nghĩa cử vô cùng cao đẹp – ban tặng niềm hy vọng vào sự hồi   sinh, vào cuộc sống mới cho người khác. Điều quan trọng hơn, một khi hoạt động  “bán” xác cùng với BPCT được thừa nhận sẽ  dẫn đến tình trạng hết sức nguy  hiểm – những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những  kẻ chuyên kinh doanh BPCT người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác,   thậm chí giết người để lấy xác họ. Vì những lý do nêu trên, pháp luật khi ghi nhận quyền hiến xác phải  định ra  một giới hạn, đó chính là giới hạn về  mục đích của việc hiến xác. Nguyên tắc  này bao gồm hai nội dung chính: ­ Không trả tiền cho việc hiến xác. Theo nội dung này, không có việc đền  bù tài chính trực tiếp cho người hiến; họ không có quyền đòi hỏi bất kỳ hình thức  nào từ hành vi hiến của mình. Người nhận cấy, ghép, sử dụng giảng dạy, nghiên   cứu cũng không phải trả bất cứ khoản nào do việc được xác người. Đối với bác  sỹ thực hiện kỹ thuật lấy cũng không được trả thêm tiền vì tiến hành phẫu thuật.   Đây phải được coi là một nhiệm vụ của bác sĩ hưởng lương tại cơ sở y tế.  ­ Cấm quảng cáo cho một người hay cho một tổ chức cụ thể. Nội dung này  đòi hỏi hoạt động cung cấp thông tin, giới thiệu, môi giới về nhu cầu hiến, nhận   xác người cho một người, một tổ chức cụ thể mang tính thương mại đều bị cấm. 10
  11. Tuy nhiên, trong hoạt  động này do tính nhạy cảm  đặc biệt nên thông tin tuyên  truyền là hết sức quan trọng, chính nó quyết  định sự thành công hoặc thất bại của  chúng ta. Sẽ  không thể  xây dựng  được chương trình hiến xác thành công nếu  không thực hiện các hoạt động thông tin, tuyên truyền rộng rãi đối với nhân dân.  Như vậy nếu việc thông tin, tuyên truyền không được kiểm soát chặt chẽ rất dễ  dẫn đến hiện tượng lách luật, biến tướng thành quảng cáo, môi giới thương mại.   Để  có thể  làm tốt công tác vận động, tuyên truyền, ngăn chặn được những biến  tướng quảng cáo thương mại xác người ta cần phải có một chương trình, một kế  hoạch thông tin, tuyên truyền, nằm trong chính sách chung của ngành y tế. Các  biến tướng thương mại rất tinh vi nên mọi hoạt động cũng như nội dung của các  chiến dịch tuyên truyền nội dung phải được Bộ Y tế cho phép.          d) Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người   được ghép, trừ  trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật có quy   định   khác         Đây là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội,  ngăn chặn hiện tượng thương mại hóa xác người đồng thời bảo vệ  người hiến,  nhận về  mặt riêng tư  cá nhân. Nguyên tắc này rất quan trọng, nó cho phép tránh  mọi áp lực không cần thiết về  tinh thần cũng như  vật chất từ  phía người hiến,   nhận và gia đình họ  với nhau. Qua  đó ngăn chặn khả  năng thương mại hóa do  quan hệ trực tiếp giữa các đối tượng này.        Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu: mọi thông tin về người hiến, nhận đều  phải được mã hóa và bảo mật, người hiến không được biết căn cước người nhận   và ngược lại, cấm tiết lộ  bất cứ  thông tin nào cho phép xác định người hiến,  nhận. Bảo mật thông tin là những nhiệm vụ  bắt buộc của các nhân viên hoạt  động trong mạng lưới hiến tặng.  Ngoài bốn nguyên tắc cơ  bản trên đây, tuy   không được luật Việt Nam trực tiếp quy định nhưng trên tinh thần của Luật, khi   tiếp cận vấn đề hiến xác người sau khi chết cần phải tuyệt đối tôn trọng:         e) Tôn trọng cơ thể con người: 11
  12. ­ Tôn trọng cơ  thể  con người (hay không công cụ  hóa cơ  thể  người) là  những nguyên tắc cội rễ của cả bốn nguyên tắc trên. Tuy nhiên không phải vì thế  mà ta không đề cập đến nguyên tắc này nữa. Bởi nguyên tắc tôn trọng cơ thể con   người vô cùng quan trọng, có sức bao quát tất cả các trường hợp có thể phát sinh   trong đời sống dân sự liên quan đến công nghệ  y sinh học vốn rất đa dạng và vô  cùng nhạy cảm, phức tạp. Chính vì thế  mà nó có tác động định hướng tương lai,  tìm kiếm sự  đồng thuận giữa các quan điểm khác nhau và có giá trị tuyên truyền  trong cộng đồng. ­ Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội. Yếu tố con người luôn  được nhấn mạnh, tô đậm, đặt lên hàng đầu. Quyền đầu tiên, cơ bản nhất của con   người là quyền sống, tức là cơ  thể của họ  phải được tôn trọng,  “pháp luật bảo   đảm vị  trí tối cao của con người, nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm đến nhân   phẩm và bảo đảm cho con người được tôn trọng ngay từ  khi mới bắt đầu sự   sống” (Điều 16 Luật dân sự Pháp). Sự tôn trọng cơ thể con người tạo nên tính  bất khả  xâm phạm của nó: mỗi cá nhân có quyền được toàn vẹn về  thân thể,  được bảo vệ, chống lại mọi sự xâm phạm của người khác, ngay cả  khi đã chết.  Điều này đòi hỏi trách nhiệm của các cơ sở y tế phải khôi phục về mặt thẩm mĩ  thi thể sau khi lấy xác người đó hay khi không còn nhu cầu sử dụng cho mục  đích  nghiên cứu, giảng dạy thì xác của người được tiến hành hủy, thi thể  được mai   táng, tất cả đều phải được thực hiện với sự trang trọng, kính cẩn. g) Quyền được thông tin của người hiến Được thông tin là quyền cơ bản và quan trọng của cả người hiến, nhận. Nó  xuất phát từ quyền được tôn trọng của người bệnh đã được áp dụng từ lâu trong  ngành y tế. Đây là nội dung quyền không thể  thiếu cũng là quyền  đầu tiên của  họ. Bởi như đã phân tích, sự  đồng ý của người hiến phải trên cơ  sở  được thông  tin đầy đủ, rõ ràng, không thể có sự che giấu nào của bác sĩ hay sự nhầm lẫn nào  của người hiến, cho phép họ  có sự  cân nhắc kỹ  lưỡng khi đưa ra quyết định. Vì  vậy các văn bản khuyến nghị quốc tế đều đề quyền này thành nguyên tắc. 12
  13. Việt Nam không quy định đây là nguyên tắc hay một quyền cụ thể trong các  văn bản pháp luật mà chỉ thể hiện nội dung quyền này trong rải rác các quy định  về  thủ  tục hiến với tư  cách trách nhiệm tư  vấn các thông tin một cách chung  chung của cơ sở y tế trong hệ thống hiến xác người. Thông tin được cung cấp ở  đây phải đáp ứng hai thuộc tính đúng và đủ. Nội dung thông tin thuộc quyền của ng ười hiến không phải là những thông  tin cho phép xác định danh tính người nhận nên không trái với nguyên tắc bảo mật   thông tin. Nguyên tắc quyền được thông tin chính là thể hiện sự thận trọng, minh   bạch từ phía hệ ngành y tế, cũng là tạo niềm tin cho nhân dân đối với hoạt động   hiến xác sau khi chết vô cùng cao cả và nhạy cảm này. 3. Điều kiện hiến xác của cá nhân sau khi chết a. Điều kiện về chủ thể: Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là  quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó   phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể  không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về năng lực hành vi. Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan  trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền xác hay không. Do   nhiều nguyên nhân khác nhau mà  ở  các nước trên thế  giới có sự  quy định khác  nhau về  độ tuổi đối với người hiến xác sau khi chết. Ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên  mới có quyền đăng ký từ  chối hiến xác, BPCT sau khi chết (tức là sau khi một  người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thể đăng  ký từ chối hiến xác không, nếu không có thì cơ  sở  y tế có thẩm quyền gián tiếp  suy luận là người đó đã đồng ý hiến).  Ở  nước ta, Điều 5 của Luật hiến, lấy,  ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ  đủ  18   tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể   của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”. Phân tích quy  định trên ta thấy, cá nhân phải từ  đủ  18 tuổi trở  lên mới có  quyền hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước  13
  14. ta quan niệm rằng  ở  tuổi đó, người hiến mới phát triển đầy đủ  về  tâm, sinh lý   cũng như về mặt pháp lý, họ là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có thể  bằng hành vi của mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy  định của pháp luật b. Điều kiện về sức khỏe Việc hiến xác sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc   mang lại hay kéo dài sự  sống cho người bệnh. Thực tế  trên thế  giới và  ở  Việt   Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, BPCT của người   hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất thương tâm.  Bên cạnh các quy định về  điều kiện hiến xác sau khi chết, cơ  sở  y tế  có  thẩm quyền để  có thể  lấy được xác, bộ  phận cơ  thể  người hiến sau khi chết,   Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác như: điều kiện xác định chết não,   liệu có cần sự  đồng ý của gia đình người hiến không trong trường hợp người   thân của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18   tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn hiến xác sau khi chết thì không cần sự đồng ý  của gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế  xảy ra trường hợp người hiến xác sau khi  chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì gia đình người   hiến không đồng ý, trường hợp này cơ  sở  y tế  có được quyền cưỡng chế  lấy   không? Vấn đề này ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát  hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ  thống thông  tin điện tử  xem người đó có đăng ký từ  chối hiến không, nếu người đó không   đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác sau khi chết. Tuy nhiên,   trong trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ  sở  y tế  cũng không lấy xác. c. Điều kiện về trình tự và thủ tục: Được quy định tại Điều 19 và Điều   20 của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến xác năm 2006. Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép   mô, BPCT người và hiến, lấy xác tự nguyện hiến xác, BPCT, có đơn gửi đến cơ  14
  15. sở y tế hay cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học để đăng ký và  được cấp thẻ đăng ký  hiến xác sau khi chết. Trình tự thủ tục của việc hiến xác được quy định tại Điều 19 như sau: Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến xác, cơ sở y tế có   trách nhiệm thông báo cho cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến quy   định tại Điều 23 của Luật này. Khi nhận được thông báo về  trường hợp hiến xác, cơ  sở  tiếp nhận và bảo   quản xác cuả người hiến có trách nhiệm sau đây: a) Trực tiếp gặp người hiến đề tư vấn về các thông tin có  lien quan về hiến xác; b) Hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; c) Cấp thẻ đăng ký hiến xác cho người hiến. Việc đăng ký hiến xác có hiệu lực kể từ khi người đăng ký được cấp   thẻ đăng ký hiến. Cá nhân có quyền thay đổi hay hủy bỏ đơn đã đăng ký, thì phải có đơn thay  đổi hay hủy bỏ đơn đăng ký tự nguyện. Theo đó cơ sở y tế hay cơ sở nghiên cứu,  đào tạo y học có trách nhiệm tiếp nhận đơn và cấp lại đơn hay hủy bỏ đơn của  các cá nhân tự nguyện hiến xác sau khi chết. Các loại đơn khi bị hủy bỏ hay được   thay đổi, có hiệu lực ngay sau khi đăng ký hiến được thay đổi hay t ên đăng ký của  người hiến được loại bỏ khỏi danh sách đăng ký hiến. d. Việc hiến xác sau khi chết phải được pháp luật bảo đảm đúng mục   đích của người hiến Theo quy định của pháp luật, thì cá nhân có quyền hiến xác sau khi chết vì  mục đích chữa bệnh cho người khác hay nghiên cứu khoa học. Nếu người nhận  xác của người hiến sau khi chết đã không sử  dụng  đúng với những mục đích do  pháp luật quy định thì bị  coi là hành vi trái pháp luật. Luật Luật hiến, lấy, ghép  mô, BPCT người và hiến lấy xác đã có nhiều quy định ngăn cấm trộm mô, BPCT  người, cấm buôn bán mô, BPCT người dưới bất kỳ h ình thức nào, cấm lấy, ghép,  sử dụng, vận chuyển mô, BPCT người vì mục đích vụ lợi và cấm quảng cáo tìm  15
  16. người  tự  nguyện cho mô, BPCT người vì mục   đích lợi nhuận. Vì mô, BPCT  người và xác sau khi chết không thể là hàng hóa và việc cá nhân tự  nguyện hiến   các đối tượng này đã mang bản chất của giao dịch không có  đền bù, và về  thực  chất không thể đền bù vì BPCT người không thể quy đổi thành tài sản. Việc sử  dụng xác người sau khi chết phải đúng với mục đích và ý nguyện  của người hiến, nếu trái với ý nguyện của người hiến thì người có hành vi làm  trái là người xâm phạm đến các quyền gắn với người chết và trách nhiệm của  người vi phạm được xác định là hành vi xâm phạm thi thể của người chết, thuộc   loại trách nhiệm do gây thiệt hại ngoài hợp đồng, phải chịu trách nhiệm theo quy  định tại Điều 628 BLDS về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể. IV ­ THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG QUYỀN HIẾN XÁC, BPCT CỦA  CÁ   NHÂN   SAU   KHI   CHẾT   VÀ   MỘT   SỐ   KIẾN   NGHỊ   NHẰM   HOÀN    THIỆN QUY  Đ   ỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ N ÀY     1. Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi   chết Quyền hiến xác người sau khi chết lần đầu tiên được thừa nhận và quy định  tại Điều 34 BLDS 2005 và Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến,   lấy xác 2006 mặc dù việc hiến, cấy, ghép BPCT người đã  được nghiên cứu và  thực hiện trước đó hàng chục năm. Ở  Việt Nam, theo số  liệu thống kê, nhu cầu cần được hiến, lấy, ghép mô,  BPCT người  ở  nước ta là rất lớn và ngày càng gia tăng. Cụ  thể, cả  nước có  khoảng 5000 ­ 6000 người suy thận m ãn cần được ghép thận. Tại 5 bệnh viện  lớn  ở  Hà Nội  đã có gần 1.500 người được chỉ  định ghép gan nhưng không có  nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.  Ước tính, do không có nguồn của người cho thận, cho gan, ở Việt Nam đã có hơn  200 người phải sang Trung Quốc và một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Không chỉ  là ghép thận, ghép gan, số  bệnh nhân cần phải ghép giác mạc  cũng ngày càng tăng. Đến nay có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ  được   ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc  16
  17. từ  500 ca/năm trở  lên. Từ  năm 1985 đến nay, Viện mới chỉ  ghép được 1.500 ca,  riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm 2005 ghép được 150 ca. Số giác mạc được   dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước   ngoài (khoảng 50­100 giác mạc/năm), số  còn lại  được lấy từ  bệnh nhân bị  bỏ  nhãn cầu do chấn thương và các nguyên nhân khác mà giác mạc có đủ tiêu chuẩn   sử dụng. Trước nhu cầu cấp bách trên, ngay từ năm 1992, Nhà nước đã đầu tư cơ sở  vật chất, phương tiện, cán bộ nên cho đến nay, Việt Nam đã có 10 bệnh viện có  đủ khả năng và điều kiện ghép thận và đã tiến hành thí điểm việc ghép thận, gan.  Tính đến 20/03/2006, các bệnh viện trên đã ghép thành công được 161 ca, trong đó  có 158 ca ghép thận và 04 ca ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan  của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các  chỉ số sinh học tương đương, chưa có trường hợp nào lấy bộ phận cơ thể người  hiến sau khi chết. Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn.   Vào những thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ tr ước, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết để  học tập, nghiên cứu giải phẫu, nhưng đến nay, cả  khoá trên dưới 400 sinh viên  mới chỉ có 1 xác chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo báo   cáo của Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường Đại  học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết). Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca  ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim v à 10­15 ca ghép phổi, 2.000  ca ghép giác mạc, chúng ta phải cần nhiều mô, BPCT người hiến mang tính chất  tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến BPCT người của người thân là không thể  đủ. Do đó, việc lấy mô, BPCT ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc   biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết. Có thể nhận thấy rằng trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản   pháp luật nào quy định về vấn đề  này tức là chưa có văn bản pháp luật nào thừa   nhận quyền hiến xác. Do vậy thực tiễn vấn đề  này từ  năm 2005 trở  về  trước ít  17
  18. người hiến xác vì: Do pháp luật chưa quy định cụ  thể  vấn đề  này. Do văn hóa   người Việt “chết phải toàn thây”. Do tôn trọng đạo giáo, người ta quan niệm do  chúa trời sinh ra do đó họ  không có quyền quyết định BPCT họ. Do người dân  không nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc hiến mô tạng cứu người do đó họ  không hiến hay tỏ ra thờ ơ không quan tâm. Từ khi BLDS 2005 ra đời và có hiệu lực 01/01/2006 thì tại Điều 34, lần đầu  tiên trong lịch sử luật đã thừa nhận quyền hiến xác, BPCT người sau khi chết của  cá nhân. Đây là một điểm vô cùng tiến bộ  của pháp luật nước ta nó cũng phản   ánh tư duy của các nhà làm luật cũng có nhiều đổi mới và nắm bắt được tình hình  thực tế. Tuy nhiên từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay thì người ta thấy thực  tế  số  người tham gia hiến xác, BPCT sau khi chết có tăng nhưng tăng rất ít, hầu   như không đáng kể , có rất nhiều nguyên nhân như đã nêu ở trên ngoài ra còn một   số  nguyên nhân khác như: do từ  khi quyền này có hiệu lực pháp lý đến nay mới  được gần 3 năm do vậy cần có một thời gian để  thích nghi, chế  độ  đ ãi ngộ  đối  với đội ngũ y, bác sỹ…  2.  M   ột số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy  đ   ịnh của pháp luật về vấn đề     n ày     Việc hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là việc làm cao thượng của   người quá cố, là một quyền dân sự  thể  hiện sự  tự  định đoạt của cá nhân, cần  phải được mọi người trong xã hội tôn trọng. Nhưng sự  toàn vẹn cơ  thể  người   chết là một vấn đề  nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như  đối với gia  đình họ. Dân gian rất kiêng kỵ  “cái chết không toàn thây” nên dù cho việc hiến   xác của người chết là một nghĩa cử  cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ  bị  những   người thân thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được xác của người  chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một   phán quyết ngay lập tức của tòa án về  việc buộc những người thân của người  chết phải giao xác người. Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của  tòa án, cơ quan thi hành án cũng khó có thể cưỡng chế thân nhân người chết phải  giao xác chết, trong khi gia đình của họ  đang tổ  chức việc tang. Nếu cứ  cưỡng   18
  19. chế  để  buộc những người này phải giao thi thể  của người chết, thì không phù  hợp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác và bộ phận cơ  thể  như  đã nói trên vừa phải được sự  đồng ý của người quá cố  trước khi chết,   đồng thời phải không có sự phản đối của những người thân thích của người chết. Về  nội dung và về  kỹ thuật liên quan đến vấn đề  này, có những ý kiển về  sửa đổi những điểm sau đây: a. Cần phải bổ  sung về  thủ  tục và điều kiện thể  hiện sự  đồng ý của   người quá cố.           Con người được quyền chết trong sự toàn vẹn thân thể. Nhưng chết là   không còn đối chứng, nên không thể dựa vào “lời trăn trối” hay lời kể của một ai   đó để  chứng minh sự  đồng ý của người chết mà việc đồng ý đó phải thể  hiện   bằng một bằng chứng rõ ràng, chẳng hạn bằng một bức thư, trong di chúc hay  bằng một văn bản riêng thể  hiện ý nguyện hiến tặng xác cho một cơ  quan, tổ  chức y tế  có thẩm quyền và xác định. Do vậy, có kiến nghị  bổ  sung đoạn 1 qui   định: “Việc hiến bộ  phận cơ  thể  hoặc hiến xác phải được người chết tự  mình   thực hiện một cách tự nguyện, bằng văn bản. Nội dung văn bản phải ghi rõ ngày   tháng năm lậpvăn bản; họ, tên, tuổi, địa chỉ  của người hiến tặng thi thể hay bộ   phận cơ thể  sau khi chết; chỉ định người có quyền nhận thi thể hay bộ phận cơ   thể là cá nhân, tổ chức y tế hữu quan…”. b. Qui định việc người chết hiến xác của họ  phải được những người   thân “đồng ý” như  đoạn hai của điều luật là cần thiết và hợp tình, nhưng   chưa hợp lý và không khả thi.            Việc lấy xác người chết ngoài việc phải được chính người chết đồng  ý trước khi chết, nhà làm luật còn phải tính đến thực tế xã hội, những biểu hiện   tâm lý, tình cảm và các phong tục tập quán của người Việt Nam. Vì nếu việc lấy   xác của người chết mà bị  những người thân thích của họ  (được kể  trong điều  luật) phản đối, không cho mang xác chết đi, thì người được chỉ  định nhận xác   người chết cũng không thể thực hiện được ý nguyện của người đã chết. Với cách   19
  20. tiếp cận vấn đề  như  vậy, thì qui định về  vấn đề  này trong Dự  thảo còn có hai  điểm bất lợi, đe dọa khả năng có thể lấy được xác của người chết: + Thứ  nhất, điều luật qui định “phải được sự  đồng ý” của tất cả  những  người được liệt kê là không khả thi trong nhiều trường hợp. Qui định như vậy sẽ  đe dọa đến sự an toàn pháp lý cho những người trực tiếp tiến hành các hoạt động  lấy xác người chết. Vì những người thân thích chưa thể hiện ý chí hoặc có nhiều  người đã không có mặt để ký tên thể hiện sự đồng ý cho lấy xác có thể sẽ  khởi   kiện những người có liên quan đến việc lấy xác người chết. Ngược lại, để  có  thể  lấy được tất cả  các chữ  ký của những người thân thích của người chết thì  quả là chuyện không đơn giản, nhất là những người đang vắng mặt hoặc những   người có mặt tuy không phản đối, nhưng lại không chịu ký tên vào văn bản thể  hiện sự đồng ý của mình. Đó là chưa kể việc yêu cầu ký tên đồng ý vào văn bản  cho lấy xác có thể sẽ gợi thêm cho họ những tình cảm thiêng liêng đối với người   chết. Không qui định về “sự  đồng ý” của người thân thích thì sẽ  không phù hợp   với thực tế, nhưng phải có “sự  đồng ý” của tất cả  những người thân thích thì  điều luật sẽ  trở nên không khả  thi và không thực hiện được quyền định đoạt cá  nhân đối với thân thể của mình và vì thế cũng sẽ không thực hiện được ý nguyện   cao thượng của người quá cố. Do đó, để  dung hòa giữa hai loại quyền nói trên,  nên thay cụm từ  “được sự  đồng ý của…” trong Dự  thảo thành “nếu không bị   phản đối bởi…”. Hậu quả của việc “đồng ý” so với hậu quả của việc “không bị   phản đối” là rất khác nhau. Theo Dự  thảo, việc lấy xác của người chết phải   được sự đồng ý, tức buộc phải có chữ ký của những người thân thích của người   chết, trong một văn bản, khi thể  hiện “sự  đồng ý”. Ngược  lại, nếu qui  định  “không có sự  phản đối” thì chỉ  cần họp mặt những người thân thích của người   chết như  đã kể  trong điều luật và lập biên bản ghi nhận việc có thông báo về  việc lấy xác của người chết mà không có ai phản đối và người đại diện trong gia   đình thay mặt ký tên. Giữa thái độ “phản đối” và thái độ “đồng ý” rõ ràng là có sự  khác biệt. So với việc phải thuyết phục tất cả người thân thích “đồng ý”, thì qui  định “không phản đối” là dễ  thực hiện và khả  thi hơn vì khi lấy xác, mà những   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2