TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA SỐ TỪ TIẾNG VIỆT<br />
NGUYỄN THỊ HAI*<br />
* PGS.Ts Trường Cao đẳng VHNT& DL Sài Gòn<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài viết Tìm hiểu ngữ nghĩa của số từ tiếng Việt đã trình bày nghĩa gốc của số từ, cùng<br />
những hoạt động đáng lưu ý của nó. Bài viết cũng xác định khả năng chuyển nghĩa của số từ.<br />
Đồng thời bài viết cũng chỉ ra hiện tượng chuyển nghĩa nào đã tạo ra nghĩa mới của từ ; những<br />
trường hợp nào chỉ là sự chuyển nghĩa lâm thời, trong một ngữ cảnh cụ thể, nhất định để tạo ra<br />
cách diễn đạt bóng bẩy, có sức truyền cảm.<br />
<br />
<br />
ABSTRACT<br />
STUDYING SEMANTIC CHARACTERISTICS<br />
OF VIETNAMESE WORDS<br />
The article “Studying semantic characteristics of Vietnamese words” has shown original<br />
meanings of some words. It has also stated that some words have the ability to change<br />
meanings and shown which phenomenon of semantic change make new meanings, in which<br />
situations semantic change is temporary; in a certain context, it gives figurative and emotive<br />
expression.<br />
<br />
<br />
1. Nghĩa gốc của số từ<br />
Ai cũng biết số từ xác định có hai nghĩa : số đếm và số thứ tự, tức xếp hạng theo<br />
thứ tự. Song trên thực tế sử dụng, ta thấy có một số khác biệt giữa các chữ số, nhất là<br />
những khác biệt giữa các chữ số thuần Việt và Hán-Việt.<br />
Về số đếm, các số tạo thành một dãy các con số. Trong đó số một đứng đầu tiên,<br />
tiếp đến là số hai, ba, bốn, năm,…<br />
Cần chú ý là con số 4 trong dãy số đếm được đọc là bốn, khác với cách đọc trong<br />
dãy số xếp hạng thứ tự, nếu xét ở phạm vi tiếng Việt toàn dân. Một điều cũng đáng<br />
quan tâm nữa là con số 1 và 5 ở hàng đơn vị được đọc là một, năm. Nhưng ở hàng<br />
chục thì khác, bị biến âm. Và ngay cách đọc hai con số này ở hàng « một chục » cũng<br />
khác nhau. Năm bị biến âm thành lăm ngay ở hàng « một chục », và tiếp tục cho đến<br />
hàng « Chín chục ». Cụ thể 15 không đọc « mười năm » mà đọc là «mười lăm », … ,<br />
95 không đọc « chín năm » mà đọc là « chín lăm ». Nếu đọc « mười năm », « chín<br />
năm » sẽ nhầm với từ đồng âm năm , có nghĩa chỉ thời gian xác định gồm 12 tháng.<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Còn chữ số một phải đến hàng « hai chục » mới biến âm thành mốt, và cứ thế tiếp tục<br />
cho đến hàng « chín chục », cụ thể 21 – hai mươi mốt- ; ... ; 91 – chín mươi mốt -.<br />
Ngoài những số từ trên, còn có các số từ thiên, muôn, vạn cũng dùng để đếm.<br />
Nhưng với ý nghĩa này, các từ vừa nêu trên được dùng trong hoàn cảnh giao tiếp hẹp –<br />
môi trường buôn bán nhỏ theo truyền thống. Thiên đồng nghĩa với một nghìn, vạn và<br />
muôn đồng nghĩa với mười nghìn. Chẳng hạn những người buôn bán trái cây, gạch,<br />
… thường dùng các từ thiên, muôn, vạn hơn, ví dụ : một thiên gạch, một thiên bưởi ;<br />
một muôn gạch, một muôn bưởi ; một vạn gạch, một vạn bưởi , … Giữa hai từ muôn<br />
và vạn thì vạn được dùng nhiều hơn, rộng rãi hơn.<br />
Về số thứ tự, xếp hạng đầu tiên trong dãy số thứ tự là từ Hán- Việt nhất, còn từ<br />
thuần Việt hai được xếp tiếp liền ngay sau đó, song tồn với từ Hán-Việt nhì. Tiếp tục<br />
sau đó là thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, … chứ không phải thứ tam, thứ tứ, thứ<br />
ngũ, thứ lục, … Nên nhớ là trong tiếng Việt toàn dân thứ 4 được đọc là thứ tư chứ<br />
không phải là thứ bốn. Cách đọc thứ bốn chỉ xuất hiện trong phạm vi giao tiếp của<br />
người miền Trung, ví dụ người Bình Định, Phú Yên gọi người thứ 4 trong gia đình là<br />
bốn (anh Bốn, chị Bốn chứ không phải gọi là anh Tư, chị Tư như các vùng, miền khác).<br />
Trở lại với các số từ thuần Việt một, hai, ba, bốn, … và các số từ Hán-Việt nhất,<br />
nhì, tam, tứ, … Nhất đồng nghĩa với một. Nhưng vì một không đứng đầu của hàng<br />
xếp hạng nên trong giao tiếp hàng ngày chúng ta chỉ nghe có thứ nhất, chứ không có<br />
thứ một. Chẳng hạn chúng ta nói Học sinh giỏi nhất lớp ; Cần nhất là sức khỏe chứ<br />
không nói Học sinh giỏi một lớp ; Cần một là sức khỏe. Chúng ta thường nói Nó đứng<br />
hạng nhất ; Nó được xếp hạng nhất. Rất hiếm khi chúng ta nói Nó đứng hạng một ; Nó<br />
được xếp hạng một. Nếu muốn dùng một với nghĩa « xếp hạng » thì phải dùng cấu trúc<br />
số một, ví dụ : Đây là vấn đề cấp thiết số một. Trong lúc đó nhì đồng nghĩa với hai, và<br />
có thể thay thế cho nhau trong nhiều ngữ cảnh. Bởi vì nhì và hai cùng một vị trí trong<br />
dãy xếp hạng thứ tự. Nhì đồng nghĩa với các từ Hán-Việt khác : nhị, lưỡng, song.<br />
Nhưng các từ này không được dùng tự do như nhì. Chúng chỉ xuất hiện trong các kết<br />
hợp hạn chế có nghĩa là « hai + … », ví dụ : lưỡng cực, song mã, nhị phân,… Các từ<br />
này cũng không được dùng để chỉ thứ tự xếp hạng. Các từ khác như tam đồng nghĩa<br />
với ba, tứ đồng nghĩa với bốn, ngũ đồng nghĩa với năm, … Các từ này không được<br />
dùng với nghĩa chỉ thứ tự, và hoạt động rất hạn chế, chỉ xuất hiện trong các kết hợp hạn<br />
chế như : tam cấp, tam giác,… ; tứ giác, … ; ngũ mã,…<br />
2. Số từ có chuyển nghĩa hay không ?<br />
Ta hãy xét các ví dụ sau :<br />
(1) Ăn ba miếng lót dạ . (Ăn ba miếng cho qua chuyện)<br />
(2) Một cây làm chẳng nên non.<br />
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.<br />
<br />
<br />
<br />
2<br />
(3) Bắn hai phát một.<br />
(4) Triệu người như một.<br />
Ở ví dụ (1), nhờ ngữ cảnh : miếng ; lót dạ ; cho qua chuyện mà ta biết được hoạt<br />
động ăn ở đây là ăn không đúng bữa chính ; ăn không phải vì thích thú mà là vì nghĩa<br />
vụ . Số lượng thức ăn đưa vào miệng là ít, nhưng không phải chính xác đếm được là<br />
ba miếng ; « ba miếng » ở đây có nghĩa « ít một cách chung chung ». Vậy cũng có thể<br />
hiểu từ ba trong ngữ cảnh này chỉ một số lượng ít không xác định. Đối với ví dụ (2), có<br />
hơi khác một chút. Nếu chúng ta xét từng câu một cách độc lập và chỉ chú ý đến kết<br />
hợp từ « Một cây », « Ba cây » thì ý nghĩa số đếm lộ rõ. Song nếu để kết hợp từ « Một<br />
cây » trong cấu trúc Một cây + làm chẳng nên (…) thì nó lại gợi cho chúng ta hình<br />
ảnh đơn độc của cái cây. Từ đó có thể liên hệ đến hoạt động của con người, nếu đơn<br />
độc thì « làm chẳng nên » việc gì. Còn kết hợp từ « Ba cây » được để vào cấu trúc « Ba<br />
cây + chụm lại nên (…) » lại gợi được hình ảnh một kết cấu, và là một kết cấu vững<br />
vàng. Nếu liên hệ đến hoạt động của con người thì rõ ràng một khi ta biết liên kết lại<br />
thành một khối thống nhất, nhất định việc gì cũng sẽ làm « nên ». Còn nếu xét hai câu<br />
trong mối liên kết mạch lạc, chúng ta lại thấy rõ thế đối lập một / ba. Khi liên hệ với<br />
những hình ảnh được gợi ra từ sự phân tích ở trên, chúng ta hiểu cái tạo ra thế đơn độc<br />
là có tính cá thể riêng biệt, thuộc về số ít. Cái tạo nên một kết cấu bao giờ cũng là số<br />
đông của cá thể, thuộc về số nhiều. Vậy thế đối lập một / ba trong ngữ cảnh này là thế<br />
đối lập ít / nhiều. Từ đó, đặt trong mối quan hệ với con người, chúng ta hiểu tục ngữ<br />
này muốn nói rằng Ít người và đơn độc thì chẳng làm nên được việc gì. Còn nếu biết<br />
đoàn kết chặt chẽ thì việc gì to lớn mấy cũng làm được. Từ hai trong ví dụ (3) là có<br />
nghĩa gốc – ý nghĩa số đếm, nhưng từ một không hoàn toàn như thế, ý nghĩa số đếm<br />
nhòe đi, ý nghĩa « đợt, lượt » lộ ra. Từ một trong ví dụ (4) không tạo ra thế đối lập với<br />
triệu mà được so sánh ngang bằng. Từ triệu trong ngữ cảnh này không phải chỉ số<br />
đếm chính xác mà là chỉ số nhiều, nhiều vô cùng, không xác định. Thế so sánh ngang<br />
bằng đã làm cho một lay nhiễm thêm nghĩa của triệu nên biến đổi thành nghĩa chỉ<br />
khối, khối lượng. Từ đó gợi ra tính nhất thể, tính thống nhất, tính chặt chẽ của cả khối.<br />
Các ví dụ trên rõ ràng cho chúng ta thấy nghĩa gốc của các từ một, ba, triệu bị<br />
mờ, nhòe đi, nhưng từ đó ý nghĩa biến đổi nảy sinh trong ngữ cảnh lại lộ rõ ra. Nếu<br />
chúng ta xét thêm vài ví dụ có số từ trong thành ngữ, tục ngữ thì có thể ít nhiều thấy<br />
sự phong phú của những biến đổi này. Chẳng hạn ta hãy nghe lời than thở của người<br />
phụ nữ xưa trong câu ca dao sau đây :<br />
(5) “Không nghe tan cửa nát nhà,<br />
Nghe thì hai bảy mười ba cực lòng” (ca dao).<br />
« hai bảy mười ba » ở đây phải được hiểu là « hai lần bảy bằng … », « hai nhân<br />
bảy bằng … » . Như vậy đáp số chính xác phải là mười bốn chứ sao lại là mười ba ?<br />
Quả là phi lí. Phi lí nhưng phải « nghe » theo, nên « cực lòng ». Đáp số mười ba ở đây<br />
<br />
<br />
<br />
3<br />
là con số, nhưng lại được nhìn ở góc độ tâm lí, liên tưởng đến tính phi lí của sự đời. Đó<br />
là một ẩn dụ. Vậy là ý nghĩa của mười ba đã biến đổi trong ngữ cảnh này.<br />
Một ví dụ khác: (6) “Ba mặt một lời”. Từ mặt ở đây có nghĩa hoán dụ chỉ người<br />
(lấy tên gọi bộ phận thay cho tên gọi toàn cơ thể). Vậy ba mặt ở đây có nghĩa là ba<br />
người. Nếu dừng lại ở kết hợp từ này thì ta thấy chỉ có từ mặt được chuyển nghĩa, còn<br />
từ ba có nghĩa gốc rõ ràng. Nhưng ba mặt ở đây lại có hậu văn cảnh là một lời. Điều<br />
này làm chúng ta hiểu ba người này đang thực hiện hội thoại, gồm: vai nói – A - (tất<br />
nhiên là nghe cả mình nói), vai nghe – tức người trực tiếp đối thoại (B). Còn người thứ<br />
ba cũng nghe, nhưng không là người trực tiếp đối thoại mà là người làm chứng (C).<br />
Như vậy trong ba người chỉ có một người nói, có thể nói một câu, cũng có thể nói<br />
nhiều câu, nhưng đều là lời của một người. Cho nên từ một ở văn cảnh này không phải<br />
chỉ số đếm chính xác, mà là chỉ toàn bộ, tất cả lời của một người nói (vai nói). Từ đó<br />
ta hiểu ba và một ở đây không tạo thế đối lập ít / nhiều như ở ví dụ (2), mà tạo thế<br />
tương đồng. Bởi vì toàn bộ, tất cả lời của một người nói ra đều được toàn bộ, tất cả<br />
những người có mặt trong hội thoại (ba mặt) đều nghe, và dĩ nhiên là phải nghe rõ<br />
ràng. Chính vì vậy mà lời nói này được kiểm chứng, được xác nhận, cho nên không thể<br />
bác bỏ nó được. Ta có thể lấy lời đối thoại của nhân vật Pha trong Bước đường cùng<br />
của Nguyễn Công Hoan để làm sáng tỏ ý nghĩa này : « Pha lạy van để minh oan, nói : -<br />
Lạy quan, chả tin quan cứ cho gọi ngay ông Lý vào hỏi ba mặt một lời xem con có ký<br />
vào đơn kiện không ».<br />
Đến đây ta có thể nói rằng số từ có thể biến đổi ý nghĩa. Đồng thời, có những<br />
hiện tượng chuyển nghĩa của nó được cộng đồng chấp nhận, dùng đi dùng lại nhiều lần,<br />
tái hiện trong nhiều ngữ cảnh. Đó là trường hợp các số từ ba, một, triệu ở ví dụ (1),<br />
(3), (4). Với ý nghĩa chuyển chỉ số lượng ít, không xác định của từ ba ta còn gặp trong<br />
các ngữ cảnh như . Ăn ba hột cho xong. Nó hay làm ba cái chuyện tầm phào. …Ta<br />
cũng bắt gặp nó trong các kết hợp từ vài ba, dăm ba, hai ba (Chỉ còn hai ba cái thôi<br />
à !) có cùng một nghĩa như vậy. Từ một với nghĩa chuyển lượt, đợt còn xuất hiện trong<br />
các ngữ cảnh như : Từng người một đi vào ! Ăn ít một thôi !... Với nghĩa chỉ khối<br />
lượng, khối toàn vẹn của một ta cũng thấy trong các ngữ cảnh : Cả nước một lòng. Một<br />
nhà sum họp vui vầy…. Nghĩa chỉ số lượng nhiều, không xác định của triệu cũng được<br />
bắt gặp trong các ngữ cảnh : hàng triệu…, cả triệu …Tương tự như vậy, các từ chục,<br />
trăm, nghìn, tỷ cũng cùng có nghĩa chuyển này. Những nghĩa chuyển đã được cộng<br />
đồng chấp thuận như vậy đã tạo ra nghĩa mới của từ, và nghĩa này được ghi vào từ<br />
điển. Bên cạnh đó cũng có hiện tượng chuyển nghĩa của số từ chỉ nảy ra trong một ngữ<br />
cảnh cụ thể, nhất định, chẳng hạn ở các ví dụ (5), (6). Đó là hiện tượng chuyển nghĩa<br />
ngữ cảnh, mang tính lâm thời, không tạo ra nghĩa mới của từ, chỉ giúp ta diễn đạt bóng<br />
bẩy, có sức hấp dẫn, truyền cảm.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
4<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. NGUYỄN TÀI CẨN. 1975. Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng – từ ghép – đoản ngữ,<br />
NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.<br />
2. ĐỖ HỮU CHÂU. 1981. Từ vựng và ngữ nghĩa tiếng Việt, Hà Nội.<br />
3. ĐỖ HỮU CHÂU. 1998. Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Giáo dục.<br />
4. ĐỖ HỮU CHÂU. 2003. Cơ sở ngữ dụng học. Tập một. NXB ĐHSP HN.<br />
5. DIỆP QUANG BAN. 1996. Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1 và 2, NXB Giáo dục.<br />
6. DIỆP QUANG BAN, HOÀNG VĂN THUNG. 2000. Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1<br />
& 2, NXB Giáo dục.<br />
7. NGUYỄN THIỆN GIÁP. 1999. Từ vựng học tiếng Việt. NXB Giáo dục.<br />
8. CAO XUÂN HẠO. 1991. Tiếng Việt - Sơ khảo ngữ pháp chức năng, NXB Khoa<br />
học – Xã hội.<br />
9. CAO XUÂN HẠO. 1998. Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,<br />
NXB Giáo dục.<br />
10. FERDINAND DE SAUSSURE : Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa<br />
học Xã hội, 1973.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
5<br />