intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng: Phần 2

Chia sẻ: ViDili2711 ViDili2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:321

36
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng: Phần 2 tiếp tục trình bày các nội dung về tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng thờ âm linh, những đặc trưng và giá trị trong tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng: Phần 2

  1. CHƯƠNG 3 TÍN NGƯỠNG THÒ MẪU, t h ò â m linh VÀ THÒ TIỀN HIỀN 3.1. TÍN NGƯÕNG THÒ MẴU / THÕ BÀ Thờ Mẫu là một trong những tín ngưỡng phổ biến của cư dân Việt trên mọi miền đất nước, ở Quảng Nam - Đà x ẵn g , từ vùng núi đến vùng đồng bằng, ven biển, các Mẫu được gọi bằng từ th â n kính là "Bà". Đó là các Bà: Thiên Yana và các dạng hoá thân, Bà Đại Càn- Tứ vị T hánh nương, Bà Ngũ H ành, Bà Thuỷ Long / Bà Thuỷ, Bà Dàng Lạch... Tục thờ Bà không những đóng vai trò quan trọng trong đời sống tin h th ầ n của cư dân đất Quảng nói chung, cư dân ven biển nói riêng, mà còn biểu thị dấu ấn giao lưu văn hoá đa nguyên giữa cư dân Việt vói các cộng đồng cư dân thổ trước trong lịch sử. - 1 DV -
  2. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BIỀN QUẢNG NAM • ĐÀ NẮNG 3.1.1. Thd Thiên Yana (Põ Inư Nagar) vã các hiện thân 3.1.1.1. Thờ Thiên Yana - Bà Chúa Ngọc Thiên Yana là th ần Mẹ xứ sở của người Chăm, được người Việt đồn n hận và thò phụng, kể từ khi mở m ang bờ cõi về phía biển và phương Nam. Bà ngự trị trong đòi sông tâm linh của các cộng đồng dân Việt vối danh xưng tôn quý - Bà Chúa Ngọc, ó Quảng Nam - Đà Nang, nơi thờ Bà với danh xưng "chân chính" Thiên Yana phổ biến ở các làng biển Đà Nắng. Trong cuộc sông hằng thường, Bà được gọi là Bà Chúa Ngọc hoặc Bà Chúa\ nơi thò tự gọi là lăng Bà Chúa'"^\ Trừ lăng Bà Nam Thọ có linh tượng tạc bằng đá Non Nước - Ngũ H ành Sơn, cao khoảng 60 cm, m ang hình dạng P h ật Bà Q uan Âm, các lăng m iếu còn lại không có tượng. H ầu hết các lăng đều phôi thò hai người con của Bà là cậu Quý và cậu Tài (hợp với tru y ền thuyết dân gian của người Việt về Bà Chúa Ngọc), nhưng dấu hiệu n h ận diện không rõ vì cũng không có tiêu tượng. Muốh biết chỉ có cách hỏi một sô" người già từng giữ vai chánh tế, rồi kết hỢp với văn tế, với đồ vật cúng trong ngày lễ lệ th ì mới biết. Chẳng hạn như miếu Bà Chúa Ngọc làng M ân Quang, phần hậu tẩm thờ một cặp siêu (đôi kiếm), một cặp ngựa bằng gỗ; khi cúng tế có thêm ba bộ đồ mã, gồm: áo, hài nón, mũ mão, hia. Người chủ tế cho biết hài nón là đồ thò của Bà Chúa Ngọc, những thứ còn lại của Nhị vị công tử - cậu Quý và cậu Tài. v ề "lai lịch" và th ầ n - 1 DB
  3. tích Bà Chúa Ngọc hầu như không ai tỏ tường. Tuy nhiên, gốc Chăm của Bà thì một số người già lại biết một cách vô thức. Họ nói rằng, Bà lớn lắm, cửa thánh của Bà ở N ha Trang. Bà hiến đến đâu thi ở đó phải lập lăng miếu thờ. Trong tâm thức cư dân Quảng Nam - Đà Nang, Bà Chúa Ngọc được suy tôn và thò phụng như bà Mẹ Đ ất / Mẫu Địa của bổn xứ (làng này). Do nhận thức thông n h ất về đốì tượng thò tự nên ngày vía Bà và nghi lễ tương đối thống nhất ở các làng biển. H àng năm , lễ vía Bà diễn ra trong hai ngày 24, 25 th án g giêng. Nghi lễ tổ chức như tế đình, cũng gồm: 1. Lễ tế Ả m linh. 2. L ễ cáo. 3. Lễ chánh. Cũng như lễ đình, lễ vía Bà Chúa Ngọc cứ ba năm một lần tổ chức lễ "phong"- đại lễ. Đại lễ bao giò cũng có h á t tuồng, mổ heo, vật bò đãi đàng; còn lễ "sái", tức trầm trà thường niên, chỉ có hoa quả, gà, lợn, xôi, bánh. Song, dù là lễ phong hay sái thì thường không thiếu một lễ thức có tính b ắ t buộc là lễ dâng m âm , hay còn gọi là dăng hông (hoa) Ngày trước, người dâng mâm là một ông đồng tử, gọi là "xác" của bà. Đồng tử lần lượt đội từng mâm trên đầu, không cần tay giữ, lăn lộn nhiều vòng từ ngoài vào lăng. Hiện nay, vì không còn người làm "đồng tử" nên nghi lễ này do ông chánh tê thực hiện một cách đơn giản: sau khi tẩy uế, xin keo, ông lần lượt th ỉn h từng mâm lên bàn thò Bà (xin xem ảnh sô 39, 40 mục 4, phần Phụ lục). - 10 9 -
  4. TÍN NGƯỠNG Cư DÂN VEN BIỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẨNG Riêng lăng Bà Nam Thọ (có linh tượng Bà Chúa), việc phụng thờ và nghi lễ thông linh với Thiên Yana / Bà Chúa Ngọc còn có sự hỗn dung các nghi lễ cổ truyền của làng với một vài nghi lễ của P h ậ t giáo và đạo Tiên Thiên T hánh giáo. Tại đây, nơi thờ Bà gọi là "cung điện của Bà T hánh M ẫu Thiên Yana Diễn Phi Chúa Ngọc Đại từ tôn", hoặc "lăng Đức Đồng Thiên" (với nghĩa: đức độ của bà sánh ngang với Trời. Bà làm theo đức của Tròi ban ph át bình an, tài lộc, tông tiễn ôn tà cho con dân làng biển). Lăng Bà có người trông coi gọi là "thủ tự". Đó là một lão ngư. Hàng tháng, ông này phải án chay "tứ trai" và tụng kinh cho bà. Kinh tụng gồm hai bản là "Địa M ẩu Chơn K inh" và "Kinh N h ậ t Tụng". Địa M ẫu Chơn K inh, một th án g tụng ba lần, gọi là "đi kinh Địa Mẫu", mục đích hồi hưống cho bà về cung Thiên. Tham gia lễ đi kinh Địa Mẫu, ngoài th ủ tự, còn có một hội các bà làm nhiệm vụ giông như những chấp sự viên trong lễ cúng thần. Họ giúp ông th ủ tự dâng hương, dâng trầm , dâng hoa, dâng quả và dâng thuỷ - nước (nước sau khi dâng xong được hiểu là nước Cam Lồ của bà). Còn K inh nhật tụng được ông th ủ tự một tháng tụng hai lần vào ngày sóc và ngày vọng, nhằm cầu an cho làng vạn. Mỗi lần tụ n g kinh, th ủ tự đều phải th iế t lễ. Lễ vật gồm hoa quả, vàng mã. Bản kinh đ ặt trê n một giá gỗ lót vải vàng, kê dưới chân bàn hương án, phía trước là 1 1□
  5. . \ỳ f/ỵ /v ề chuông và mõ (xin xem ảnh sô" 25, 26 mục 4, phần P hụ lục). Trước khi tụng phải xin keo, quỳ lạy ba lần. Khi vạn làng có chuyện không may như m ất m ùa, đánh nhaư, dịch bệnh, th ì th ủ tự phải ăn chay nằm đất, tụng kinh gõ mõ 7 ngày tại lăng. X hững khi "biển đói", ghe thuyền th ấ t bát, làng tổ chức lễ "tống ôn" tạ i làng Bà, th ủ tự phải tụ n g kinh trong hai đêm lễ. Ghe thuyền nào th ấ t m ùa liên tục, nếu chủ ghe đến lăng Bà cầu, th ì th ủ tự sẽ dâng nước (gọi là nước Cam Lồ) và đọc K inh nhật tụng, kèm theo một câu chú: Vui chơi buổi hạc Bồng lai / Liệng bùa liệng phép đem về cho m au / Hồ rô phá u ế một m àu / Phép m àu mẹ vạch nước, nước chảy về cứu dân. Sau đó, chủ ghe được "nưốc Cam Lồ" m ang về để xôl rửa ngư cụ, phương tiện. Có lẽ tác n h ân dẫn đến sự thông n h ấ t trong nghi lễ và tâm thức thờ Thiên Y ana ở cư dân ven biển Quảng Xam - Đà x ẵ n g là từ tru n g tâm "núi Chúa"- X’gũ H ành Sơn. Vì nơi đây, tạ i hang Chiêm T hành, người Việt đã tiếp quản và thờ phụng hai vị nữ th ầ n của người Chăm là Bà C húa Xgọc và Bà C húa Lồi. c ả hai đều có tượng. Có th ể chính từ nơi này đã lan toả sự thờ phụng Bà đến cộng đồng cư dân ven biển, tạo nên tính thông n h ấ t trong ngày lễ và nghi thức đôi với một Bà Mẹ đ ất / Chúa xứ / bổn xứ. - 111
  6. TÍN NGƯỠNG Cư DÂN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG 3.1.1.2. Thờ các hiện thân của Thiên Yana / Bà Chúa Ngọc Bên cạnh việc thờ Thiên Yana theo dạng chính danh, cư dân Quảng Nam - Đà x ẵ n g còn thò phụng một số bà khác có danh tính và quyền năng, như: Bà Chúa Lồi (Khuê T rung - Đà xẵng), Bà Dàng Phi (Quá Giáng - Đà X"ẵng), Bà Dàng Què, Bà Dàng Râu (X^am Thọ - Đà xẵng), Bà T hân xứ, Bà Đa xứ (An Hải - Đà xẵng), Bà Dàng Chào (Điện Dương - Quảng Xam), Bà Phường Chào (Đại Cường, Đại Lộc - Quảng Xam), Bà Dàng Lồi (Cẩm T hanh - Hội An), Bà Cổ Vàng / Dàng (Cẩm Hà - Hội An), Bà Dàng Bô / Bà Bô Bô - Thu Bồn (Duy Xuyên, Duy Hải), Bà Chiêm Sơn (Duy Xuyên - Quảng Xam), Bà Chợ Được (Thăng Bình - Quảng Xam). Nhìn vào các địa danh, nơi các Bà linh hiển thì th ấy phần đông đều "cư trú" dọc sông, ven biển. Lăng miếu thờ các bà hầu hết đều quay m ặt ra hướng sông hoặc biển. Một số được dựng trên chính di tích tín ngưỡng của người Chăm xưa. Và điều này đã nói lên "quốc tịch" của các Bà nơi ấy - th ần Xữ Việt gốc Chăm. Căn cứ vào nguồn cội, có thể xem các nữ th ần đó là các dạng biến thể của Thiên Yana {xin xem ảnh sô 35, 36, 38 mục 4, phần Phụ lục). Xói khác đi, đó là hình thái tín ngưỡng phái sinh từ tín niệm thờ thần Mẹ của người Chăm. Theo đó, người Việt đã hoá thiêng những sự vật, sự việc, nhân vật cụ thê liên quan đến người Chăm thành các Bà / Mẩu. 1 12 -
  7. Về nguồn cội, các Bà đó đã hoá th ân từ hai dạng sau: - Thác sinh từ đá, trên vết tích kiến trúc thờ tự của người Chăm xưa. Đó là Bà c ổ Vàng (Hội An) và Bà Bô Bô (tên Việt là Thu Bồn ở làng Thu Bồn, Duy Xuyên, Quảng Xam). Cả hai bà đều có căn từ đá. Linh tượng Bà c ổ Vàng / Cổ Dàng là một m ảnh sa thạch, còn Bà Bô Bô / Dàng Bô / Thu Bồn tương truyền là một phiến đá hình mu rùa^'*\ Trên bàn thờ Bà Bô Bô, ngoài các vật thờ giống như bao ngôi đình, lăng, miếu khác, còn có các vật biểu trưng cho Xữ thần, gồm: bộ đồ Bà bằng giấy (áo, hài, nón), lọn tóc phụ nữ (nay đã mất), và một chiếc thuyền đua nhỏ. Về quyền năng, nếu Bà c ổ Vàng chỉ hiển linh trong phạm vi hẹp ở c ẩ m Hà (Hội An), thì Bà Bô Bô/ Thu Bồn lại hiển linh và nổi tiếng khắp nơi từ nguồn xuống biển^‘'\ Bà còn là Bà Chúa ghe đua của làng Thu Bồn và một sô" làng biển khác như c ẩ m Nam (Hội An), Duy Hải (Duy Xuyên), An Hải (Đà xẵng), Phước Ấm (Thăng Bình), x^hững chiếc ghe dùng để bơi đua trong lễ hội, gọi là "ghe Bà Chúa"^®'. Cá biệt như làng An Hải (Đà x ẵng) có cả miếu và tượng thờ Bà Chúa Ghe {xin xem ảnh s ố 27, phần Phụ lục). Khi cúng tế, Bà được hô mời với danh th ần Thiên Yana Diễn Phi Chúa Ngọc Thượng đẳng thần. Cộng đồng cư dân Quảng Xam - Đà xẵn g nói chung, dân biển nói riêng còn quan niệm, Bà Bô Bô / Thu Bồn có quan hệ ruột th ịt với Bà Phường Chào / Dàng Chào - vị nữ 1 13 -
  8. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÃ NẨNG th ần bảo trỢ cho cư dân vùng núi Đại Lộc (Quảng Nam). T hần tích và truyền thuyết cho hay, nữ th ần Phường Chào vôn là một cô gái đẹp nhưng bị tậ t nguyền bẩm sinh và chết khi còn rấ t trẻ. Cô thường hiển lộng phá phách làng xóm, đôd chợ, đôd nhà. Song khi đã được phong là th ần Nữ thì lại trở th àn h Phúc th ần ban phước cho người hiền lương, giáng hoạ cho kẻ xấu Cũng ở vùng Đại Lộc còn lưu truyền chí tiết: Bà Phường Chào có bôn người con canh giữ mộ phần, trong đó có hai người, một tên là Quý, một tên là Tài, trù n g với tên của Nhị vị công tử - con của Bà Thiên Yana. Và Bà Dàng Chào Đại Lộc cũng chính là Bà Chợ Được của làng Phước Am'^* thuộc vùng biển Thăng Bình (Quảng Nam). Dân gian vùng này cho rằng, chợ Được là một hành cung mới của Bà Dàng Chào, khi một ngày nọ, Bà vân du qua đây. Tại đây, Bà lập chợ cho dân làng buôn bán, chữa bệnh cho kẻ đau ôm. Để ghi nhớ công lao của Bà, dân Phước Ảm gọi chợ do Bà lập là Chợ Bà, sau gọi là Chợ Được; lập lăng thò gọi là Lăng Bà Chợ Được. Trong láng có quần áo, hài nón (ngày trước cũng có lọn tóc). Ban thò chính trong hậu tẩm có ngai tưỢng Bà, đầu ngai đội mũ tran g trí nhiều h ạt ngọc trai, áo thêu rồng phượng m àu đỏ, vàng, trông quý phái mà tôn nghiêm {xin xem ảnh sô' 29, 30 mục 4, phần Phụ lục). Ban thò giữa của chính điện, ngoài đồ thò thần, còn có cây bút bằng gỗ, m àu đen, dài 1 14 -
  9. khoáng 20 cm. Tương truyền, mỗi khi có người đến xin thuốc, Bà liền giáng bút cho ông đồng (người làm xác của Bà) kê đơn. Trước khi kê đơn, ông này phải đọc một trong hai bài văn cầu Bà; lòi văn Hán Xôm lẫn lộn''^'. Sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng ở những nơi có "hoá thân" của Thiên Yana / Bà Chúa Xgọc diễn ra khá sinh động, thể hiện qua hai dạng là lễ lệ và lễ hội. Tiêu biểu là lễ hội Bà Thu Bồn, tức Bà Bô Bô (diễn ra trong hai ngày 11 và 12 th án g 2 âm lịch) và Bà Chợ Được (ngày 11 tháng giêng hàng năm). Nét độc đáo trong sinh hoạt văn hoá lễ hội Bà Thu Bồn là "trên bờ h á t bội, dưới thuyền bơi đua."; trong lễ hội Bà Chợ Được là lễ rước Cộ Bà và lễ Tống ôn, ngoài ra còn có m úa lân, đua ghe, h á t bội. Các nghi thức tê lễ cũng giông như các lễ cúng các Nữ th ầ n khác. Riêng vật phẩm cúng trong lễ Bà Thu Bồn thì b ắt buộc phải có một con trâ u đực non, làm sạch lông, và đặt nguyên cả con lên giá tre, trong tư th ế quỳ. Tiết trâ u được dùng để xoa lên m ình trâu , làm cho toàn th â n là một m àu đỏ. Lễ vật này m ang ý nghĩa hiến sinh. Lễ hội Bà Thu Bồn, Bà Chợ Được là lễ lệ m ang ý nghĩa phụng tự, nhưng đã trở th àn h một sinh hoạt văn hoá lễ hội có sức lan toả rộng, tạo nên một cảm nhận chung về lòng biết ơn đôl với công đức của các Bà. - "Chuyển giới"- Mẫu hoá tượng Nam Thần: Theo cách này có: Bà Dàng Lồi (Cẩm Thanh, Hội An), Bà Chúa 1 15 -
  10. TÍN NGƯỠNG Cư DÂN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẢNG Lồi, Chúa Ngọc (Khuê Trung - Đà Nẵng), Bà Dàng Phi (Hoà Vang - Đà xẵng). Tượng Bà Dàng Lồi (Cẩm Thanh, Hội An) vôn hoá th ân từ tượng thần Tài Lộc của người Chăm; tượng Bà Khuê Trung (Đà xẵng) vốh cũng là tượng thần Phương hướng của người Chăm... (xin xem ảnh sô' 32, 33 mục 4, phần Phụ lục). Mặc dù nét nam tính của các th ần hiển rõ nhưng cư dân sở tại cứ khẳng định đấy là bà*®’. Cũng cùng phương thức hoá Mẫu như thế, còn có Bà Dàng Râu của làng biển Xam Thọ (Đà xẵng). Theo truyền thuyết làng này, Bà Dàng Râu vốh không phải là bà mà là ông, người T rung Quốc. Một chuyến vượt biển từ Trung Quốc sang Việt Xam buôn bán, gặp bão bị đắm thuyền, xác ông trôi vào lưới của một ngư dân, người này vớt lên và chôn cất tử tế. Đến ngày mở cửa mả, hồn về đạp đồng ngang tự xưng là "bà". X’gư dân gọi Bà Vàng Râu, đọc trại là Dàng R âu'’®’. 3.1.2. Thd cúng Ngũ Hành Sau Thiên Yana và các biến thể, cư dân Quảng Xam - Đà X"ẵng nói chung, cư dân ven biển nói riêng còn thò Xgũ H ành - năm yếu tô' bản thể được th ần nữ hoá, gọi là Bà Ngủ H ành hay Ngủ H ành nương nương. XMi thờ tự gọi là miếu hoặc lăng; một vài nơi gọi là dinh Bà Xgũ Hành. Thuở trước, mỗi làng vạn đều có miếu Bà Xgũ Hành, nhưng do nhiều nguyên nhân, đến nay không còn nhiều. - 1 1s
  11. Các ngôi miếu hiện còn thường ở vùng sông biển, như: miếu Xgũ H ành của Xam o (Đà xẵng), của c ẩ m Xam (Hội An), của Tĩnh Thuỷ (Tam Kỳ), của Tân Hiệp (Cù Lao Chàm). Trừ miếu Xgũ H ành c ẩ m Xam có tượng năm Bà được đặt trong lồng kính, với năm sắc m àu của áo tượng trưng cho m àu của năm hành, các miếu khác không có tưỢng, chỉ thò chữ Hán "Xgũ Hành" hoặc bài vị viết bằng chữ Hán: "Xgũ H ành cổ nương th ầ n nữ" {xin xem ảnh số 37 mục 4, p h ầ n Phụ lục). Xơi không còn miếu thì thường phối thò trong miếu Bà Chúa x^gọc, dưói hình thức bài vị, với các th ầ n hiệu: K im đức Thánh phi, Mộc đức Thánh phi, Thuỷ đức Thánh phi, Hoả đức Thánh phi, T h ổ đức Thánh phi, tục gọi là Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thuỷ, Bà Hoả, Bà Thổ, như miếu Bà Khuê T rung (Đà xẵng). Xgư dân quan niệm, nghề biển có quan hệ m ật th iết vói Bà Xgũ H ành, n h ấ t là Bà Kim, Bà Mộc và Bà Thuỷ, bởi các Bà này trực tiếp tác động đến con người, phương tiện, công cụ và sản phẩm nghề biển. Một vài nơi, do những rủi ro xảy ra trong cuộc sốhg cộng đồng như hoả hoạn, chết nước, thì ở đấy chỉ thò riêng bà m à người ta cho rằng vừa là tác nhân gây tai hoạ nhưng vừa phò trỢ để trá n h đi tai hoạ đó. Theo đó, Bà Hoả và Bà Thuỷ thường được tách ra khỏi hệ thống Ngũ H ành để thò riêng, như: m iếu Bà Hoả của làng biển Phú Lộc và làng biển Xam Ô (Đà xẵng); miếu Bà Thuỷ của Khuê Trung 1 17
  12. TÍN NGƯỞNG Cư DÀN VEN BlỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẨNG (Đà xẵng), của Tĩnh Thuỷ (Quảng Nam), của Hà My, Điện Dương (Quảng Nam)... Các ngôi miếu nhìn chung nhỏ bé. Riêng nơi thờ Bà Thuỷ của làng Tĩnh Thuỷ có dáng dấp và chức năng của ngôi đình, gọi là đinh vạn. Hậu tẩm đình vạn thờ hai chữ "Thuỷ thần" (xin xem sơ đồ s ố 5.5, phần Phụ lục). 3.1.3. về các nữ thần của riêng nghề biển Bên cạnh sự tín ngưỡng các Bà / Mẫu chung của quê hương, cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nang còn có riêng một lớp Nữ th ần chủ về nghề biển, gồm: Bà Thuỷ Long, Bà Dàng Lạch, Bà Hà Bá, Bà Ma Nha / Ma Rà. Có thể xem đây là biểu hiện sinh động của tín ngưỡng thờ Nữ th ần nước - Mẫu Thuỷ. - Bà Thuỷ Long hay còn gọi là Bà Thuỷ Tề, Bà Thuỷ hoặc Bà Thuỷ Long Hà Bá. Dân biển quan niệm vị th ần này vừa thiện vừa ác, biểu hiện là vừa hộ m ạng (với tư cách là Thuỷ Long th ần nữ), vừa b ắt mạng*” ^ (khi là Bà Hà Bá). Qua đây, chúng tôi ngờ rằng, cái m ặt trái / ác của Bà Thuỷ Long - Hà Bá và Bà Ma Da chỉ là một. Có lẽ "Hà Bá" là cách nói chữ, nói trại của dân Quảng, hay là sự đánh đồng để chỉ một loài ma nước, thường gọi là Bà Ma Nha. Một quan niệm phổ biến trong dân gian Quảng Nam - Đà Nang là Bà Ma Da chuyên dìm người chết nước, n h ấ t là những người có "dòng" chết nưốc. Rất có thể quan niệm 1 1s -
  13. . .y'^ýf/'ryềỵ này ảnh hương từ tín ngưỡng ma Rừng, ma Nước, ma Lai của cư dân vùng núi Trường Sơn - Tây Nguyên'’'^'. Phải chăng chính "m ặt dữ" của nữ th ần này mà mặc dù có sắc phong (xin xem mục 2.4, sắc phong Thủy Long, phần Phụ lục) nhưng cơ sở thò tự lại hiếm hoi. Chúng tôi mới chỉ biết được hai nơi thờ, một ở làng Xam 0 (Đà xẵng), một ở làng An Bàng - Hội An'' *’. - Ve Bà Dàng Lạch: Còn gọi là Dàng Lạch Chúa nước nưcĩng nương, được hầu hết các vạn làng biển cúng cáo, n h ất là những nơi gần cửa biển, nhằm cầu mong sự hỗ trỢ mỗi khi ra vào cửa / lạch. Dựa vào danh xưng, có thể suy đoán Bà Dàng Lạch là hình tượng tiếp nôi, chuyển hoá từ tín ngưỡng thò n ữ th ần biển cửa Còn / Lạch Còn - Tứ vị T hánh Xương, với tước hiệu Đại Càn quốc gia N am Hải tứ vị Thánh Nương, do cư dân T hanh - Xghệ m ang vào vùng T huận - Q uảng'’ ". Các nghi lễ liên quan đến các Bà Thuỷ chủ về nghề biển khá phong phú, nhưng không thể hiện độc lập mà thường lồng ghép trong các lễ cầu an và cầu ngư, như: lễ nghinh Bà Thuỷ, lễ cúng vũng vịnh... {xin xem lại phần chú thích chương 1, tr.176-177). 3.1.4. Một sô nhộn xét Tục thờ M ẫu của cư dân ven biển Quảng Xam - Đà xẵ n g với các lễ thức và sinh hoạt văn hoá đã cho thấy, tục 1 19
  14. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BlỂN QUẢNG NAM - ĐÀ NẰNG thờ này cũng nằm trong dòng tư duy lô gích của tiến trình lịch sử tín ngưỡng thờ M ẫu ở Việt N am . Đó là từ nền tảng thờ Xữ th ầ n tiến đến thò Mẫu thần và thờ M ẫu Tam phủ, Tứ phủ [124]. Tư duy thì thông n h ất nhưng hình thức biểu đạt ở các vùng miền đã không giông nhau, do phụ thuộc vào bối cảnh môi sinh. Nhưng cũng chính vì thê mà đã làm nên những sắc thái riêng của tín ngưỡng thò Mẫu trên các vùng miền đất nước. 0 Bắc Bộ, vùng cội nguồn của cư dân Việt, nơi có bề dày văn hoá tín ngưỡng lâu đòi, thì tín ngưỡng thò Nữ th ần (phần lớn là nữ th ần bảo hộ cho cư dân nông nghiệp) đã p h át triển theo hai ngả: thứ nhất, phần đông các nữ th ần vẫn là một th àn h viên trong hệ thống "Đạo thò Thần" của người Việt; thứ hai, trên nền tảng thờ Nữ th ần và Mẫu thần, qua sự xâm nhập và ảnh hưởng Đạo giáo, đã dần tiến tới định hình th àn h khuôn m ẫu và hệ thống, tạo th àn h đạo Mẫu Tam phủ- Tứ phủ, có điện thờ là một hệ thống cấu trúc tầng bậc, với các th àn h tô" của hệ thống có liên hệ và quy định lẫn nhau để tạo th àn h một chỉnh th ể nhất quán về điện thần: "Một điện th ần với hàng mấy chục vị đã dần quy về một vị th ần cao n h ấ t là T hánh Mẫu" [124, tr.20]. Gắn bó chặt chẽ với điện th ần Mẫu ấy là các nghi lễ hầu bóng, lên đồng, m úa h á t chầu hầu T hánh Mẫu, đã được xem là một thứ "Đạo giáo đặc thù của Việt Nam". Đạo Mẫu, vói những đặc trưng ấy, cũng có ở một sô" nơi thuộc - 1 2D -
  15. miền Trung và miền Nam, nhưng không thấy xuất hiện ở các làng quê ven biển, trong đó có Quảng Nam - Đà Nẵng. Điều này cũng có nghĩa, tục thò Mẫu của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẳng đã không thuộc hệ thống điện thần của Đạo M ẩu, mà vẫn ở cấp độ tín ngưỡng, gồm hai dạng thức là thờ N ữ thần và M ẫu thần, với mối quan hệ hai chiều: từ thờ Nữ th ầ n ph át triển th àn h M ẫu thần, và sự tác động của tín niệm Mẫu th ần trở lại tục thờ Nữ thần. Hai dạng thò phụng này là kết quả hoà kết tín ngưỡng giữa cư dân Việt với cư dân Chăm và cư dân tiền trú nhóm Môn - Khơme, mà trong đó, th ần M ẫu Thiên Yana / Bà Chúa Ngọc đóng vai trò quan trọng, chi phối đòi sổng cộng đồng trên mọi phương diện. Các hoá th ân của Bà (Bà Bô Bô, Bà Dàng Chào/ Phường Chào, Bà Dàng Lồi...) có thể xem là các M ẫu th ần cụ thể chia nhau cai quản các vùng, liên quan đến đất và nước (biển). Điều này còn phản ánh một thực tế là: các lưu dân Việt vào vùng đất mối Quảng Nam - Đà Nang đã chủ động tiếp biến tục thò T hần Mẹ Xứ Sở của người Chăm dưới dạng thò các Mẫu th ầ n bổn xứ, nhằm cầu bình an trên vùng đất "khác V iệt”. Tại đây, hoạt động thò th ần Mẹ/ M ẫu th ần vẫn tiếp tục theo tín niệm ba ngôi / ba vùng / Tam phủ, song hoạt động ấy luôn hồi quy về vị thần Mẹ khởi nguyên, m ang đậm dấu ấn Mẹ Xứ sở Chămpa. Đó cũng là nguyên do khiến các làng quê Quảng Nam - Đà Nang có nhiều miếu thò Bà Chúa Ngọc / Thiên - 12 1 -
  16. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BIỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẰNG Yana với nghi lễ tương đối thông nhất, trong đó có một vài nghi lễ đã pha phách nghi thức của người Chăm, như: lễ dâng bông, dâng mâm đã từng diễn ra trưóc đây. Bên cạnh đó, tín ngưỡng thò Tứ vị T hánh Nương có xuất xứ từ vùng T hanh - Nghệ, cũng vẫn in dấu ấn trong đời sổng tâm linh của dân biển Quảng Nam - Đà Nang. Hiện trong các lễ cúng kiếng của các làng ven biển, Bà Đại Càn vẫn được hô mời. Điều này có giá trị xác định nguồn cội dân cư, m ặt khác còn nói lên tâm thức thò Thần Mẹ sông biển "quê mình" vẫn được tiếp nôi (và có thể đã hoà đồng với Bà Mẹ xứ Biển Chămpa), đồng thòi cũng cho thấy, tục thò Nữ th ần của cư dân Quảng Nam - Đà Nằng có nét gần gũi với vùng T hanh - Nghệ, vốh là vùng quê gốc của người Quảng. Triết lý âm dương, ngũ hành và lốỉ tư duy lưỡng phân lưỡng hỢp kết hỢp với nguyên lý Mẹ của người Việt truyền thông, cũng đã tác động đến việc thò cúng Ngũ H ành của dân biển Quảng Nam - Đà Nang. Mối cảm quan về tính cụ thể mà thống n h ất của Bà Trời - Mẹ cai quản vùng bao quát n h ất và sự cụ thể hoá, linh thiêng hoá những thuộc tính của Bà, là cơ sở cho việc duy trì tục thờ cúng các Bà Mẹ kiến tạo nên vũ trụ và vạn vật - Bà Ngũ Hành. Nguồn tư liệu trên sách vở cho thấy tín ngưỡng thò Bà Ngũ H ành đặc biệt p h át triển ở vùng Trung và Nam Bộ, mà trước n h ất là ở vùng T huận - Quảng [60], [135], [157]. 1 22 -
  17. Ngoài những điểm nêu trên, thì việc thò Nữ th ần và Mẫu th ầ n của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nắng còn có những nét đáng lưu ý. Trước hết là cách biểu tượng hoá đối tượng thò phụng: Cũng là thờ Bà Chúa Ngọc / Thiên Yana, nhưng đất Quảng không "cấp" và lưu truyền một huyền tích, huyền thoại nào về Bà. Bà tồn tại trong đòi sông tâm linh của các làng ven biển với tư cách hiển nhiên của th ần Mẹ bổn xứ. M ặt nữa, do không thuộc khuôn khổ Đạo M ẫu chính thống nên cách thò phụng Thiên Yana / Chúa Ngọc tấ t nhiên không có điện th ầ n và nghi lễ như ở H uế hoặc ở Bắc Bộ. Nói rõ hơn: vì chưa là th àn h tô" của Tam phủ, Tứ phủ nên điện M ẫu ở Quảng Nam - Đà Nang "tường minh", đơn giản trong bài trí, phối thờ, và khiêm tổh về sô" lượng th ầ n linh: 1/ Vê bài trí\ thường thò một Mẫu, m ang tư cách là Thần Mẹ. Việc phối thờ cũng đậm tính chất Mẫu (Thiên Yana kết hợp với Bà Ngũ Hành) chứ không kết hỢp theo kiểu tứ giáo: Mẫu, P h ậ t (Phật Bà Quan Âm, P h ật Thích Ca), Quan Thánh, và các đô"i tưỢng khác như: Thổ thần, Thổ địa, Âm hồn, như một vài dinh Bà Quảng Ngãi [162, tr.63]. 2/ Hệ thống thần linh được phối tự trong các lăng Bà Quảng Nam - Đà Nang có xu thê hồi quy hướng về "độc Mẫu"/ n h ấ t th ần Mẫu, nên không tích hỢp đông đảo th ầ n linh theo thứ bậc, gồm: Tứ phủ công đồng-> Tứ phủ chầu Bà-> Ngũ vị Tôn Òng-> Tứ phủ Quan Hoàng-> Tứ phủ Thánh - 1 23 -
  18. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BIỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẲNG Cô-> Tứ phủ T hánh Cậu, như các điện thò Mẫu ở Huê [129, tr.43]; hoặc như hệ thống thang thứ bậc phổ biến ở miền Bắc: Ngọc Hoàng-> T hánh Mẫu-> Quan-> Chầu-> Ông Hoàng-> Cô-> Cậu-> Ngũ Hổ-> Lốt, m ang tính chất đa th ần với khoảng 60 vị th án h [128, tr.õ8]. Hệ thông các bậc th ần linh trong các lăng miếu Bà ở Quảng Nam - Đà Nang thường theo kiểu: Mẫu-> Tả ban, Hữu ban (phôi tự các loại thần)-> Cậu (Quý, Tài), hoặc Tiền hiền, H ậu hiền. Ngoài cách sắp xếp này, một vài lăng có thể thêm vài thần linh khác, nhưng phần lớn chỉ còn vang bóng trên bài vị và trong văn tế. Có thể tư tưởng thò M ẫu theo kiểu thò "nhất thần" ấy đã tạo cơ sở cho sự hoá thiêng từng N ữ thần thành M ẫu thần, mà Bà Dàng Bô / Thu Bồn, Bà Chợ Được, Bà Dàng Chào, Bà Thuỷ Long, Bà Thuỷ, Bà Hoả, đã là kết quả của sự "nâng cấp, lên khuôn" đó. Có lẽ th ế mà phổ biến ở vùng ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng là mỗi lăng miếu thường chỉ thờ một Mẫu. Và cũng qua xu hưống thò phụng đó, có thể hiểu về một đặc điểm trong tư tưởng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nang là rấ t đậm tín niệm thò Mẫu theo kiểu hệ thông "thần Mẫu ba ngôi làm một". 0 đây, sự tích hỢp và phân th ân theo tín niệm "Tam vị n h ất thể" được tập trung trong hình m ẫu Thiên Yana. Cho nên, bên cạnh các vị th ần bảo hộ khác, dân biển đã tìm thấy ở các dạng hoá th ân của Thiên Yana sức m ạnh bảo trỢ của Mẫu Thiên, Mẫu Thuỷ - 12 4 -
  19. và Mẫu Địa, đặc biệt là Mẫu Thuỷ. Một tập hợp các Bà như: Bà Dàng Lồi, Bà Dàng Lạch, Bà Dàng Bô, Bà Chúa ghe và vật phẩm dâng cúng cũng như vật thò (ghe đua) và tục đua ghe, đã chỉ ra đây là các nữ th ần bảo hộ cư dân sông biển nhưng có căn cốt hoặc cách thức thờ theo Mẫu th ầ n Thiên Y a n a '’'^’. Một nét đặc biệt khác trong tín ngưỡng thò M ẫu của cư dân ven biển Q uảng Nam - Đà Nang là xu hướng thiêng hoá các vật thể trong lòng đất th à n h Nữ thần, M ẫu th ần . Nói cách khác là xu hướng "hoá Mẫu" các vật thờ của cư dân tiền Việt. Theo đó, những vật p h át lộ trong lòng đ ất đều quy là thuộc âm, do vậy m à m ang tín h nữ. Vì thê nên phiến đá, tượng Nam th ầ n "mọc lên" từ đất nơi nào thì trở th à n h "Bà Chúa xứ" của nơi ấy, gắn với niềm tin về sức m ạnh và sự linh thiêng của Bà Mẹ Đ ất - Mẫu Địa. Dạng thờ phụng theo con đường hoá th â n dân dã này đều có ở ba miền - đồng bằng, biển, núi rừng, và diễn ra khác h ẳn khi so với các dạng hoá th â n của Bà C hủa Liễu ở m iền Bắc và Bà C húa Xứ ở m iền Nam. M ặt khác, sự M ẫu hoá các di vật lồi lên từ m ặt đất, có th ể còn chịu ảnh hưởng và sự tác động từ tục thò đá, thờ th ầ n của cư dân Trường Sơn - Tây Nguyên, và cư dân thuộc nhóm Môn - Khơme. Sự ảnh hưởng không những biểu hiện qua ngôn ngữ là từ tô' "Dàng" trong các danh xưng; D àng Lồi, Dàng Lạch, D àng Bô, mà còn th ể hiện qua việc b ắ t chước lưu 12 5 -
  20. TÍN NGƯỠNG Cư DÀN VEN BIỀN QUẢNG NAM - ĐÀ NẢNG giữ một sô" đồ thờ như lọn tóc của phụ nữ; chiếc ghe đua. N hững vật này vừa là đồ thò, vừa được xem là vật ký thác của M ẫu th ần , giông như cư dân vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thường có vật ký thác của các th ầ n Yang / Giàng/ Dàng, đưỢc thờ trong nhà Rông hoặc các miếu thờ trong rừng [60, tr .l5 0 -lõ l]. Như thế, các yếu tô" văn hoá Việt, Chăm, Tây Nguyên đã tích hỢp và hoà trộn, làm nên biểu tưỢng của Bà Mẹ Việt. Nói khác đi, tính đa nguồn là một đặc điểm trong tín ngưỡng thờ M ẫu của dân biển Quảng Nam - Đà Nắng. Tính lưỡng diện của các N ữ thần và Mẫu thần cũng là một đặc điểm riêng của tín ngưỡng thò Mẫu của vùng biển Quảng Nam - Đà Nang. Quá trìn h linh thiêng hoá đá th ần và tượng th ần không phải bằng việc "cấp cho" những th ầ n tích của Phật, Tiên, hay những oan k h u ất của người con gái, mà có lẽ xuất p h át từ sự sỢ hãi do cảm thấy đã xúc phạm những vật thiêng từ lòng đất. Từ đó dẫn đến mô típ hoá thiêng các Bà theo một diễn trình: mọc/ lồi từ đất lên / không ai thờ cúng / không gian nơi "Bà" trở th àn h "cái cấm" để hoang, không ai dám đi ngang qua đó / Bà phá phách làng xóm rồi "đạp đồng ngang" (phụ đồng th ẳn g vào một người dân trong làng) xưng danh tín h / Dân làng sợ lập miếu thò / từ dữ, ác chuyển sang hiền và bảo trỢ cho cuộc sông của dân làng, nên từ đó được suy tôn là T hần Nữ linh ứng. Vói các nhân vật cụ thể như Bà Bô Bô, Bà Dàng 12 6 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2