intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

Chia sẻ: đặng Văn Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

151
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu" giới thiệu tới người đọc các khái niệm biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn và tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

  1. Khái niệm, biểu hiện của Chủ nghĩa yêu nước anh hùng Cách Mạng, Khuynh  hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Tính dân tộc. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ANH HÙNG CÁCH MẠNG 1. Khái niệm:  ­ Yêu nước là tình cảm gắn bó của con người với quê hương đất nước, là một tình cảm nhân  bản, cao đẹp của con người. Tình cảm này được thể hiện ở rất nhiều cung bậc, sắc thái cảm  xúc khác nhau. ­ Yêu nước anh hùng cách mạng là yêu nước nhưng được soi sáng dưới ánh sáng của lí tưởng  cách mạng, được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt và được chứng minh qua 2 cuộc  kháng chiến của dân tộc: kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. 2. Biểu hiện: ­ Căm thù giặc, kiên cường chiến đấu bảo vệ đất nước. ­ Niềm tự hào đối với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. ­ Thái độ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước. ­ Khát vọng hòa bình, độc lập và ý thức trách nhiệm xây dựng đất nước. ­ Thê hiện bằng các hình thức nghệ thuật phù hợp. KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần  tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận  động và phát triển cách mạng. Tất cả những yếu tố trên hoà hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản  của văn học VN từ 1945­ 1975 về khuynh hướng thẩm mĩ. 1. Khuynh hướng sử thi:  a. Khái niệm: ­ Sử thi: một thể loại văn học dân gian còn được gọi là Anh hùng ca, trường ca...là một thể loại  văn học thuộc loại hình tự sự dân gian, với một số đặc trưng cơ bản là: đề cập đến những  vấn đề lớn lao của cộng đồng, xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng là kết tinh sức mạnh  vật chất và tinh thần của cộng đồng trong cảm hứng ngợi ca... ­ Khuynh hướng sử thi được dùng để chỉ phẩm chất của một tác phẩm văn học, trào lưu văn  học, giai đoạn văn học Việt Nam 1945 – 1975. b. Biểu hiện: Nội dung: ­ Đề cập đến những vấn đề lớn lao có liên quan đến vận mệnh dân tộc, đời sống dân tộc. ­ Xây dựng được nhân vật trung tâm là những người anh hùng, những con người mang sức  mạnh phẩm chất và vẻ đẹp cộng đồng. ­ Cảm hứng chủ đạo: ngợi ca, tự hào. ­ Ý nghĩa triết lí: hướng về chủ đề yêu nước. Nghệ thuật: ­ Xây dựng được một không gian rộng lớn. ­ Bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa. ­ Ngôn ngữ trang trọng, tráng lệ, giàu hình ảnh, giàu giá trị biểu tượng. ­ Giọng điệu chủ đạo: tự hào, ngợi ca. 2. Cảm hứng lãng mạn: a. Khái niệm: ­ Cảm hứng là nguồn gốc trực tiếp của sự sáng tạo nghệ thuật. Cảm hứng lãng mạn khẳng  định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng về lí tưởng, về tương lai. 1
  2. ­ Cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945 – 1975 là cảm hứng lãng mạn tích cực, cảm hứng  lãng mạn cách mạng­ một chủ nghĩa lãng thấm nhuần tinh thần chiến thắng và chủ nghĩa anh  hùng. Nó giúp con người ta vượt lên trên cuộc sống gian khổ và ác liệt mà hướng về tương lai  chiến thắng, về cuộc sống hạnh phúc và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau chiến tranh ­ Là cảm hứng mà mỗi vần thơ, câu thơ có cái nhìn đẹp hơn về thực tại, hướng về tương lai,  khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng vào cuộc sống cách mạng. b. Biểu hiện: ­ Thi vị hóa hiện thực xây dựng và chiến đấu. ­ Lý tưởng hóa tương lai. ­ Tuyệt đối hóa giữa thiện và ác, giữa ta và địch. ­ Cái tôi lãng mạn của tác giả, bút pháp lãng mạn, giọng điệu,… TÍNH DÂN TỘC 1. Khái niệm:  Là một phẩm chất thuộc bản chất xã hội của văn học. Mỗi dân tộc đều có cuộc sống, cách cảm  thụ thế giới và hệ giá trị riêng do truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tâm lí và ngôn ngữ  tạo thành. Những yếu tố này khi thể hiện vào văn học sẽ tạo nên tính dân tộc trong văn học. 2. Biểu hiện: a. Trong nội dung: ­ Thường ca ngợi truyền thống dân tộc, tính cách dân tộc, đặc điểm tâm hồn, cốt cách của dân  tộc. ­ Bức tranh thiên nhiên dân tộc, các địa danh. ­ Đặc trưng trong đời sống dân tộc. ­ Ca ngợi những con người ưu tú của dân tộc. ­ Đề cập đến những cẫn đề có liên quan tới vận mệnh dân tộc. b. Trong nghệ thuật: ­ Thể thơ truyền thống: thể thơ lục bát thuần túy của dân tộc. ­ Biên pháp tu từ quen thuộc. ­ Cấu tứ quen thuộc. ­ Giọng điệu. Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc  của nhà thơ Tố Hữu. Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một  trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc. GS  Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công  chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế  tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu  đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân  tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy  được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc  trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của ông: Việt Bắc. Bài thơ là  khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca  mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa,  đạo lý thuỷ chung của dân tộc.   Giải thích khái niệm : tính dân tộc… Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác  văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô  2
  3. tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với  truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ  nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ dân tộc  trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này.  Về nội dung, dễ dàng nhận thấy  trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên,  của đời sống vật chất và tinh thần của xã  hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở  tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và  cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền  văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện  riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân  tộc mình.  I. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TRONG BÀI THƠ   VIỆT BẮC  1. Con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc:  1.1. Hình ảnh lãnh tụ ­ Bác Hồ:  Có thể nói, trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là người có nhiều  tác phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh  chim không mỏi, Theo Chân Bác, Ta đi tới, Việt Bắc…những tác phẩm ấy không phải  chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là tấm lòng của những người con Việt  Nam hướng về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mà qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã  thể hiện tập trung những suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình tượng Hồ Chí Minh với tất  cả lí tưởng, lẽ sống, niềm vui và những ân tình cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ trong văn  học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc hiện lên như một chủ  đề sáng tác chính trong thơ văn Việt Nam rõ ràng mà sâu sắc đến vậy.  Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân tộc. Bác  hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc  biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao.  Không những thế Bác còn là niềm tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người  trong những hoàn cảnh đen tối nhất:  Ở đâu u ám quân thù   Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi  Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó chứng tỏ  những tình cảm thiết tha của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định  cũng nói lên quan niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta,  nhân dân ta.  1.2. Hình ảnh áo chàm: Áo chàm đưa buổi phân li  Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay   Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng  rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười  lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đẩy họ  về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một quãng thời gian không phải  3
  4. là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt bùi đã trải qua giờ đây đến giây  phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào.  Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta  thấy được tính cách dân tộc của người Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất  giàu tình cảm. Tình cảm đã làm cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng  bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này  có cội rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh  cách mạng. Người dân Việt Nam mang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh  đất nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc  đắng cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”:    Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình thuỷ  chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian khổ, tình cảm  ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách mạng, luôn gắn bó  với quê hương đất nước. Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời  sống rất đời thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi:  Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều  Chày đêm nện cối đều đều suối xa.  Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ đô  Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc, chiếc  nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại giữa mình  với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt hòa quyện. Mở  đầu bài thơ là câu hỏi:  Mình về mình có nhớ ta   Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.   Mình về mình có nhớ không   Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?   Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất  phát từ cái nôi cách mạng.   Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai  hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ:  Mình đi, có nhớ những nhà   Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son “Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm lòng của  họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng cháy lưng” vẫn  đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó là hình ảnh của những  con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với hình ảnh thiên nhiên:  Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi   Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.   Ngày xuân mơ nở trắng rừng   Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang   Ve kêu rừng phách đổ vàng   Nhớ cô em gái hái măng một mình   Rừng thu trăng rọi hòa bình   Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.   4
  5. Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc  thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái  Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không  gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao  động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng.  1.3. Hình ảnh chiến sĩ cách mạng : Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly  cũng đầy tâm trạng:  ­ Tiếng ai tha thiết bên cồn   Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi   Áo chàm đưa buổi phân li   Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay   Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia  tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao tình cảm, như  muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời. Tấm lòng của họ luôn  thủy chung, son sắt:  ­ Ta với mình, mình với ta   Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh   Mình đi, mình lại nhớ mình   Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”, “rừng nứa  bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ nhiều vất vả  “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người  chiến sĩ cách mạng vẫn:  Nhớ sao ngày tháng cơ quan   Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.   Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính  là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông gai  của cuộc đời.  Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận  chiến, đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng:  Những đường Việt Bắc của ta   Ðêm đêm rầm rập như là đất rung   Quân đi điệp điệp trùng trùng   Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan   Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so sánh đã  gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí thế chiến đấu  thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế lực nào có thể ngăn  cản được.Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức không nhỏ của hàng chục  vạn anh chị dân công: Dân công đỏ đuốc từng đoàn   Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.   Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi tỉnh  khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày đường,  5
  6. qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được lương thực  đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về giao thông tiếp  vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao nổi, ước lường làm  sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân dân ta đã cung ứng cho  chiến trường Tây Bắc.   Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người  Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt  Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và  cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu.   2. Phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam: Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng  lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh  hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt  Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc:  Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi   Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.   Ngày xuân mơ nở trắng rừng   Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang   Ve kêu rừng phách đổ vàng   Nhớ cô em gái hái măng một mình   Rừng thu trăng rọi hòa bình   Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.   Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp của  con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu tình. Một bông  hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh bạt ngàn xua tan đi cái  lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài  thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con  người miệt mài với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ  mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con  người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui  và hạnh phúc. Ánh trăng hòa quyện trong tiếng hát của con người.   Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất nhiều địa  danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ của cuộc kháng  chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất nước:  Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? …  Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy…  Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng   Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng   Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà   Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi:  Tin vui chiến thắng trăm miềm   Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về   Vui từ Ðồng Tháp, An Khê   6
  7. Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.   Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước  giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc  nghiệt: Mình đi, có nhớ những ngày  ưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù II. TÍNH DÂN TỘC TRÊN PHƯƠNG DIỆN PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN   TRONG BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU  Nếu xét về hình thức nghệ thuật thì tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu  được thể hiện ở những nét chính sau đây: ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà  tính dân tộc.Lối cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc được vận dụng  nhuần nhuyễn và sáng tạo.  1. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể  hiện một cách đặc sắc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đó là ông đã vận dụng một  cách nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” của ca dao xưa. Ở bài  thơ Việt Bắc các cặp đại từ “mình, ta” được sử dụng một cách hết sức sinh động và linh  hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Cách xưng hô “mình, ta” trong lời đối đáp vốn là  cách xưng hô của những  đôi bạn tình trong ca dao tình yêu:  Mình về mình có nhớ ta  Ta về ta nhớ hàm răng mình cười   Ở đây người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến đã coi nhau như những người  bạn tình, người bạn đời từng gắn bó tri kỷ suốt mười lăm năm thiết tha sâu nặng. Vì thế  nhà thơ đã để cho họ xưng hô là “mình” với “ta” rất ngọt ngào thắm thiết. Trong bài thơ  đã có một sự chuyển hoá giữa hai nhân vật trữ tình Mình – Ta và có sự sáng tạo của nhà  thơ trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống khi sử dụng hai đại từ này:  Mình về mình có nhớ ta   Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng  Mình về mình có nhớ không  Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?  Nhưng ở những câu hỏi dồn dập tiếp theo, có một câu hỏi đọng lại nhiều băn khoăn, day  dứt mà cũng rất nặng nghĩa nặng tình:  Mình đi, mình có nhớ mình  Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Tố Hữu đã thêm hương sắc cho từ “mình” của ca dao, “mình” và “ta” tuy hai là một.  Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng  chiến, giữa nhà thơ với chiến khu cách mạng. Phải chăng đây cũng chính là sự phân thân  của chủ thể trữ tình là nhà thơ đang đắm mình trong dòng hoài niệm thiết tha:  ­ Ta với mình, mình với ta  Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh  7
  8. Mình đi , mình lại nhớ mình  Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.   Mượn cách xưng hô “mình – ta” của ca dao xưa Tố Hữu đã đem lại cho bài thơ  Việt Bắc một vẻ đẹp riêng khiến cho bài thơ vừa dồi dào sắc thái trữ tình đời thường với  những lời dặn dò, nhắn nhủ hứa hẹn, thề nguyền rất riêng tư, lại vừa đậm đà sắc thái  dân tộc, đồng thời diễn đạt được một tình yêu rộng lớn sâu sắc, mang tính khái quát,  mang yếu tố trữ tình sử thi. Đó là tiếng nói của tình yêu nước.    Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vận dụng một cách nhuần nhị và tài tình  cách nói tu từ phong phú, tế nhị mà giàu sức biểu đạt của ca dao dân ca xưa. Ngoài việc  vận dụng đại từ nhân xưng trong ca dao ông còn trở về với cội nguồn dân gian của dân  tộc bằng cách mượn ý những câu ca dao, tục ngữ hay sáng tạo những câu thơ theo hơi  hướng ca dao. Câu thơ: “Mình về mình có nhớ không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ  nguồn?” lấy ý từ câu tục ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”. Thơ ca dân gian hay  viết về nỗi nhớ nhung, Việt Bắc của Tố Hữu cũng vậy:   Nhớ gì như nhớ người yêu   Nhớ từng bản khói cùng sương…  Nhớ từng rừng nứa bờ tre…  Nhớ người mẹ nắng cháy lưng…  Nhớ những cảnh quân đi điệp điệp trùng trùng, nhớ một buổi họp Trung ương, lớp  học i tờ, một vầng trăng thu…Đó là tất cả những kỉ niệm đáng nhớ trong kháng chiến nên  nó có gì đó gần gũi với nỗi nhớ da diết đến cháy lòng.  Nhớ nhung là một trạng thái tình cảm thường xảy ra mà ai cũng có thể bắt gặp.  Trong bài thơ Việt Bắc, nỗi nhớ đa dạng, bát ngát, mênh mông. Nó cụ thể mà bao quát,  gần gũi mà thiêng liêng, tha thiết mà không bi lụy. Những câu thơ nhắc đến những địa  danh của đất nước cũng gợi ta nhớ đến những câu thơ trong ca dao.   Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ngôn ngữ trong thơ Tố Hữu là ngôn ngữ giản dị đời  thường gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta. Không có những điển tích,  điển cố những sáo ngữ, tất cả cứ như từ cuộc sống ào ạt vào trang thơ mà  “thơ” đến lạ kì:  Thương nhau, chia củ sắn lùi   Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng   Nhớ người mẹ nắng cháy lưng   Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô   Nhớ sao lớp học i tờ   Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan   Những củ sắn lùi, bắp ngô, bát cơm, chăn sui…những điều bình thường giản dị  thậm chí “xoàng xĩnh” của cuộc sống tưởng rằng không bao giờ được đem vào thơ nhưng  vẫn được Tố Hữu lựa chọn. Như vậy, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong bài thơ Việt Bắc  nói riêng và trong thơ Tố Hữu nói chung là ngôn ngữ của dân tộc được bắt nguồn từ cội  nguồn văn học dân gian Việt Nam và từ cuộc sống đời thường. Thế nên, nó dễ làm  rung động trái tim con người bởi đó là ngôn ngữ của dân tộc, tiếng Việt của người Việt  Nam.   8
  9. 2. Thể thơ: Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một  đôi trai gái lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang  cốt cách thuần túy Việt Nam. Đơn vị cơ bản của nó là một khổ thơ (gồm hai câu, một câu  lục và một câu bát)chiếm hai dòng thơ với số tiếng (chữ) cố định mười bốn chữ có thể có  từ hai đến hàng nghìn câu thơ. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ lục bát,  mang âm điệu dịu dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát tiếng ngâm lời ru đã cất  cánh cho thơ Tố Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Tố Hữu là nhà thơ cách mạng  phát triển thơ trữ tình điệu nói trong lĩnh vực thơ chính trị công dân đưa tiếng nói thơ ca  cách mạng vào trong thơ, nâng tiếng nói tâm tình đời tư thành tiếng nói tâm tình  chính luận. Trong bài thơ tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: mình, ta để  bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác  giả chuyển tải được những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn  biệt. Những câu thơ như những lời hát ru vọng lên từ thủa ấu thơ làm người đọc mãi  không quên:  ­ Mình về mình có nhớ ta   Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.   Mình về mình có nhớ không   Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? … 3. Nhạc điệu:    Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Giáo  sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của  tiếng Việt một cách hết sức tài tình.”Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là sự  ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối  đối đáp ân tình. Chất nhạc ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Một nhà thơ  giàu từ ngữ và am tường sâu sắc luật thơ.  Có thể nói rằng nhạc điệu là yếu tố đi liền với  ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Tố Hữu có một hơi thơ  dân tộc trong âm điệu”. Có được điều ấy bởi lẽ Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài trong việc  phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên  một ngôn ngữ thơ rất giàu nhạc điệu, có thể chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện được  tâm hồn dân tộc qua từng giai đoạn cách mạng.  Nhưng nhạc điệu trong thơ Tố Hữu là  nhạc điệu sống mãi với lòng người, làm rung động cả trái tim và khối óc người nghe.  “Điệu dân tộc Tố Hữu đã biết đặt quả tim dân tộc sau âm thanh là có cả một tâm hồn” –  Xuân Diệu. Chính vì vậy mà nhạc điệu trong thơ Tố Hữu mãi ngân nga trong lòng tâm  hồn tác giả. Bởi “Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô  khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng không khéo lại  nông cạn”  Việt Bắc là điệp khúc của nỗi nhớ:  ­ Mình đi, có nhớ những ngày   Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù   Mình về, có nhớ chiến khu   Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?   Mình về, rừng núi nhớ ai   9
  10. Trám bùi để rụng, măng mai để già   Mình đi, có nhớ những nhà   Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son   Mình về, còn nhớ núi non   Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh   Mình đi, mình có nhớ mình   Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?   Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm  sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục  bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao  trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi  hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của  ngôn từ. “Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù; Miếng cơm / mối thù; Trám / măng;  Hắt / son; Nhớ / mình; Tân / đa”. Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ  nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối  xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể  tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:  Mình đi mình có nhớ mình  Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa    Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố  Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã  rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ  người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng  là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong  câu thơ trả lời khẳng định sắt son.  Mình đi mình lại nhớ mình  Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu   Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. “mình” vừa là bản thân  vừa là ta, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân  xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến Việt Bắc cất lên như tiếng lòng  đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi. Như vậy, biệt tài của Tố Hữu là ru  người trong nhạc, đánh thức con người bằng ý thơ và chế biến ý tưởng cách mạng thành  thức ăn của tâm hồn.   4. Hình ảnh thơ:    Đến với thơ Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống dân  tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân.Nhà thơ Chế Lan Viên đã  từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”. Bút pháp quần  chúng ấy đã góp phần làm nên sắc thái dân tộc đậm đà trong thời Tố Hữu. Đó là hình ảnh  trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đầu núi, bếp lửa nhà sàn…hết sức nồng ấm và luôn ăn  sâu trong tâm khảm của con người Việt Nam:  Mình về rừng núi nhớ ai  Trám bùi để rụng, măng mai để già  10
  11. Mình đi có nhớ những nhà  Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…  Nhớ gì như nhớ người yêu  Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương  Nhớ từng bản khói cùng sương  Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Có lẽ trước đó trong thơ Việt Nam, những hình ảnh hết sức quen thuộc với cuộc  sống hằng ngày, tưởng như chẳng có gì đáng nói, lại đi vào thơ nhiều như vậy. Tất cả đã  ùa vào thơ Tố Hữu một cách tự nhiên thoải mái để tạo nên một không khí dân tộc đậm  đà. Và điều đáng nói hơn là dưới ngòi bút miêu tả tài tình của nhà thơ, chúng đã trở thành  những hình tượng thơ sinh động, giàu xúc cảm đem đến cho người đọc những xúc cảm  sâu xa. Thơ Tố Hữu là thơ viết cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần chúng”  trong thơ ông không chỉ vì những hình ảnh ấy quen thuộc, dễ hiểu, giản dị mà còn vì nó  rất giàu sức biểu cảm cho nên dễ lắng sâu và lưu lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc.  Targo từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình  trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa đã làm một cách rất xuất sắc.  Trên những trang thơ của ông mà tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc là hình ảnh của thiên  nhiên, con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, thủy chung son sắt dù trải bao  khó khăn gian khổ vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Những con người Việt Nam  hồn hậu, hiền lành nhưng rát anh dũng trong chiến đấu. Đó là hình ảnh đất nước Việt  Nam tươi đẹp với núi, với sông với những tên đất, tên miền mang hồn thiêng của dân tộc  nhưng cũng khắc nghiệt, chứa đầy bao hiểm nguy. Đọc Việt Bắc, ta có cảm giác như  được nghe những lời ru từ thủa nhỏ của bà của mẹ bởi nhịp thơ lục bát uyển chuyển,  mềm mại. Bởi ngôn ngữ bắt rễ từ văn học dân . Bởi những hình ảnh thơ gần gũi, thân  thương nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Tố Hữu thực sự đã mang hồn thiêng núi sông, tâm  hồn dân tộc lên những lời thơ Việt Bắc. Bài thơ xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của  nền văn học Việt Nam. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2