TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 15 (5/2019) tr 57 - 63<br />
<br />
TÌNH HÌNH THƯƠNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA<br />
THỜI PHÁP THUỘC (1895 - 1945)<br />
Tống Thanh Bình<br />
Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
Tóm tắt: Thời Pháp thuộc thương nghiệp tỉnh Sơn La phát triển khá chậm chạp. Trên cơ sở nghiên cứu về<br />
các vấn đề: hệ thống các tuyến đường buôn bán, cơ cấu hàng hóa, các loại hình chợ và lực lượng tham gia buôn<br />
bán, tác giả đưa ra những nhận xét về thương nghiệp ở Sơn La dưới sự cai trị của người Pháp (1895 - 1945).<br />
<br />
Từ khóa: Thương nghiệp Sơn La, thời Pháp thuộc, 1895-1945.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
<br />
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế XX, Sơn La là một tỉnh cách biệt với vùng đồng bằng, kinh<br />
tế trì trệ, đời sống nhân dân lạc hậu. Người Pháp ở Sơn La trong nửa đầu thế kỷ chủ yếu phục<br />
vụ mục đích cai trị, kiểm soát vùng phía Tây Bắc Việt Nam nên không chú ý nhiều đến hoạt<br />
động kinh tế. Tuy nhiên, không thể phủ nhận một số yếu tố mới xuất hiện thời điểm này. Dựa<br />
trên nguồn tài liệu lưu trữ bằng tiếng Pháp và kế thừa các kết quả nghiên cứu trước, bài viết sẽ<br />
trình bày về tình hình thương nghiệp tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc, gồm: hệ thống các tuyến<br />
đường buôn bán, cơ cấu hàng hóa, các loại hình chợ và lực lượng tham gia buôn bán ở Sơn<br />
La. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét về thương nghiệp Sơn La thời kỳ này.<br />
<br />
2. Nội dung<br />
<br />
2.2. Các tuyến đường giao thương<br />
<br />
Để phục vụ việc kiểm soát vùng Tây Bắc và các hoạt động trao đổi, thông thương giữa<br />
đồng bằng và miền núi, một trong những lĩnh vực được thực dân Pháp đầu tư xây dựng chính<br />
là hệ thống đường bộ. Thời phong kiến, việc đi lại trong và ngoài tỉnh hết sức khó khăn,<br />
người dân chủ yếu đi bằng đường thủy theo hệ thống sông Đà rất nguy hiểm vì mưa lũ và<br />
nhiều thác ghềnh, bên cạnh đó, hệ thống đường bộ chủ yếu là đường mòn, bám theo địa hình<br />
đồi dốc hiểm trở. Vì thế, vùng đất Tây Bắc càng trở nên cách biệt với vùng đồng bằng Bắc<br />
Bộ, việc giao lưu, thông thương giữa các địa phương trong tỉnh và với các vùng miền khác<br />
đặc biệt khó khăn. Người Pháp khi tới Sơn La đã thấy những bất cập trong giao thông khiến<br />
họ gặp khó khăn trong việc cai trị nên đã chú trọng cải thiện tình trạng này. Tuy nhiên, dựa<br />
vào những ghi chép sơ bộ của Pháp về số tiền đầu tư và tiến độ thi công hệ thống đường bộ<br />
liên tỉnh và nội tỉnh của Sơn La, có thể thấy mức độ đầu tư về giao thông ở tỉnh Sơn La so với<br />
các tỉnh thành trên cả nước rất hạn chế, chất lượng đường thấp. Mặc dù vậy, trong gần nửa thế<br />
kỷ bằng việc sử dụng chủ yếu nhân công địa phương và những phương tiện thi công khá thô<br />
<br />
Ngày nhận bài: 28/10/2018. Ngày nhận đăng: 5/12/2018<br />
Liên lạc: Tống Thanh Bình; e-mail: tongbinhnwuni@gmail.com<br />
57<br />
sơ, một hệ thống các tuyến đường bộ phục vụ hoạt động thông thương đã được hình thành.<br />
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả, hệ thống đường bộ gồm có:<br />
- Tuyến đường từ cảng Tạ Bú (Mường La - Sơn La) ra Sơn La tới Thuận Châu, Điện<br />
Biên, Phong Sa Lỳ (Lào).<br />
- Tuyến từ Thuận Châu đi Điện Biên tới Luông Pha Băng (Lào) và ngược lại.<br />
- Tuyến từ Trung Quốc về Lào Cai, Lai Châu đến Sơn La và ngược lại: chủ yếu buôn<br />
bán quế và thuốc phiện lậu theo con đường này.<br />
- Tuyến Suối Rút - Sơn La - Tuần Giáo, vào mùa mưa hàng hóa sẽ được chuyển theo<br />
đường từ Yên Bái đến Nghĩa Lộ, Ngọc Triến (Mường La) sau đó theo đường Tạ Bú - Sơn La.<br />
- Tuyến Sơn La - Yên Bái: chủ yếu do những người Thái tập hợp nhau thành nhóm<br />
buôn bán nhỏ đi mua sắm những đồ dùng nhu yếu cho cả bản.<br />
- Tuyến Hủa Phăn, Trấn Ninh, Viêng Chăn, Luông Pha Băng qua Sơn La để mua bò<br />
từ Lào về mang xuống vùng đồng bằng Bắc Kỳ buôn bán gia súc [10,15,16,17,18,19].<br />
Về phương tiện giao thông đường bộ: Do hệ thống đường sá được mở ở Sơn La với<br />
tiến độ chậm nên việc vận chuyển hàng hóa vẫn chủ yếu sử dụng hệ thống xe kéo, hoặc sử<br />
dụng gia súc thồ hàng, thậm chí dùng sức người. Giữa những năm 1930, số lượt xe chạy trên<br />
địa bàn tỉnh Sơn La chỉ một vài chiếc trên một ngày, chủ yếu là loại xe trọng tải từ 1 đến 3<br />
tấn, chủ yếu phục vụ hoạt động của Tòa Công sứ. Người dân vẫn sử dụng các phương tiện<br />
truyền thống như xe bò, xe kéo, đi bộ…<br />
Trong suốt thời Pháp thuộc, đường thủy nối Hà Nội - Sơn La - Lai Châu qua hệ thống<br />
sông Đà được chú trọng khai thác, sử dụng. Hàng hóa sau khi chuyển từ Hà Nội tới Hòa Bình,<br />
được tập kết tại cảng Chợ Bờ, sau đó vận chuyển tới Sơn La qua các cảng như: Suối Rút, Vạn<br />
Yên, Tạ Khoa, Tạ Chan, Vạn Bú (Tạ Bú). Hạn chế của loại hình giao thông này là sự lệ thuộc<br />
vào thời tiết và dòng chảy: con sông kháng cự toàn bộ hoạt động giao thông trong suốt 6<br />
tháng mỗi năm (từ tháng 5 đến tháng 10). Hoạt động thương mại chủ yếu diễn ra trong các<br />
tháng mùa khô khi mực nước xuống thấp. Sông Đà nổi tiếng là con sông hung dữ nhất vùng<br />
Tây Bắc, đặc biệt đoạn chảy qua Sơn La. Để vận chuyển hàng hóa, bưu kiện, phương tiện vận<br />
chuyển giai đoạn đầu chủ yếu bằng thuyền độc mộc, có trọng tải vận chuyển chưa đầy một<br />
tấn, “mỗi thuyền chở được trọng tải 900 kilo. Vì vậy mà chỉ trong 6 tháng hơn 140 tấn hàng<br />
được vận chuyển từ Chợ Bờ đến Tạ Bú” [6]. Đến năm 1917, một phương tiện vận tải mới<br />
xuất hiện là các Sà lúp (Chaloupe) nhưng chủ yếu chuyển hàng từ Chợ Bờ tới Vạn Yên (Phù<br />
Yên), đoạn đường còn lại tới Sơn La vẫn sử dụng thuyền độc mộc. Trong nhiều năm số lượng<br />
lượt thuyền xuôi ngược Sơn La - Chợ Bờ không có nhiều đột biến, khoảng 1.000 lượt thuyền<br />
một năm.<br />
Việc vận chuyển hàng hóa Sơn La - Hà Nội và theo chiều ngược lại chủ yếu diễn ra từ<br />
tháng 11 đến tháng 6 hàng năm. Trong thập kỷ đầu thế kỷ XX, việc thống kê vận chuyển hàng<br />
hóa khá đầy đủ. Số liệu cho thấy, số thuyền chở hàng từ Hà Nội tới Sơn La theo 2 chiều đi, về<br />
cơ bản tương đương nhau. Số lượt thuyền từ Vạn Bú tới Chợ Bờ theo chiều hướng tăng dần<br />
như bảng thống kê.<br />
58<br />
Bảng 1. Số lượt thuyền buôn trên tuyến đường thủy sông Đà<br />
<br />
Lai Châu qua Đồng bằng lên<br />
Thời gian Tổng<br />
Vạn Bú Vạn Bú<br />
1899 - - 100<br />
2,3/1901 61 35 96<br />
4,5/1901 71 74 145<br />
2,3/1902 85 64 149<br />
4,5/1902 137 161 298<br />
4,5/1903 240 150 390<br />
5,6/1903 120 156 267<br />
2,3/1902 85 64 149<br />
2 tháng 1903 104 107 211<br />
7,8/1904 16 24 40<br />
1, 2/1905 127 184 311<br />
3,4/1905 288 244 532<br />
5,6/1905 441 43 484<br />
1905 - - Hơn 800<br />
7,8/1906 - - 358<br />
1,2/1907 - - 368<br />
5,6/1907 - - Hơn 700<br />
7,8/1907 - - 108<br />
10/1907 - - 224<br />
<br />
Nguồn: [10,11,12,13,14,15,16]<br />
Nếu tính theo số liệu năm 1907 [4,tr.533-534], tổng số thuyền chở hàng là 1.400 lượt,<br />
tổng số hàng hóa vận chuyển là 1.260.000 kg với số dân là 26.000 người, trung bình mỗi<br />
người dân chỉ được 4 kg hàng hóa trao đổi mỗi tháng, chưa tính số hàng đó còn vận chuyển<br />
tới những nơi khác, cho thấy sức mua ở Sơn La rất hạn chế. Từ năm 1920 đến năm 1929,<br />
chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết số thuyền lưu chuyển trên sông Đà. Trong giai<br />
đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, các báo cáo kinh tế đều đề cập đến tình trạng nền thương<br />
mại của Tỉnh bị ảnh hưởng trầm trọng và kéo dài tới năm 1936 nên càng về sau, hoạt động<br />
buôn bán bằng đường thủy càng giảm sút, một phần vì hệ thống đường bộ đã được đầu tư<br />
trong khoảng thời gian đó tạo thuận lợi cho việc thông thương.<br />
2.2. Cơ cấu hàng hóa<br />
Hàng xuất về đồng bằng chủ yếu là nông sản, lâm thổ sản, hàng thủ công: thóc, gạo,<br />
bông, chè, củ nâu, cánh kiến, gia súc, gia cầm, sừng hươu, da trâu, ngà voi… Trong đó, trâu,<br />
bò, ngựa, lợn, gia cầm là những mặt hàng thế mạnh của Sơn La. Việc bán gia súc, gia cầm<br />
được diễn ra khá thường xuyên trừ khi điều kiện thời tiết, dịch bệnh cản trở. Sơn La có nhập<br />
một số trâu, bò, ngựa từ Vân Nam và Lào về, đồng thời xuất về miền xuôi, chủ yếu theo<br />
đường sông và đường bộ. Nửa đầu thế kỷ XX, Sơn La đã là một trong những đầu mối quan<br />
<br />
59<br />
trọng cung cấp gia súc lớn cho Bắc Kỳ với số lượng cung cấp từ hàng trăm đến hàng nghìn<br />
gia súc hàng năm. Sản phẩm lâm thổ sản chủ yếu gồm: củ nâu, đậu khấu, cây sơn, cánh kiến,<br />
sa nhân, sáp ong, mật ong, an tức hương, các loại sừng, hành, mây song… Cánh kiến là một<br />
trong những mặt hàng có số lượng xuất khẩu cao nhất của tỉnh Sơn La giai đoạn này. “Theo<br />
các báo cáo từ các châu thì sản xuất được 25 tấn cánh kiến trắng,… trung tâm tiêu thụ loại<br />
hàng này sôi nổi nhất đó là Tạ Khoa bên sông Đà nơi mà cánh kiến được mang đến từ Sông<br />
Mã (Lào, Bắc Kỳ). Giá bán ở Sơn La là xấp xỉ 40ᵮ/1 picul2. Đây là một giá cao… ” [6]. Thóc,<br />
gạo năng suất không ổn định nên sản lượng thóc gạo bán ra hoặc nhập về biến động từng<br />
năm. Hầu như, sản lượng thóc gạo chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ, việc xuất khẩu gạo chỉ diễn<br />
ra ở châu Phù Yên, còn các châu khác hầu như không có năm nào có gạo xuất khẩu.<br />
Hàng nhập từ đồng bằng gồm muối, dao, bát đĩa, thuốc lào, dầu hỏa, chiếu, quần áo,<br />
nồi đồng, rìu, chậu thau, diêm, đồ gốm, chậu, vải các loại, thuốc lá, đèn, chăn, quạt, bút mực,<br />
đường, sữa, mũ nón, nước mắm, gạo, xà phòng, ô, nến - hầu hết là hàng tiêu dùng và nhiên<br />
liệu thắp sáng.<br />
Vì việc vận chuyển hàng hóa khó khăn, lực lượng người Kinh, người Hoa lại cố tình<br />
đẩy giá bán cao kiếm lời nên giá cả ở Sơn La thường cao hơn mặt bằng chung các tỉnh đồng<br />
bằng, đặc biệt là hàng hóa nhập từ đồng bằng về. Giá những mặt hàng được sản xuất tại địa<br />
phương khá ổn định và thấp hơn so với ở đồng bằng, giá những mặt hàng nhập về thường cao<br />
hơn nhiều so với miền xuôi.<br />
2.3. Các loại hình chợ và lực lượng tham gia buôn bán<br />
Chợ, hội chợ, triển lãm là những nhân tố mới mẻ, tích cực đối với thương nghiệp tỉnh<br />
Sơn La thời kỳ này. Chợ tỉnh lỵ có tên là chợ Chiềng Lề nằm ở trung tâm tỉnh lỵ Sơn La, họp<br />
vào tất cả các ngày trong tuần. Từ cuối thế kỷ XIX, nơi đây đã có một số người Hoa đến sinh<br />
sống và làm nghề buôn bán hàng xén, bốc thuốc Bắc, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, ngoài ra<br />
còn có một số gia đình người Kinh làm công chức hoặc buôn bán và xung quanh là các gia<br />
đình người Thái. Khu vực này càng trở nên đông đúc khi thực dân Pháp chuyển tỉnh lỵ từ Vạn<br />
Bú ra Sơn La, khiến hoạt động chợ Chiềng Lề càng thêm tấp nập. Chợ Chiềng Lề được mô tả<br />
như sau: “Phố Chiềng Lề địa giới hẹp, giữ vị trí của một thị trấn, nằm gọn giữa chân đồi<br />
Khau Cả... Hai dãy phố không dài, có chợ Chiềng Lề họp trong ngôi nhà xây gạch, lợp ngói<br />
khá rộng, là trung tâm buôn bán của tỉnh lỵ” [3, tr.20-24]. Ngoài việc sử dụng tiền trong trao<br />
đổi buôn bán, ở nhiều nơi trong tỉnh, người dân vẫn duy trì thói quen trao đổi truyền thống<br />
ngang giá “vật đổi vật”.<br />
Chợ phiên Tạ Khoa là chợ mới được thành lập thời kỳ này. Với mục đích là nâng cao<br />
tầm quan trọng của các giao dịch buôn bán trong vùng, thu hút các thương nhân vùng đồng<br />
bằng và quảng bá các nguồn lực và tiềm năng của tỉnh, chợ Tạ Khoa bên bờ sông Đà được mở<br />
vào giữa tháng 1. “Chợ Tạ Khoa được thành lập vào ngày 01/01/1918 đã đạt nhiều kết quả,<br />
người Thái đến đây bán hàng rất đông và các lái buôn bán sạch hàng trong những ngày đầu<br />
tiên” [7].<br />
So với các tỉnh thành khác, chợ gia súc (chợ trâu bò) được thành lập muộn ở Sơn La.<br />
<br />
<br />
2<br />
ᵮ: đồng FranÇ, đơn vị tiền tệ cũ của Pháp.<br />
60<br />
Nhằm tổ chức lại hệ thống chợ gia súc ở Bắc Kỳ, năm 1934, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra nghị định<br />
số 10 - AG về việc sáp nhập hoặc lập mới chợ gia súc ở một số tỉnh. Phải đến năm 1939,<br />
“Một chợ mua bán trâu bò được thành lập ở Sơn La theo Nghị định ngày 24/8/1939. Có thể<br />
biện pháp này sẽ cho phép kìm hãm lại việc xuất bán các gia súc, tạo nên một phong trào mua<br />
bán trong địa bàn nội hạt tỉnh” [5]. Việc hình thành một chợ gia súc ở Sơn La là cần thiết vừa<br />
là điểm dừng chân hợp lý cho các đoàn buôn di chuyển từ Trung Quốc, Lào về vừa góp phần<br />
cân đối giữa việc chăn nuôi và xuất khẩu trâu bò của tỉnh.<br />
Hội chợ, triển lãm cũng lần đầu tiên được người dân Sơn La biết đến trong thời Pháp<br />
thuộc. Tỉnh Sơn La đã tham gia hội chợ vào các năm 1928 và 1936 được tổ chức ở Hà Nội<br />
với sản phẩm là bộ sưu tập hàng thêu của các dân tộc ở Sơn La. Cuối năm 1936 đầu năm<br />
1937, tỉnh Sơn La tiếp tục tham gia Hội chợ lần thứ 13 ở Hà Nội. Để khuyến khích hoạt động<br />
chăn nuôi gia súc của tỉnh, chính quyền thực dân đã lên kế hoạch tổ chức Hội chợ Gia súc ở<br />
tỉnh năm 1929 song phải hoãn lại do dịch hạch ở bò đã ảnh hưởng tới các đàn gia súc. Tháng<br />
11/ 1938, Hội chợ gia súc sản phẩm địa phương ở Mộc Châu (Sơn La) đã được tổ chức trong<br />
2 ngày thu hút được đông đảo người dân tham gia.<br />
Thương nhân, thương hội ở Sơn La cũng có nhiều điểm khác biệt với vùng đồng bằng,<br />
chỉ có người Hoa, người Kinh tham gia buôn bán chính mà không có người Âu, còn người<br />
dân tộc ở đây không quen với hoạt động buôn bán dù đã được Tòa Công sứ cho làm quen qua<br />
một số hoạt động.<br />
Thuế môn bài của tỉnh phản ánh phần nào thực trạng của hoạt động kinh doanh và<br />
thương nghiệp địa phương. Năm 1937, số thuế môn bài thu được ở Sơn La là 2.429,71 đồng<br />
Đông Dương [9], cao hơn so với năm 1922 (1.192,71 đồng) và năm 1931 (1.970,71 đồng).<br />
Trong khi tỉnh có số thuế môn bài cao nhất Bắc Kỳ là Hà Nội, đạt 210.073 đồng năm 1922 và<br />
362.000 đồng năm 1931 [2, tr.46]. Điều đó phản ánh phần nào vị trí thấp kém của thương<br />
nghiệp Sơn La so với các tỉnh khác của Bắc Kỳ.<br />
Cuối thế kỷ XIX, Bắc Kỳ nói chung, Sơn La nói riêng tồn tại một số loại tiền: tiền<br />
Việt Nam do triều Nguyễn phát hành, tiền của Trung Quốc, đồng FranÇ của Pháp3… tạo nên<br />
một sự rối loạn về tiền tệ. Năm 1875, Ngân hàng Đông Dương được thành lập đã cho phát<br />
hành đồng Đông Dương (Piastre viết tắt là P)4 và thu dần các đồng tiền khác không cho lưu<br />
hành. Ở Sơn La, năm 1934, khi chính quyền thu hồi đồng bạc Đông Dương bằng kim loại cũ,<br />
người Thái tỏ ra lạnh nhạt và tẩy chay quyết liệt đối với loại tiền giấy mới. Lý do của tình<br />
trạng này chính là “việc lưu hành rất nhiều tiền giả được sản xuất khéo léo tới mức rất khó<br />
nhận biết”, vì thế, để tránh phải lấy tiền giả, người Thái chấp nhận đổi tiền giấy lấy tiền kim<br />
loại mệnh giá nhỏ hơn.Trong các giao dịch, người Thái thường xuyên từ chối tiền giấy và<br />
chấp nhận đồng FranÇ đã bị thu hồi với chiết khấu ở mức 0$60 [20]. Hiện tượng đó khiến<br />
Công sứ tỉnh Sơn La buộc phải rút toàn bộ tiền giấy ra khỏi công quỹ tỉnh gửi lại kho bạc.<br />
Dân chúng vẫn cất giấu một lượng lớn tiền kim loại, ước tính khoảng 100.000 đến 400.000<br />
<br />
<br />
3<br />
Đồng FranÇ: đơn vị tiền tệ cũ của Pháp.<br />
4<br />
Đồng Piastre (còn gọi là đồng Đông Dương): đơn vị tiền tệ Pháp phát hành và lưu thông tại Đông<br />
Dương thời Pháp thuộc.<br />
61<br />
đồng [20]. Phản ứng đó phần nào thể hiện sự cô lập của Sơn La trong hệ thống thương mại<br />
của Bắc Kỳ.<br />
3. Kết luận<br />
Từ những phân tích trên, đặt thương mại Sơn La trong sự đối sánh với các tỉnh thành<br />
có thể thấy, Sơn La nằm trong tình trạng chung của thương mại các tỉnh Tây Bắc nền thương<br />
nghiệp vô cùng yếu kém. Trong khi một số tỉnh miền núi Đông Bắc có hệ thống đường sá<br />
thuận lợi hơn, lại có đường biên giới giáp Trung Quốc đã khiến hoạt động thương mại tại đây<br />
tấp nập và xã hội có nhiều chuyển biến. Thương nghiệp không phát triển khiến các hoạt động<br />
sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp không được chú trọng, đời sống nhân dân<br />
vô cùng khó khăn, Sơn La vẫn là một tỉnh nghèo cách biệt với đồng bằng, kéo theo nhiều hệ<br />
lụy về văn hóa, xã hội. Vì thế, việc cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách phục<br />
vụ phát triển giao thương đã trở thành mục tiêu hàng đầu của Nhà nước để thúc đẩy kinh tế,<br />
xã hội các tỉnh miền núi trong những giai đoạn sau.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Tống Thanh Bình (2017), Giao thông tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc, Tuyển tập các bài<br />
báo khoa học “Các vấn đề hiện đại trong khoa học và giáo dục: Truyền thống và đổi<br />
mới”, Trường ĐH Sư phạm Quốc gia Kazakhstan, 3/2017, ISBN 978-601-298-581-8.<br />
[2] Vũ Thị Minh Hương (2002), Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919 - 1939, Luận án Tiến sĩ<br />
Lịch sử, Viện Sử học.<br />
[3] Nguyễn Thanh Nhàn (2016), Phố Chợ Chiềng Lề, Bản tin Xưa và nay Sơn La, số 8.<br />
Niên giám hành chính, thương mại và kĩ nghệ, TTLTQG I, Hà Nội. kí hiệu S 189, tr.<br />
533 -534.<br />
[4] Rapport économique de la province de Son La de 1940, hồ sơ số 74297. RST, TTLTQG<br />
I, Hà Nội.<br />
[5] Rapports économiques des provinces du Tonkin: Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai<br />
Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yenbay 1920 - 1922, hồ sơ số 72587 – 04. RST,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[6] Rapports économiques du 1er semestre 1919 des provinces du Tonkin : Ha Dong, Ha<br />
Nam, Hai Duong, Hoa Binh, Hung Yen, Lai Chau, Nam Dinh, Phuc Yen, Phu Tho,<br />
Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Yenbay. 1919, hồ sơ số 72586-<br />
6, RST, TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[7] Statistiques des concessions dans la province de Son La en 1898, hồ sơ số 543.AFC,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[8] Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces de Thai Nguyen,<br />
Tuyen Quang, Van Bu, Van Linh, Vinh Yen, Yenbay. 1902, hồ sơ số 72575 - 02. RST,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[9] Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces: Phu Lien, Phu Lo,<br />
Quang Yen, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Van Bu, Vinh Yen, Yen<br />
Bay en 1903, hồ sơ số 72470 – 03. RST, TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[10] Rapports économiques de la province de Son La. 1904-1909, Hồ sơ số 69. AFC,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
62<br />
[11] Rapports économiques et politiques et statistiques commerciales dans les provinces: Phu<br />
Lien, Phuc Yen, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh 1904 hồ sơ số 72540 - 03.<br />
RST, TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[12] Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces: Son La, Son Tay,<br />
Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yenbay en 1905, hồ sơ số 72541 -<br />
04. RST, TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[13] Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces du Tonkin : Quang<br />
Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen 1905-1906, hồ sơ số 72583-5. RST,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[14] Rapport sur la situation de la province de Van Bu 1902, hồ sơ số 74. AFC, TTLTQG I,<br />
Hà Nội.<br />
[15] Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La de Juin 1922 à<br />
Décembre 1922, hồ sơ số RST 36544 - 22. RST, TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[16] Rapport sur la situation de la province de Van Bu 1902, hồ sơ số 55027. RST, TTLTQG<br />
I, Hà Nội.<br />
[17] Rapports généraux annuels des provinces de Son La, Son Tay, Thai Binh et Thai<br />
Nguyen de 1923 à 1924 au Conseil de Gouvernement de l'Indochine (session 1924), hồ<br />
sơ số 36554-05. RST TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[18] Rapports économiques du 1er semestre 1917 des provinces du Tonkin : Bac Giang, Bac<br />
Kan, Ha Giang, Hanoi , Hai Duong, Hoa Binh, Phuc Yen, Kien An, Nam Dinh, Ninh<br />
Binh, Phuc Yen, Phu Tho, Quang Yen, Son La, Thai Binh, hồ sơ số72586. RST,<br />
TTLTQG I, Hà Nội.<br />
[19] Rapport économique de la province de Son La de 1934, hồ sơ số 74290. RST TTLTQG<br />
I, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
TRADE OF SON LA PROVINCE IN FRENCH COLONIAL TIME (1895-1945)<br />
<br />
Tong Thanh Binh<br />
Tay Bac University<br />
<br />
Abstract: During the French colonial period, the trade in Son La developed slowly. On the basis of the<br />
study on such issues as trading routes, commodity structure, types of marketplaces and traders, the authors give<br />
comments on the trade in Son La under the French rule (1895 - 1945).<br />
<br />
Key words: Son La trade, French colonial period, 1895-1945.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
63<br />