intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính sông nước của người Việt vùng Tây Nam Bộ qua tập truyện Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)

Chia sẻ: Nguyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

93
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tính sông nước được xem là một trong những tính cách văn hóa đặc trưng, điển hình nhất của tộc người Việt vùng Tây Nam Bộ. Đó là “kết tinh của toàn bộ nền văn minh sông nước, văn minh kinh rạch Tây Nam Bộ” (Trần Ngọc Thêm, 2018). Có thể nói, tính sông nước chứa đựng gần như toàn bộ hệ giá trị của con người vùng đất này, điển hình cho trình độ phát triển của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong việc khai thác thế mạnh, tận dụng và đối phó với sông nước trong suốt quá trình khai phá, định cư và sinh sống của tộc người. Những biểu hiện của tính sông nước được Nguyễn Ngọc Tư khắc họa khá rõ nét trong những trang văn của mình, tiêu biểu là tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận, cụ thể qua các phương diện như ẩm thực, nơi cư trú, giao thông, nghề nghiệp và nghệ thuật ngôn từ. Đó cũng là nét đặc trưng cơ bản trong phong cách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư – đặc trưng sông nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính sông nước của người Việt vùng Tây Nam Bộ qua tập truyện Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)

Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> TÍNH SÔNG NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG TÂY NAM BỘ QUA<br /> TẬP TRUYỆN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN (NGUYỄN NGỌC TƯ)<br /> Nguyễn Thúy Diễm*<br /> Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô<br /> (Email: nguyenthuydiem8@gmail.com)<br /> Ngày nhận: 15/03/2019<br /> Ngày phản biện: 11/4/2019<br /> Ngày duyệt đăng: 11/5/2019<br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tính sông nước được xem là một trong những tính cách văn hóa đặc trưng, điển hình nhất<br /> của tộc người Việt vùng Tây Nam Bộ. Đó là “kết tinh của toàn bộ nền văn minh sông nước,<br /> văn minh kinh rạch Tây Nam Bộ” (Trần Ngọc Thêm, 2018). Có thể nói, tính sông nước<br /> chứa đựng gần như toàn bộ hệ giá trị của con người vùng đất này, điển hình cho trình độ<br /> phát triển của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong việc khai thác thế mạnh, tận dụng<br /> và đối phó với sông nước trong suốt quá trình khai phá, định cư và sinh sống của tộc<br /> người. Những biểu hiện của tính sông nước được Nguyễn Ngọc Tư khắc họa khá rõ nét<br /> trong những trang văn của mình, tiêu biểu là tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận, cụ thể<br /> qua các phương diện như ẩm thực, nơi cư trú, giao thông, nghề nghiệp và nghệ thuật ngôn<br /> từ. Đó cũng là nét đặc trưng cơ bản trong phong cách của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư – đặc<br /> trưng sông nước.<br /> Từ khóa: Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư, Tây Nam Bộ, tính sông nước.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Trích dẫn: Nguyễn Thúy Diễm, 2019. Tính sông nước của người Việt vùng Tây Nam Bộ<br /> qua tập truyện Cánh Đồng Bất Tận (Nguyễn Ngọc Tư). Tạp chí Nghiên cứu<br /> khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 06: 169-180.<br /> *Thạc sĩ Nguyễn Thúy Diễm - Giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô<br /> <br /> 169<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU đứng đầu trong tất cả đặc trưng tính cách<br /> Vùng Tây Nam Bộ ngày nay có 13 của văn hóa người Việt ĐBSCL. Viết về<br /> tỉnh thành, hình thành trên một vùng phù đất và người châu thổ, một trong những<br /> sa ngọt lớn nhất cả nước với hệ thống nhà văn của văn học Tây Nam Bộ hiện<br /> sông ngòi, kênh rạch chằng chịt trên cơ đại là Nguyễn Ngọc Tư đã khá thành<br /> sở của hệ thống sông Cửu Long nên còn công trong việc đưa đặc trưng tính sông<br /> được gọi là vùng đồng bằng sông Cửu nước vào truyện ngắn của mình. Đánh<br /> Long (ĐBSCL). Người Việt sinh sống dấu thành công đầu tiên với tập truyện<br /> trên vùng đất này có nguồn gốc là những ngắn Ngọn đèn không tắt – giải nhất<br /> người di dân từ miền Bắc, miền Trung cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi<br /> tiến vào Nam theo chính sách khẩn 20 lần II năm 2000, đến nay Nguyễn<br /> hoang của các chúa Nguyễn thế kỉ XVII Ngọc Tư là nhà văn được độc giả mến<br /> và hầu hết là người Thuận Quảng. Nhà mộ với văn phong bình dị, dân dã, mang<br /> nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng cho đậm tính sông nước của vùng ĐBSCL<br /> rằng: “Đa số lưu dân đến Đồng Nai – (tiêu biểu là tập truyện ngắn Cánh đồng<br /> Gia Định lập nghiệp là dân Thuận bất tận). Bạn đọc ắt hẳn rất quen thuộc<br /> Quảng. Điều này đã chỉ rõ văn hóa với những mảnh đời sống lênh đênh trên<br /> Thuận – Quảng là những hạt giống đầu chiếc ghe hàng bông (vừa là “nhà” vừa<br /> tiên gieo trồng trên vùng thổ ngơi mới là nơi buôn bán), hay văn hóa nông<br /> này và chúng sẽ là cơ sở của văn hóa nghiệp lúa nước với nghề nuôi vịt chạy<br /> Tây Nam Bộ.” (Huỳnh Ngọc Trảng, đồng; nhớ hoài những món cá nấu canh<br /> 2018). Họ cư trú ở vùng đất này từ bao chua trái giác, cá sặc kho khô, canh chua<br /> đời nay và gắn bó với một mạng lưới bông súng,… gần gũi từng tên kinh, tên<br /> sông rạch dày đặc. Ngoài những dòng vàm, tên rạch. Đó chính là những biểu<br /> chảy tự nhiên, hệ thống thủy đạo vùng hiện tính sông nước của người Việt vùng<br /> châu thổ sông Mê kông còn được hoàn Tây Nam Bộ được tác giả thể hiện qua<br /> thiện dần với hàng loạt kinh đào: “Tổng tập truyện Cánh đồng bất tận.<br /> cộng vùng Tây Nam Bộ có khoảng 2.500 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> km sông rạch tự nhiên và trên 6.500 km Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Tính<br /> kinh trục và kinh cấp I, trên 36.000 km sông nước của người Việt vùng Tây<br /> kinh cấp II và cấp III” (Trần Ngọc Nam Bộ qua tập truyện Cánh đồng bất<br /> Thêm, 2018). Đây là cơ sở để hình thành tận (Nguyễn Ngọc Tư)” với phương<br /> nên tính sông nước (gọi đầy đủ hơn là pháp nghiên cứu lý thuyết, định tính, cụ<br /> tính hòa hợp cao với thiên nhiên sông thể như sau:<br /> nước) – đặc trưng tính cách văn hóa của<br /> người Việt vùng Tây Nam Bộ. Không Phương pháp phân tích và tổng hợp lí<br /> chỉ là đặc trưng điển hình, tính sông thuyết: nghiên cứu các văn bản, các tài<br /> nước còn là “đặc trưng điển hình nhất”, liệu lí luận khác nhau liên quan đến tính<br /> <br /> 170<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> sông nước của người Việt vùng Tây mức tối thiểu và đối phó mà không xung<br /> Nam Bộ và tập truyện Cánh đồng bất đột với nó.” (Trần Ngọc Thêm, 2018)<br /> tận của Nguyễn Ngọc Tư, phân tích Ý thức sống hòa hợp với tự nhiên vốn<br /> những biểu hiện của tính sông nước là một trong những đặc trưng của loại<br /> trong tập truyện, sau đó liên kết, sắp hình văn hóa gốc nông nghiệp sống phụ<br /> xếp, tổng hợp các dữ liệu thu thập và thuộc vào thiên nhiên, tuy nhiên, trong<br /> phân tích được theo những biểu hiện cụ sự hòa hợp vẫn có sự đối phó, mức độ<br /> thể của tính sông nước được thể hiện đối phó ít hay nhiều phụ thuộc vào lĩnh<br /> qua tập truyện Cánh đồng bất tận. vực tự nhiên nào và mức độ khó khăn<br /> Phương pháp phân loại và hệ thống mà lĩnh vực đó gây ra cho con người.<br /> hóa lí thuyết: phân loại các biểu hiện của Bên cạnh quá trình “chinh phục” thiên<br /> tính sông nước, các dẫn chứng của tính nhiên (động thực vật, đất đai), người<br /> sông nước trong tập truyện theo tiêu chí Việt Tây Nam Bộ còn tìm cách sống hài<br /> nhất định, sau đó sắp xếp lại theo một hệ hòa với nó một cách cơ bản và lâu dài<br /> thống logic chặt chẽ, giúp người nghiên trong suốt quá trình lịch sử tồn tại của<br /> cứu có nhận định về vấn đề tính sông mình. Có thể nói, văn hóa vùng Tây<br /> nước của người Việt vùng Tây Nam Bộ Nam Bộ có tính hài hòa ở mức độ cao<br /> qua tập truyện Cánh đồng bất tận được với thiên nhiên. Đặc biệt hơn, sự hòa<br /> toàn diện, khách quan và sâu sắc hơn. hợp đối với thiên nhiên sông nước là ở<br /> 3. NỘI DUNG mức độ cao nhất và điển hình nhất do sự<br /> có mặt của hệ thống sông ngòi, kinh<br /> 3.1. Khái quát về tính sông nước rạch dày đặc ở vùng châu thổ sông Mê<br /> 3.1.1. Khái niệm kông. (Trần Ngọc Thêm, 2018)<br /> Tính sông nước được xem là đặc 3.1.2. Cơ sở hình thành tính sông<br /> trưng điển hình nhất trong tính cách văn nước<br /> hóa của người Việt ở đồng bằng sông Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc<br /> Cửu Long. Trần Ngọc Thêm trong Văn Thêm, tính sông nước được hình thành<br /> hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ đã đưa dựa trên những cơ sở chủ yếu sau đây:<br /> ra khái niệm về tính sông nước như<br /> sau:“Tính sông nước – hay nói đầy đủ Văn hóa Việt Nam thuộc loại hình<br /> hơn là “tính hòa hợp cao với thiên nhiên văn hóa nông nghiệp lúa nước, và rộng<br /> sông nước” – là một đặc trưng tính cách hơn là văn hóa nước. Tây Nam Bộ là<br /> văn hóa xuất hiện ở những vùng văn hóa vùng sông nước kinh rạch điển hình<br /> có mạng lưới sông nước dày đặc chi nhất. Hình ảnh sông nước đi vào khắp<br /> phối toàn bộ đời sống vật chất và tinh mọi mặt của đời sống vật chất và tinh<br /> thần của con người và con người thì biết thần của con người. Con người Tây Nam<br /> khai thác tối đa lợi thế của thiên nhiên Bộ sống gắn bó với sông nước, yêu<br /> sông nước trong khi chỉ đối phó với nó ở thương nó, nhờ cậy nó, đối phó nhưng<br /> 171<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> không xung đột với nó mà hòa hợp với này phối hơp với nhau góp phần hình<br /> nó ở mức độ rất cao. Tính hòa hợp cao thành nên tính thiết thực của người Tây<br /> với thiên nhiên sông nước tạo thành một Nam Bộ thể hiện ở sự hài hòa, ưa vừa<br /> phần không thể thiếu của hệ tính cách đủ, không bon chen, ganh đua (Trần<br /> văn hóa Tây Nam Bộ Ngọc Thêm, 2018).<br /> Tính sông nước của văn hóa Tây Nam Có thể nói, hệ thống sông ngòi, kinh<br /> Bộ là sản phẩm của hằng số tự nhiên rạch chằng chịt và tập quán sống gắn bó,<br /> “nơi gặp gỡ của những điều kiện tự tận dụng những nguồn lợi của sông nước<br /> nhiên thuận lợi”. Đầu tiên, mỗi năm, chính là cơ sở quan trọng nhất hình<br /> sông Cửu Long đều dâng nước, nhưng thành nên tính cách người Việt ở vùng<br /> chỉ làm ngập mà ít khi gây lụt, đem theo Tây Nam Bộ nói chung, tính sông nước<br /> biết bao tài nguyên của cải cho con nói riêng.<br /> người (thủy sản, phù sa,…), giúp tháo 3.2. Những biểu hiện tính sông<br /> chua rửa phèn cho đất. Vì thế, người nước của người Việt vùng Tây Nam<br /> Việt ở vùng đất này có truyền thống Bộ qua tập truyện Cánh đồng bất tận<br /> sống chung với nước, tận dụng nước, coi (Nguyễn Ngọc Tư)<br /> nước nổi là một phần cuộc sống của<br /> mình. Ngoài ra, hệ thống sông Cửu Long 3.2.1. Tính sông nước trong ẩm thực<br /> ở vùng Tây Nam Bộ còn tạo nên một Tính sông nước biểu hiện trong ẩm<br /> mạng lưới giao thông thủy đạo dày đặc, thực rõ nhất là qua việc lựa chọn thủy<br /> giúp cho việc đi lại rất thuận tiện. Đó là sản làm thức ăn chủ lực, cụ thể ngay<br /> hai điều kiện thuận lợi nhất mà sông trong bữa cơm hàng ngày của gia đình.<br /> Cửu Long ưu đãi cho vùng đất này, tạo Trong lĩnh vực ẩm thực, thủy sản là thức<br /> cơ sở cho việc hình thành nên tính sông ăn chủ yếu sau cơm. Theo Trần Ngọc<br /> nước đặc thù. Thêm, nếu cơ cấu bữa ăn truyền thống<br /> Hằng số tự nhiên “nơi gặp gỡ của các của người Việt đồng bằng Bắc Bộ là<br /> tuyến giao thông sông biển quốc tế” ở “cơm – rau – cá – thịt” thì cơ cấu bữa ăn<br /> Tây Nam Bộ tuy không điển hình bằng của người Việt vùng Tây Nam Bộ là<br /> Đông Nam Bộ nhưng cũng rất quan “cơm – cá – rau – thịt”.<br /> trọng trong việc hội tụ của hàng loạt ĐBSCL có tới hơn 200 loại cá, được<br /> nhóm di dân của người Hoa cũng như sự chế biến thành rất nhiều món ăn như nấu<br /> hội nhập những ảnh hưởng của văn hóa chua, nấu ngọt, kho, chiên, nướng, làm<br /> Ấn Độ và Đông Nam Á. khô, làm mắm,… Người ta thường lấy<br /> Tính sông nước Tây Nam Bộ còn cá nấu canh chua trái giác chung với<br /> chịu ảnh hưởng của hai đặc trưng tính bông súng, rau muống, bông so đũa:<br /> cách văn hóa Việt Nam là “thiên về âm “Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại<br /> tính” và “tính ưa hài hòa”. Hai đặc trưng lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét<br /> dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu<br /> 172<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> canh chua trái giác, sung sướng thấy gian ngắn nên phải thường làm khô, làm<br /> mình bận rộn hệt mấy nhỏ bạn mới lấy mắm để dự trữ cho mùa khô. Người Tây<br /> chồng…” (Thương quá rau răm- Nam Bộ rất thích ăn mắm, nhất là mắm<br /> Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Món canh sống, có lẽ vì nó mang vị mặn đặc trưng,<br /> chua thường được ăn kèm với cá kho hợp khẩu vị của người dân nơi đây: “Hai<br /> quẹt, cá kho khô: “Câu được vài ba con mươi sáu năm rồi, nhưng mỗi ông già bà<br /> cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn già đều nhớ thằng Thọ về lần nào cũng<br /> lọc phần thịt dành cho tía, phần xương chui vô bếp lục cơm nguội ăn với mắm<br /> xẩu cho mình” hoặc “Đôi ba hôm, đi sống…” (Mối tình năm cũ) (Nguyễn<br /> làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro Ngọc Tư, 2016). Khô thì đủ mọi loại<br /> một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô, hình như cá nào làm khô cũng được<br /> khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh nhưng được ưa chuộng nhất là khô cá<br /> rau đắng.” (Hiu hiu gió bấc - Nguyễn kèo. Khô cá kèo là một trong những đặc<br /> Ngọc Tư, 2016). Những món ăn dân dã, sản nổi tiếng ở miền Tây Nam Bộ, đặc<br /> đượm tình miền Tây sông nước cũng biệt là Cà Mau và Bạc Liêu. Cá kèo là<br /> chính là ước mơ giản đơn về tổ ấm của loài cá có da trơn, thường to cỡ ngón<br /> Huệ trong Huệ lấy chồng: “Nói vậy, tay, thịt mềm thơm, vừa ngon vừa giàu<br /> nhưng lòng Huệ nghe ấm ran, nó mơ tới chất dinh dưỡng nên được nhiều người<br /> một mái nhà sớm chiều khói tỏa, buổi ưa chuộng. Vì đánh bắt được nhiều nên<br /> sáng nó rang cơm cho Thi lót lòng đi người ta thường hay phơi khô để bảo<br /> dạy, trưa đón Thi về chăm chút nồi canh quản được lâu và tiện cho việc vận<br /> chua bông súng ăn với cá sặc kho khô” chuyển. Khô cá kèo lai rai với rượu đế<br /> (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Mùi thơm nức thì còn gì bằng: “Tối sau Trần Hưng rủ<br /> mũi của cá kho khô, kho quẹt từ bao giờ thêm vài người tới nhà dì Thấm, anh<br /> đã trở thành kí ức của những người con không quên xách theo chai rượu với mớ<br /> xa quê, hoặc vẫn ở quê nhưng thiếu hơi khô cá kèo mua đằng đầu xóm. Anh nghĩ<br /> ấm của bữa cơm gia đình: “Nắng giữa con người nầy không dễ thuyết phục<br /> trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ khác có nắng đâu, đem rượu lại coi có mở lòng ổng ra<br /> dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, được không” (Mối tình năm cũ - Nguyễn<br /> mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi gật Ngọc Tư, 2016). Khô cá chạch cũng là<br /> đầu, nhưng cái mùi nghèo quá.” một trong những loại đặc sản của vùng<br /> (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Tuy không sông nước Tây Nam Bộ. Đây cũng là<br /> phải là “sơn hào hải vị” nhưng đối với loại cá da trơn, vừa ngon vừa bổ nên<br /> người dân Tây Nam Bộ, dù đi đâu, làm người dân thường để lại một ít làm khô<br /> gì cũng nhớ đau đáu cái hương vị đầm để dành: “Ăn cơm xong, chị dọn ra xị<br /> ấm của sông nước, đồng quê. rượu, nướng mấy con khô cá chạch: -<br /> Cá ở miền Tây nhiều đến nỗi người ta Anh Hai lai rai cho ấm bụng, mưa quá,<br /> không thể ăn hết ngay trong khoảng thời nhâm nhi đỡ buồn” (Cái nhìn khắc<br /> khoải - Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Khô sặt<br /> 173<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> cũng là món nhâm nhi thường thấy của ho cò gáy” này mang gần như hết thảy<br /> người dân vùng ĐBSCL. Tác giả Lê đặc sản đãi ngộ anh: “Hôm Văn đến, bà<br /> Ngọc trên trang Văn học – Nghệ thuật con ôm lại cho một đống quần áo, góp<br /> của báo Cà Mau có chia sẻ: “Sặt bướm gạo đổ vô thùng, câu cá đem rọng. Rồi<br /> nhỏ con, vảy màu trắng, còn sặt bổi lớn mấy con cá ốm nhom, trắng đờ con mắt,<br /> con, vảy có sọc rằn, màu xám. Nhà tôi lội vật vờ tới lui chờ hóa kiếp mà Văn<br /> thích cá sặt bướm vì nó ít mỡ, ăn không vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà<br /> ngán. Sặt bướm làm khô lạt rất ngon vì này đến nhà khác. Bữa thì cháo vịt, cháo<br /> cá nhỏ không cần muối lâu, chỉ nhúng rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um,…”<br /> qua nước muối rồi đem phơi nên không (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Ngoài ra, thịt<br /> bị mặn. Khô sặt nướng, chiên giòn, nấu vịt cũng là thứ được người dân ĐBSCL<br /> canh chua đều ngon…” (Lê Ngọc, ưa chuộng hơn hẳn thịt gà. Món cháo vịt<br /> 2017). Những con khô cá sặt mặn chát trong đoạn trích trên là một ví dụ.<br /> còn sót lại trên ghe của cha con Nương Nhìn chung, trong bữa ăn của người<br /> trong Cánh đồng bất tận là minh chứng Việt vùng Tây Nam Bộ, ngoài cơm thì<br /> cho cuộc sống nghèo khó, cơ cực của cá, tôm, lươn, rắn,… là những nguyên<br /> những con người sống nhờ vào bầy vịt liệu chính được chế biến thành nhiều<br /> chạy đồng: “Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ món ngon như cháo rắn, tôm nướng,<br /> còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt lươn um, cá nấu canh chua trái giác, cá<br /> còn không vô, nói chi…” (Nguyễn Ngọc nấu canh chua bông súng, cá kho khô,<br /> Tư, 2016). Ngoài ra, khô cá thòi lòi cũng kho quẹt. Đặc biệt, cá còn được làm<br /> là một trong những món nhậu bình dân mắm, làm khô để ăn dần, hoặc làm món<br /> của vùng sông nước. Cá thòi lòi nhiều nhậu, vừa ngon vừa đỡ tốn thời gian.<br /> thịt, thịt lại thơm ngon, có vị bùi nên rất Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn của miền<br /> được ưa chuộng. Loại khô nào cũng vậy, sông nước, đã khéo léo giới thiệu những<br /> muốn ngon thì cá phải tươi, chủ yếu là đặc sản này cho người đọc qua tập<br /> giữ được hương vị tự nhiên, không cần truyện của mình. Tập truyện đã biểu<br /> thiết phải ướp quá nhiều gia vị và đặc hiện sinh động tính sông nước qua văn<br /> biệt là phải phơi đủ nắng: “Anh nhằn gió hóa ẩm thực của người Việt vùng Tây<br /> trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi Nam Bộ.<br /> khô cá thòi lòi không đặng nắng để bốc<br /> mùi thúi ủm” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). 3.2.2. Tính sông nước trong cách<br /> chọn nơi cư trú<br /> Cùng với cá, vùng châu thổ sông Mê<br /> kông còn rất nhiều loại đặc sản sông Trong cư trú, “hình thức tổ chức nhà<br /> nước như rắn, lươn, tôm,… Trong cửa chủ yếu của người Việt vùng Tây<br /> Thương quá rau răm, để giữ chân Văn, Nam Bộ là phân bố theo dạng tuyến hình<br /> một bác sĩ trẻ mới về làm việc ở trạm xá xương cá (hay tỏa tia): nhà cửa nhìn ra<br /> cù lao Mút Cà Tha, người dân xứ “khỉ sông, lấy sông làm mặt tiền, khiến cho<br /> <br /> 174<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> làng mạc Tây Nam Bộ có bộ mặt khác cột, làm cừ: “Tao đốn tràm, làm nhà lại,<br /> hẳn nông thôn miền Trung, miền Bắc. ở luôn nghen” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016).<br /> Hình thức cư trú như vậy là một sự thích Nhà cửa của người dân thường tập<br /> nghi hữu hiệu với môi trường thiên trung ven sông rạch, trên bờ hình thành<br /> nhiên sông nước, chằng chịt kênh rạch” các thị trấn, thị tứ, dưới sông thì chợ họp<br /> (Trần Ngọc Thêm, 2018). ở các ngã ba, ngã năm, ngã sáu, ngã bảy,<br /> Trong Cánh đồng bất tận, nhà của gọi là chợ nổi. Chợ nổi là một loại chợ<br /> nhiều nhân vật cũng hướng ra sông. Đó xuất hiện ở vùng sông nước, phương tiện<br /> cũng là hình thức tận dụng nước trong di chuyển chính của người tham gia họp<br /> cư trú.“Sông cách nhà một cái bến dài chợ là xuồng ghe. Dân thương hồ<br /> chẻ ngang đám dừa nước. Nếu không thường tập trung tại các chợ nổi để trao<br /> vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm đổi, mua bán hàng hóa (chủ yếu là nông<br /> chởm chồm từ mé lá lên, không vướng sản): “Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp<br /> mấy bụi rang, bụi lức dại, có thể thấy vịt bầy đổi đồng thì chở thuê, gặp rẫy bí,<br /> lồng lộng một khúc sông”. (Dòng nhớ - rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà<br /> Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Nhà cất gần Mau, nước ngược cắm sào đậu lại thổi<br /> sông rất tiện cho việc làm ăn, sinh hoạt, cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông<br /> đi lại. Những sinh hoạt thường ngày của cho ghe ra bến.”(Biển người mênh mông<br /> người dân thường được thực hiện ở bến - Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Trong đoạn<br /> sông: “Má tôi hay mang xoong chảo ra đề từ của truyện ngắn Nhớ sông, tác giả<br /> bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàng viết: “Tôi thường đứng trên cầu Gành<br /> bông mua ít rau cải tươi và bán lại Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông<br /> những quày chuối chín bói trong vườn. thấy những dãy ghe rập rờn xao động cả<br /> Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay mặt sông, những cái chân vịt gác chỏng<br /> lại neo ghe chỗ mấy cây mắm trước lên loang loáng dưới mặt trời” (Nguyễn<br /> nhà” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Ngọc Tư, 2016). Chợ nổi cũng được<br /> Người Việt vùng châu thổ sông Mê nhắc đến trong Dòng nhớ: “Sáng nay,<br /> kông thường tận dụng tối đa những vật má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba<br /> liệu sẵn có trong môi trường sông nước Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một<br /> như lá dừa nước, tràm để làm nhà ở, hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài<br /> dừng vách. Trong Cái nhìn khắc khoải, chợ nổi” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016).<br /> nhân vật ông Hai dùng lá dừa nước để Nguyễn Ngọc Phan cho rằng chợ nổi<br /> làm nhà tắm cho chị - một vị khách bất “đa phần đóng ở những nơi giáp nước<br /> đắc dĩ: “Ông chắc không để ý chuyện để thương hồ dừng tay đợi con nước<br /> này, ông bận đốn so đũa cặm cột, dừng thuận, có khi phải ở lạ vài ba ngày nên<br /> lá dừa nước làm cái nhà tắm cho chị” các sinh hoạt chợ nổi rất nhộn nhịp, kể<br /> (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Còn cây tràm cả sinh hoạt văn nghệ.” (dẫn theo Trần<br /> thì được sử dụng nhiều trong việc làm Ngọc Thêm, 2018).<br /> 175<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> Với người dân ở vùng sông nước Cửu trồng chung trên miệng cái khạp bể…<br /> Long, việc sống trên ghe xuồng là Mà, chính má tôi cũng không quên hình<br /> chuyện hết sức bình thường. Ghe là nhà, ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã<br /> sông là nơi gắn bó cả cuộc đời. Gia đình xỉn màu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba<br /> ông Chín trong Nhớ sông là một trong số cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn<br /> những phận người lênh đênh sông bà trên ghe còn nguyên một gia đình”<br /> nước:“Gia đình ông Chín sống hẳn trên (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Đa phần<br /> ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm. Nhà người dân sống trên sông là người không<br /> nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai có đất, “ngôi nhà” là chiếc ghe nhỏ rày<br /> công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên đây mai đó, làm ăn theo thời vụ, gặp gì<br /> sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền làm nấy, như câu ca dao: “Ra đi gặp vịt<br /> còn dư lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi cũng lùa, Gặp duyên cũng kết, gặp chùa<br /> bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau cũng tu”. Trong truyện ngắn Biển người<br /> linh đinh sông nước” (Nguyễn Ngọc Tư, mênh mông, ta cũng bắt gặp cảnh đời<br /> 2016). Khi sống trên sông thì nhớ đất như thế: “… hồi trẻ, ông toàn sống trên<br /> liền, nhưng khi lên đất liền thì nỗi nhớ sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng<br /> sông lại cồn cào trỗi dậy:“ghé Đập Sậy, lang thang xứ này xứ nọ. Gặp mùa lúa<br /> Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì<br /> Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. chở thuê, gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua<br /> Giang than nức nở: “Trời ơi, con nhớ về bán lại chợ nổi Cà Mau, nước ngược<br /> ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu,<br /> mò mẫm từng món hàng từng miếng nước bò lên bãi ông cho ghe ra bến.<br /> sạp” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Trong Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm”<br /> Dòng nhớ, người đàn ông vì chữ tình mà (Nguyễn Ngọc Tư, 2016).<br /> cãi mẹ, bỏ nhà ra đi sống kiếp thương 3.2.3. Tính sông nước trong giao<br /> hồ, gạo chợ nước sông. “Hai người trải thông<br /> qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt lúa<br /> mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ… mới có được Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành<br /> một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler thông chí ghi lại: “Ở Gia Định, chỗ nào<br /> xuống rẫy bán hàng bông” (Nguyễn cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền<br /> Ngọc Tư, 2016). Ghe là nhà, dù có xuề làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hoặc để đi<br /> xòa, sơ sài thì cũng là chỗ chui ra chui thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi<br /> vào, là mái ấm, là nơi giữ lại kí ức êm đi buôn bán rất tiện lợi. Ghe thuyền chật<br /> đềm nhất mà đôi khi cả cuộc đời người sông, ngày đêm đi lại không ngớt, cho<br /> ta cũng chẳng thể nào quên được. “Đồ nên nhiều khi đụng nhau, bị hư hại rồi<br /> vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, sinh ra kiện cáo” (Trịnh Hoài Đức,<br /> tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi 1972). Kênh rạch được xem là “lộ”, là<br /> ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt “đường”. Ghe xuồng là “đôi chân” của<br /> hiểm, một cây sống đời đang trổ bông người dân. Hầu như ai cũng có xuồng<br /> 176<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> ghe riêng. Nghèo thì đi bằng chèo, bằng Cha tôi chở người con gái tội nghiệp<br /> dầm, khá hơn thì sắm máy Koler, máy này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ<br /> dầu, máy xăng: “Hôm gần đám, Thuấn tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất<br /> chạy xuồng qua chở Huệ đi rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ<br /> chợ”…“Xuống xuồng, Huệ giành lái ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ<br /> máy. Điềm ngồi co ro đằng trước mũi, quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng<br /> than lạnh quá chừng đi… Trong tiếng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên<br /> máy Koler4 nổ lùng bùng, tự dưng Huệ bây giờ mới khóc hận, cười đau”<br /> bảo: - Ừ, lạnh quá, Điềm ha?...” (Huệ (Nguyễn Ngọc Tư, 2016).<br /> lấy chồng) (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Đi gần là vậy, nếu muốn đi xa hơn<br /> Có khi cần đi đâu mà không có ghe như lên tỉnh, lên huyện hoặc đến những<br /> xuồng riêng thì người ta xin “quá nơi xa xôi hẻo lánh thì có đò dọc, có tàu<br /> giang”. Đám bạn trên thành phố của bác chở khách, như trong Duyên phận so le,<br /> sĩ Văn trong Thương quá rau răm được Nguyễn Ngọc Tư viết: “Tàu đò thường<br /> Nga cho quá giang về trạm xá (dù không quăng lên khu du lịch những người<br /> ưa một chút nào): “Nga cho quá giang khách xốc xếch, lử lả đường xa… Nôn<br /> về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao nả chạy ra mốc tọa độ chụp hình, hối<br /> trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho nhà hàng dọn cơm ra. Vừa ăn vừa coi<br /> tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi)” đồng hồ, tính xem thêm chén nữa thì có<br /> (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). kịp chuyến đò trưa không” (Nguyễn<br /> Trong Cái nhìn khắc khoải, nhân vật Ngọc Tư, 2016).<br /> chị được ông Hai cho quá giang trong Ngày nay, dù đường bộ đã thuận tiện<br /> lúc người đàn bà này đau khổ, tuyệt hơn, nhiều phương tiện giao thông<br /> vọng nhất: đường bộ như xe máy, ô tô cũng trở nên<br /> “Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị phổ biến nhưng người dân vùng Tây<br /> xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc. Nam Bộ vẫn còn chèo ghe, bơi xuồng,<br /> đưa đò, chạy vỏ lãi,… vì cơ bản là<br /> - Tôi biết đi đâu mà quá giang bây không một loại phương tiện nào có thể<br /> giờ. Hay... làm ơn cho tôi theo anh đêm thay thế hoàn toàn chức năng của ghe<br /> nay nghen” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). xuồng ở vùng đất chằng chịt kinh rạch<br /> Với Cánh đồng bất tận, hai con người này: “Có thể nói ghe xuồng đã chuyên<br /> xa lạ được se duyên nhờ một chuyến chở cả lịch sử 300 năm khai phá đất đai<br /> “quá giang” nhưng mối tình ấy tan vỡ vì Tây Nam Bộ” (Trần Ngọc Thêm, 2018).<br /> quá giang một khúc sông cũng là quá 3.2.4. Tính sông nước trong nghề<br /> giang một khúc đời, rồi đi, rồi lại như nghiệp<br /> người xa lạ: “Cha hỏi, cô về đâu tôi cho<br /> quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn Nhìn chung, đa số các nghề nghiệp ở<br /> rụa nước, “tôi cũng không biết về đâu”. vùng Tây Nam Bộ đều gắn với môi<br /> 177<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> trường sông nước nên phụ thuộc nhiều kiến độc đáo nuôi vịt chạy đồng” (Trần<br /> vào từng con nước để tồn tại, phát triển. Ngọc Thêm, 2016).<br /> Đa số lưu dân vùng Thuận – Quảng đến Nghề này cũng lang bạt, lênh đênh,<br /> vùng đất này xuất thân từ nông dân nên hợp với những người thích chu du. Nhân<br /> nghề nông trồng lúa nước được phát huy vật ông Hai trong Cái nhìn khắc khoải<br /> đầu tiên trên mảnh đất Tây Nam Bộ dù biết nghề này nghèo nhưng không bỏ:<br /> cũng là điều dễ hiểu. “Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên<br /> Trồng lúa nước là nghề truyền thống những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó<br /> được những con người đi khai hoang chừng chừng sang những cánh đồng lúa<br /> thực hiện ngay khi đặt chân đến vùng mới vừa chín tới và suy nghĩ về một vạt<br /> đất mới:“Quá trình “chinh phục” tự đồng khác lúa vừa no đòng đòng…”<br /> nhiên Tây Nam Bộ của người Việt cũng (Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Vịt trở thành<br /> đồng thời trùng với quá trình người Việt bạn, gần gũi, thân thiết với chủ. Ông Hai<br /> tìm cách phát huy nghề trồng lúa nước giữ Cộc - con vịt xiêm ở lại và làm bạn<br /> của mình và mở mang thêm nhiều nghề với nó, tâm sự với nó như với người và<br /> mới” (Trần Ngọc Thêm, 2018). Đối với nó cũng rất hiểu ông: “Ông nói như nói<br /> người nông dân, miếng ruộng, con trâu với con Cộc, “Bỏ quên bịch thuốc trong<br /> là cả sự nghiệp, nên “lúc nhỏ Cải mười nhà, them quá”. Trời, tới cỡ này còn<br /> ba tuổi, một bữa mê chơi nó làm mất giấu giếm, tui là vịt, nói thiệt với tui<br /> một đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà” (Cải cũng đâu xấu hổ gì, con vịt đổ quạu, mặt<br /> ơi - Nguyễn Ngọc Tư, 2016). Ruộng càu cạu” (Nguyễn Ngọc Tư, 2016) . Ba<br /> đồng, lúa thóc đã in sâu vào tiềm thức cha con của Út Vũ trong Cánh đồng bất<br /> của người dân nơi đây, từ trẻ đến già, tận cũng tha phương với nghề nuôi vịt từ<br /> vui có, buồn có. cánh đồng này sang cánh đồng khác,<br /> Tận dụng môi trường sông nước vốn sống cuộc đời du mục: “Đàn vịt đưa<br /> có và lợi thế của vùng sản xuất lúa lớn chúng tôi đi hết cánh đồng nầy đến cánh<br /> nhất nước, người Việt Tây Nam Bộ đã đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc<br /> có không ít gia đình sống nhờ vào nghề sống, chúng là vì cớ để chúng tôi sống<br /> nuôi vịt chạy đồng. Hình ảnh đàn vịt đời du mục, tới những chỗ vắng người.<br /> hàng trăm, thậm chí hàng ngàn con được Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường<br /> thả trên những cánh đồng vừa mới thu của gia đình chúng tôi, và ít hỏi cái câu:<br /> hoạch không có gì xa lạ với người dân “Má mấy đứa nhỏ đâu?”” (Nguyễn<br /> nơi đây: “Tận dụng môi trường sông Ngọc Tư, 2016). Người ta chấp nhận<br /> nước trong lĩnh vực chăn nuôi, người sống đời mục đồng, rày đây mai đó, làm<br /> Việt vùng Tây Nam Bộ đã phát triển bạn với từng con sông, khúc rạch và<br /> nghề nuôi vịt với quy mô lớn. Chỉ ở Tây xem bầy vịt là cả một gia tài, nghề nuôi<br /> Nam Bộ, người dân mới có thể có sáng vịt chạy đồng là một kế sinh nhai.<br /> <br /> <br /> 178<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> 3.2.5. Tính sông nước trong nghệ Vàm: Vàm Mấm, Rạch Vàm Mấm<br /> thuật ngôn từ (Biển người mênh mông), ngã ba Vàm<br /> “Trong nghệ thuật ngôn từ, sông (Dòng nhớ).<br /> nước Tây Nam Bộ đã để lại dấu ấn rất Giồng: xóm Giồng Mới (Hiu hiu gió<br /> nhiều… Nhờ vậy mà phương ngữ tiếng bấc)<br /> Việt ở Tây Nam Bộ rất giàu các từ ngữ Với 227 lần xuất hiện những từ địa<br /> chỉ các sự vật, khái niệm liên quan đến phương chỉ những khái niệm, sự vật liên<br /> sông nước mà trong tiếng Việt toàn dân quan đến sông nước, tập truyện Cánh<br /> không có” (dẫn theo Trần Ngọc Thêm, đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư góp<br /> 2018). Khảo sát 14 truyện ngắn trong tập phần khẳng định sông nước chính là cơ<br /> truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn sở hình thành nên phần lớn những từ<br /> Ngọc Tư, người viết thống kê số lần ngữ địa phương đặc thù, khó có thể<br /> xuất hiện của những từ địa phương liên nhầm lẫn với những vùng miền khác<br /> quan đến sông nước, số liệu cụ thể như trong cả nước.<br /> sau:<br /> 4. KẾT LUẬN<br /> Về từ để chỉ nơi chứa nước: kinh (30<br /> lần), rạch (7 lần), bàu (3 lần), đìa (3 lần), Có thể khẳng định, tính sông nước là<br /> vũng (3 lần), vàm (6 lần). tính cách văn hóa đặc trưng, điển hình<br /> cho tính cách của người Việt vùng Tây<br /> Về vùng đất có nước bao quanh: cù Nam Bộ và đã được tái hiện một cách tự<br /> lao (22 lần), bãi (5 lần) nhiên, sinh động qua những trang văn<br /> Về sự vận động của con nước: nước trong tập truyện Cánh đồng bất tận của<br /> ròng (1 lần), nước kém (1 lần), nước bò Nguyễn Ngọc Tư. Cư dân người Việt<br /> (2 lần) sau quá trình khẩn hoang, lập ấp đã cùng<br /> Về phương tiện đường thủy: ghe (114 cộng cư với các dân tộc Khmer, Hoa,<br /> lần), xuồng (30 lần). Chăm,… hơn 300 năm và chịu sự chi<br /> phối mạnh mẽ của mạng lưới sông ngòi,<br /> Phần lớn địa danh trong tập truyện kinh rạch chằng chịt từ hệ thống sông<br /> gắn liền với môi trường sông nước. Cửu Long. Tính sông nước thể hiện rõ<br /> Nhiều địa danh khởi đầu bằng những qua ẩm thực, nơi cư trú, giao thông,<br /> yếu tố vốn xuất thân từ danh từ chung: nghề nghiệp và nghệ thuật ngôn từ.<br /> Rạch: Rạch Ráng (Huệ lấy chồng), Thành công nhất của tập truyện Cánh<br /> Rạch Mũi (Cái nhìn khắc khoải), Rạch đồng bất tận là tác giả vừa phản ánh<br /> Vàm Mấm, Rạch Chùa (Biển người hiện thực cuộc sống của những con<br /> mênh mông) người ở cực Nam Tổ Quốc vừa khẳng<br /> định những giá trị văn hóa đặc trưng của<br /> Kinh: xóm Kinh Cụt (Huệ lấy chồng) người Việt Tây Nam Bộ nói chung, tính<br /> sông nước nói riêng.<br /> 179<br /> Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 06 - 2019<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO 5. Nguyễn Ngọc Tư, 2016. Cánh đồng<br /> 1. Huỳnh Công Tín, 2012. Ấn tượng bất tận. Tái bản lần thứ 37. NXB Trẻ.<br /> văn hóa đồng bằng Nam Bộ. NXB Chính TPHCM, 218 trang.<br /> Trị Quốc gia – Sự thật. Hà Nội, 248 trang. 6. Phan Huy Lê, 2017. Vùng đất Nam<br /> 2. Huỳnh Lứa, 2017. Lịch sử khai phá Bộ - Quá trình hình thành và phát triển<br /> vùng đất Nam Bộ (chủ biên). Nhà xuất (chủ biên). NXB Chính trị Quốc gia – Sự<br /> bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. thật, Hà Nội, 758 trang.<br /> TPHCM, 355 trang. 7. Trần Ngọc Thêm, 2018. Văn hóa<br /> 3. Huỳnh Ngọc Trảng, 2002. Sổ tay người Việt vùng Tây Nam Bộ (chủ biên).<br /> hành hương đất phương Nam (chủ biên), Tái bản lần thứ 2. NXB Văn hóa – Văn<br /> NXB Trẻ. TPHCM, 660 trang. nghệ TPHCM. TPHCM, 890 trang.<br /> <br /> 4. Lê Ngọc, 2017. Nhớ khô cá sặt. 8. Trịnh Hoài Đức, 1972. Gia Định<br /> http://baocamau.com.vn/van-hoc-nghe- thành thông chí. Nha Văn hóa, Sài Gòn,<br /> thuat/nho-kho-ca-sat-43389.html, truy cập 235 trang.<br /> ngày 04/4/2019. 9. Vũ Văn Ngọc, 2011. Nam Bộ nhìn<br /> từ văn hoá, văn học và ngôn ngữ. NXB<br /> Khoa học Xã hội. Hà Nội, 555 trang.<br /> RIVER CHARACTER OF VIETNAMESE PEOPLE<br /> IN THE SOUTHWEST THROUGH SHORT STORIES<br /> “CANH DONG BAT TAN” BY NGUYEN NGOC TU<br /> Nguyen Thuy Diem<br /> Faculty of Linguistics and Literature, Tay Do University<br /> (Email: nguyenthuydiem8@gmail.com)<br /> ABSTRACT<br /> The river character is considered one of the most typical cultural characteristics of the<br /> Vietnamese ethnic group in the Southwest region. That is “the crystallization of the whole<br /> river civilization and the canal civilization of the Southwestern region” (Tran Ngoc Them,<br /> 2018). It can be said that the river character contains almost the entire value system of<br /> people in this land, typical for the development level of the Mekong Delta (Mekong Delta)<br /> in exploiting strengths, utilizing and dealing with river and water during the process of<br /> exploitation, settlement and living of the ethnic group. The manifestations of river<br /> character are expressed clearly by Nguyen Ngoc Tu in her pages, typical of short stories<br /> Canh dong bat tan, expressed through aspects such as cuisine, residence, transportation,<br /> occupation and the art of words. It is also a basic feature in the style of writer Nguyen<br /> Ngoc Tu - the river specility.<br /> Keywords: Canh dong bat tan, Nguyen Ngoc Tu, Southwest region, the river character.<br /> <br /> 180<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0