Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
TÌNH TRẠNG NHA CHU CỦA PHỤ NỮ MANG THAI<br />
THEO TỪNG QUÍ CỦA THAI KỲ<br />
Trần Thị Bích Châu*, Nguyễn Thị Kim Anh*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Mô tả những thay đổi trên lâm sàng của mô nha chu ở phụ nữ mang thai (PNMT) theo từng quí<br />
của thai kỳ và đánh giá mức độ hiểu biết của PNMT về chăm sóc sức khỏe răng miệng.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu dọc được tiến hành trên 31 PNMT tại BV An Bình TPHCM. Các sản phụ<br />
được phỏng vấn và điền vào bảng câu hỏi về cách chăm sóc sức khỏe răng miệng trong lần khám đầu tiên ở quí 1.<br />
Tất cả các PNMT được đánh giá tình trạng nha chu 3 lần ở quí 1, quí 2 và quí 3 để ghi nhận chỉ số mảng bám<br />
(PlI), chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm khám (BOP) và độ sâu túi nha chu qua thăm dò (PPD).<br />
Kết quả: Ghi nhận 100% PNMT bị viêm nướu ở cả 3 quí của thai kỳ. Mặc dù chỉ số PlI hầu như không<br />
thay đổi qua 3 quí của thai kỳ nhưng các chỉ số GI, BOP, PPD đều tăng từ quí 1 đến quí 2, sau đó giảm ở quí 3.<br />
Hiểu biết của PNMT về sức khỏe răng miệng còn kém, đa số không biết về bệnh nha chu (77,4%), tồn tại quan<br />
niệm lạc hậu như kiêng chải răng hoàn toàn sau sanh ít nhất 1 tháng (67,7%), không nên đi khám răng trong<br />
thời gian mang thai (83,9%).<br />
Kết luận: Mô nha chu nhạy cảm hơn đối với tình trạng viêm trong giai đoạn mang thai, đặc biệt thấy rõ<br />
nhất ở quí 2. Kiến thức về răng miệng của PNMT còn kém. Việc xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe răng<br />
miệng cho PNMT là cần thiết để cung cấp kiến thức về cách chăm sóc răng miệng trong thời gian mang thai và<br />
sau sanh, từ đó cải thiện sức khỏe răng riệng và sức khỏe chung cho PNMT.<br />
Từ khoá: Mô nha chu, thai kỳ, sau khi sanh.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
PERIODONTAL STATUS IN PREGNANT WOMEN DURING PREGNANCY<br />
Tran Thi Bich Chau, Nguyen Thi kim Anh<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 102 - 107<br />
Objectives: Describe clinical changes in periodontium of pregnant women during pregnancy and evaluate<br />
their knowledge about oral health care.<br />
Methods: Longitudial study was conducted on 31 pregnant women at An Binh hospital, Ho Chi Minh city.<br />
The pregnant women were interviewed and filled out questionnaires about knowledge oral health care in the first<br />
examination. All of the pregnant women were investigated periodontal status three times during their first,<br />
second, and third trimester in order to reveal plaque index (PlI), gingival index (GI), bleeding on probing (BOP),<br />
probing pocket depth (PPD).<br />
Results: 100% of pregnant women with gingivitis. Although PlI stayed invariable during the follow-up;<br />
however, GI, BOP, PPD increased between the first and second trimester, and thereafter decreased at the third<br />
trimester. 77.4% did not acknowledge the harm of periodontal diseases. 67.7% agreed that tooth brushing should<br />
abstain completely after delivery. 83.9% supposed that it should not take checking tooth in pregnant period.<br />
<br />
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM<br />
Tác giả liên lạc: ThS Trần Thị Bích Châu<br />
<br />
102<br />
<br />
ĐT: 0913166411<br />
<br />
Email: bchautt@yahoo.com<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Conclusion: Periodontal tissue more susceptible to inflammation in the period of pregnancy, especially in<br />
second trimester. Knowledge and awareness for pregnant women about oral health is generally poor. Pregnant<br />
women need to be provided with accurate information in taking care of oral health during pregnancy and after<br />
delivery to improved oral and general health.<br />
Keywords: Periodontium, pregnant period, after delivery.<br />
quan giữa thai kỳ và sự thay đổi của mô nha<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
chu. Với mong muốn tìm hiểu tình trạng nha<br />
Tình trạng nha chu ở phụ nữ mang thai<br />
chu của PNMT thay đổi như thế nào trong thời<br />
(PNMT) là một trong những chủ đề được quan<br />
gian mang thai, chúng tôi thực hiện đề tài<br />
tâm nhiều trong suốt bốn thập niên qua; tuy<br />
nghiên cứu này với mục tiêu:<br />
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi(5). Tăng<br />
Mô tả tình trạng nha chu trên lâm sàng theo<br />
mức hormone trong thai kỳ được cho là có liên<br />
từng quí của thai kỳ gồm:<br />
quan đến tăng nhạy cảm đối với sự viêm nướu<br />
- Xác định tình trạng nha chu của PNMT<br />
mà không liên quan đến số lượng mảng bám<br />
qua<br />
các chỉ số nha chu (gồm: chỉ số mảng bám<br />
(13,6)<br />
(Silness & Loe 1964, Hugoson 1971)<br />
nhưng<br />
PlI, chỉ số nướu GI, phần trăm chảy máu nướu<br />
một nghiên cứu khác lại không thấy có mối liên<br />
khi thăm khám BOP, độ sâu túi nha chu qua<br />
quan giữa tăng mức hormone trong thai kỳ và<br />
thăm dò PPD) theo từng quí của thai kỳ.<br />
(5)<br />
tăng viêm nướu . Có lẽ quan điểm chung nhất<br />
của các nhà lâm sàng là mô nha chu khỏe mạnh<br />
không bị ảnh hưởng bởi thai kỳ, và mang thai tự<br />
nó không gây viêm nướu nhưng mảng bám và<br />
vôi răng là điều kiện cần có để kích thích làm<br />
trầm trọng thêm tình trạng viêm nướu vốn có từ<br />
trước. Có bốn giả thiết giải thích cho tình trạng<br />
này như tăng tính thấm thành mạch, thay đổi<br />
hình dạng nướu, giảm hệ thống miễn dịch và<br />
thay đổi màng phím trên và dưới nướu(4).<br />
Những thay đổi ở mô nha chu trong thời kỳ<br />
mang thai đã được nghiên cứu trên nhiều cộng<br />
đồng dân tộc khác nhau, kết quả về tỷ lệ viêm<br />
nướu ở PNMT thay đổi từ 35% đến 100%(4,10,14).<br />
Tại Việt Nam, tỷ lệ viêm nướu ở PNMT là 70,6%<br />
theo nghiên cứu của Đặng Huệ Hồng và 100%<br />
theo nghiên cứu của Phan Thị Kim Tuyết. Một<br />
số nghiên cứu cho thấy khuynh hướng chảy<br />
máu nướu tăng có ý nghĩa từ quí 1 đến quí 3 của<br />
thai kỳ cùng với tăng mức estrogen và<br />
progesterone(8,6,15), và chỉ số chảy máu nướu cao<br />
nhất được thấy giữa quí 1 và quí 2(1). Ngoài ra,<br />
mức độ viêm nướu được thấy tăng có ý nghĩa<br />
suốt quí 2 và quí 3 của thai kỳ và giảm rõ rệt 3<br />
tháng sau sanh(1,8,15).<br />
Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu liên quan<br />
đến viêm nướu trong thai kỳ là những nghiên<br />
cứu cắt ngang nên khó đánh giá được mối liên<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
- Đánh giá sự thay đổi các chỉ số nha chu<br />
qua 3 quí của thai kỳ.<br />
- Xác định tỷ lệ viêm nha chu, viêm nướu và<br />
u nướu thai nghén theo từng quí của thai kỳ.<br />
Mô tả mức độ hiểu biết, thái độ và thói quen<br />
của PNMT về CSSKRM.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
Nghiên cứu dọc, mô tả.<br />
<br />
Mẫu nghiên cứu<br />
Mẫu nghiên cứu gồm 31 PNMT từ tuần<br />
thứ 10 đến tuần thứ 13 của thai kỳ (quí 1) đến<br />
khám thai tại Khoa Sản Bệnh Viện An Bình<br />
(BVAB). Mỗi sản phụ sẽ được đánh giá tình<br />
trạng nha chu 3 lần ở cuối mỗi quí: quí 1 (10 –<br />
13 tuần), quí 2 (20 – 25 tuần), quí 3 (32 – 36<br />
tuần). Thời gian nghiên cứu kéo dài từ tháng<br />
2 đến tháng 9 năm 2011.<br />
<br />
Kỹ thuật chọn mẫu<br />
Chọn mẫu thuận tiện.<br />
Tiêu chí loại trừ<br />
Đối tượng có tiền sử hay hiện diện các bệnh<br />
toàn thân như tim mạch, tiểu đường, cao huyết<br />
áp,…; hút thuốc, uống rượu, nghiện heroin; sử<br />
<br />
103<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
<br />
dụng kháng sinh, kháng viêm trong vòng 3 tuần<br />
trở lại đây.<br />
<br />
Xác định viêm nha chu khi cá thể có ≥ 4 vị trí<br />
có túi nha chu ≥ 4 mm.<br />
<br />
Phương tiện nghiên cứu<br />
<br />
Xử lý và phân tích số liệu<br />
<br />
Cây thăm dò độ sâu túi nha chu William có<br />
chia vạch mm.<br />
<br />
Nhập số liệu bằng phần mềm Excel 2007 và<br />
xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 10.<br />
<br />
Bảng câu hỏi: thu thập thông tin về hiểu<br />
biết, thái độ và thói quen của PNMT về cách<br />
CSSKRM (số lần chải răng, lần khám răng gần<br />
nhất, hiểu biết về bệnh nha chu…).<br />
<br />
Dùng phép kiểm t-test bắp cặp so sánh 2 số<br />
trung bình của 2 quí.<br />
<br />
Phiếu khám để ghi nhận tình trạng nha chu:<br />
đối tượng được đánh giá tình trạng nha chu qua<br />
các chỉ số mảng bám (PlI) theo Silness và Loe<br />
1964, chỉ số nướu (GI) theo Loe và Silness 1963,<br />
chảy máu nướu khi thăm dò (BOP), độ sâu túi<br />
nha chu qua thăm dò (PPD).<br />
<br />
Kiểm định chi bình phương McNemar so<br />
sánh tỷ lệ của 2 quí.<br />
<br />
Các bước tiến hành nghiên cứu<br />
Bác sĩ sản khoa khám và xác định tuổi thai<br />
cho tất cả các sản phụ đến khám thai tại khoa<br />
sản BVAB. Những PNMT ở vào tuần thứ 10 đến<br />
tuần thứ 13 của thai kỳ được bác sĩ RHM giải<br />
thích mục đích nghiên cứu. Những sản phụ<br />
đồng ý việc theo dõi và khám thai theo đúng<br />
lịch hẹn tại BVAB trong suốt quá trình mang<br />
thai mới được chọn vào mẫu nghiên cứu.<br />
Việc phỏng vấn được thực hiện trong lần<br />
khám đầu tiên. Thư kí sẽ phỏng vấn bằng cách<br />
hỏi trực tiếp các câu hỏi theo như bảng câu hỏi<br />
đã soạn sẵn.<br />
Đối tượng được bác sĩ RHM khám đánh giá<br />
tình trạng nha chu trên tất cả các răng hiện diện<br />
trong miệng trừ các răng cối lớn thứ 3.<br />
Hẹn sản phụ tái đánh giá tình trạng nha chu<br />
ở quí 2 và quí 3 kết hợp theo lịch hẹn của bác sĩ<br />
sản khoa.<br />
Xác định viêm nướu dựa theo điểm của GI.<br />
Viêm nướu khi chỉ số GI ≥ 0,1.<br />
Mức độ viêm nướu: dựa trên điểm của GI<br />
chia làm 3 mức độ viêm nướu:<br />
0,1 1: Viêm nướu nhẹ.<br />
1,1 2: Viêm nướu trung bình.<br />
2,1 3: Viêm nướu nặng.<br />
<br />
104<br />
<br />
Kiểm định ANOVA đo lường lặp lại so sánh<br />
3 số trung bình của 3 quí.<br />
<br />
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br />
Giá trị các chỉ số nha chu và sự thay đổi<br />
của những chỉ số này theo các quí của thai<br />
kỳ<br />
Chỉ số mảng bám (PlI)<br />
PlI nói lên tình trạng vệ sinh răng miệng của<br />
bệnh nhân. Trong nghiên cứu của chúng tôi,<br />
trung bình PlI giảm từ quí 1 đến quí 2 và quí 3.<br />
Tuy nhiên sự giảm này không có ý nghĩa thống<br />
kê (Bảng 1). Kết quả này tương tự như kết quả<br />
nghiên cứu dọc của các tác giả Tilakaratne,<br />
Gursoy và Figuero(4,5,15).<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy có khuynh<br />
hướng giảm mức chỉ số mảng bám trong suốt<br />
thai kỳ. Điều này có thể lý giải do hiệu quả của<br />
việc hướng dẫn vệ sinh răng miệng sau mỗi lần<br />
khám. Nghiên cứu của Gursoy (2008) đã cho<br />
thấy giảm mức PlI ở những PNMT được hướng<br />
dẫn vệ sinh răng miệng trong lần khám đầu.<br />
Ngoài ra, chỉ số mảng bám cao ở quí 1 cũng có<br />
thể do tình trạng nôn ói trong suốt những tuần<br />
đầu của thai kỳ. Hầu hết các PNMT cho rằng<br />
gần như không thể chải răng, đặc biệt ở vùng<br />
răng sau do sự nôn ói liên quan thai nghén.<br />
<br />
Chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm<br />
khám (BOP) và độ sâu túi nha chu qua thăm<br />
dò (PPD)<br />
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy trung bình GI,<br />
BOP, PPD thay đổi có ý nghĩa suốt thai kỳ. GI,<br />
BOP, PPD tăng có ý nghĩa từ quí 1 đến quí 2,<br />
sau đó các chỉ số này giảm có ý nghĩa ở quí 3<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012<br />
của thai kỳ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi<br />
giống nghiên cứu dọc của Gursoy và<br />
Fernando(3,5). Kết quả của Fernando cho thấy GI,<br />
BOP, PPD tăng từ quí 1 đến quí 3 của thai kỳ<br />
nhưng đạt đỉnh điểm ở tháng thứ 7, sau đó giảm<br />
ở tháng cuối của thai kỳ. Ngoài ra, Wandera<br />
(2009)(16) cũng nhận thấy BOP ở quí 2 cao hơn ở<br />
quí 3 của thai kỳ.<br />
Sự tăng và giảm chỉ số GI, BOP và PPD<br />
trong nghiên cứu của chúng tôi có thể lý giải là<br />
do có mối liên quan đến sự thay đổi mức<br />
hormone trong thời kỳ mang thai. Vì nồng độ<br />
hormone progesterone và estrogen trong máu<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
bắt đầu tăng từ tháng thứ 2, tăng liên tục đến<br />
tháng thứ 8. Sau tháng thứ 8 có sự giảm đột ngột<br />
bài tiết các hormone này(7,11). Trong khi đó việc<br />
khám đánh giá của chúng tôi thực hiện ở cuối<br />
quí 3 (tức là tháng thứ 9 của thai kỳ), điều này<br />
phần nào lý giải cho sự giảm chỉ số GI, BOP và<br />
PPD ở quí 3 của chúng tôi.<br />
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi<br />
khác với nghiên cứu dọc của Tilakaratne (2000)<br />
và Figuero (2010). Hai tác giả này nhận thấy chỉ<br />
số GI tăng từ quí 1 đến quí 2 và tiếp tục tăng khi<br />
sang quí 3.<br />
<br />
Bảng 1: Trung bình các chỉ số nha chu (PlI, GI, PPD, vị trí BOP) ở 3 quí của thai kỳ.<br />
Thời gian khám<br />
Trung bình PlI<br />
<br />
Tuần 10 – 13 (Quí 1)<br />
1,27 ± 0,25<br />
<br />
Tuần 20 – 25 (Quí 2)<br />
1,25 ± 0,24<br />
<br />
Tuần 32 – 36 (Quí 3)<br />
1,25 ± 0,25<br />
<br />
p<br />
<br />
Giá trị p<br />
Trung bình GI<br />
<br />
p1-2= 0,16<br />
1,21 ± 0,14<br />
<br />
p2-3 = 0,83<br />
1,32 ± 0,15<br />
<br />
p1-3 = 0,49<br />
1,27 ± 0,15<br />
<br />
p*=0,53<br />
<br />
Giá trị p<br />
Trung bình PPD<br />
<br />
p1-2 < 0,001<br />
1,82 ± 0,27<br />
<br />
p2-3 = 0,02<br />
1,99 ± 0,32<br />
<br />
p1-3 = 0,05<br />
1,89 ± 0,35<br />
<br />
p*