intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tối ưu độ tin cậy truyền dữ liệu cho hệ thống nuôi tôm dựa vào nền tảng kết nối vạn vật

Chia sẻ: Vi4mua Vi4mua | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

53
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đề xuất một giao thức lai bằng việc cho phép các nút trung gian tham gia vào quá trình chuyển tiếp các gói mang thông tin để giám sát và cảnh báo cho người quản lý của một đầm nuôi tôm, dựa trên chuẩn EEE 802.11 sử dụng các thiết bị cảm biến có sẵn trên thị trường hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tối ưu độ tin cậy truyền dữ liệu cho hệ thống nuôi tôm dựa vào nền tảng kết nối vạn vật

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 3(124).2018<br /> <br /> 59<br /> <br /> TỐI ƯU ĐỘ TIN CẬY TRUYỀN DỮ LIỆU CHO HỆ THỐNG NUÔI TÔM<br /> DỰA VÀO NỀN TẢNG KẾT NỐI VẠN VẬT<br /> A NEW SCHEME FOR INTERNET OF THINGS BASED SHRIMP FARMING SYSTEMS<br /> TO IMPROVE RELIABLE DATA FORWARDING<br /> Nguyễn Xuân Sâm, Nguyễn Hồng Sơn<br /> Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông; samnx@ptithcm.edu.vn<br /> Tóm tắt - Ứng dụng kết nối vạn vật trở nên cấp thiết và là xu hướng<br /> phát triển tất yếu cho nông - ngư nghiệp trong cuộc cách mạng công<br /> nghiệp lần thứ tư. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đề xuất một<br /> giao thức lai bằng việc cho phép các nút trung gian tham gia vào quá<br /> trình chuyển tiếp các gói mang thông tin để giám sát và cảnh báo cho<br /> người quản lý của một đầm nuôi tôm, dựa trên chuẩn EEE 802.11 sử<br /> dụng các thiết bị cảm biến có sẵn trên thị trường hiện nay. Việc đề xuất<br /> này đảm bảo rằng gói thông tin được truyền từ một nguồn bất kỳ có tối<br /> đa cơ hội đến điểm đích trong các điều kiện môi trường truyền thay đổi<br /> khác nhau. Nghiên cứu của nhóm tác giả đánh giá hai thông số là hiệu<br /> suất truyền gói tin và độ trễ truyền gói tin trung bình từ một điểm nguồn<br /> đến điểm đích. Thực thi mô phỏng cho thấy hệ thống đề xuất cho kết<br /> quả tốt hơn hệ thống không sử dụng mô hình chuyển tiếp.<br /> <br /> Abstract - The Fourth Industrial Revolution is offering great<br /> opportunities to smart agriculture solutions and internet of things<br /> which is now common trends. In this paper, we propose a new<br /> scheme to improve reliable data forwarding internet of things based<br /> shrimp farming systems by combining relay communications and<br /> automatic repeat request mechanism of IEEE 802.11. By this way,<br /> there would be a better chance for forwarding packets from a<br /> source node to the destination node in fading and shadowing<br /> environment. Our experimental results show that the proposed<br /> scheme provides a better performance than non-assisted relay<br /> communications of IEEE 802.11 in terms of the packet delivery<br /> ratio and average end-to-end delay.<br /> <br /> Từ khóa - hệ thống nuôi tôm (HTNT); kết nối vạn vật (KNVV); độ<br /> tin cậy (ĐTC); hiệu suất truyền gói tin (HSTGT); thời gian trung<br /> bình truyền gói tin (TGTBTGT).<br /> <br /> Key words - shrimp farming systems (SFS); Internet of Things<br /> (IoT); reliable communications (RC); packet deliverry ratio (PDR);<br /> end-to-end delay (E2ED).<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Hiện nay, nhu cầu ứng dụng kết nối vạn vật (KNVV)<br /> trong nông - ngư nghiệp đang là một xu hướng tất yếu. Việc<br /> này có ý nghĩa đặc biệt khi xuất khẩu thủy sản trở thành<br /> ngành kinh tế dẫn đầu cho xuất khẩu và phát triển kinh tế<br /> ở nước ta. Tuy nhiên, một trong những thách thức đối với<br /> ngành này là dịch bệnh, mà nguyên nhân chủ yếu đến từ<br /> việc thay đổi nhiệt độ, độ mặn và độ pH của nước trong<br /> đầm do các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo gây ra.<br /> Việc ứng dụng KNVV để tự động hóa các quá trình phát<br /> hiện, cảnh báo và điều chỉnh thiết bị cho hệ thống nuôi thủy<br /> sản như là bơm thức ăn, thiết bị đóng và mở dòng nước,<br /> v.v…, không những góp phần tăng năng suất mà còn hạn<br /> chế được việc thay đổi các chỉ số bất thường ảnh hưởng<br /> đến sinh trưởng của các loài thủy sản. Vì vậy, nhóm tác giả<br /> dành sự quan tâm đặc biệt cho phát triển các nghiên cứu<br /> ứng dụng KNVV nhằm thu thập thông tin, đưa ra cảnh báo<br /> thay đổi nhiệt độ của nước và ngưỡng pH trong đầm tôm,<br /> nhằm giảm thiểu các rủi ro cho đầm tôm.<br /> Trong bài báo này, biểu diễn mô hình của một đầm nuôi<br /> tôm được nhóm tác giả minh họa trong Hình 1. Mô hình<br /> này được cắt thành ba lớp, lớp thứ nhất bao gồm các thiết<br /> bị cảm biến không dây có tích hợp đầu đo pH và nhiệt độ.<br /> Lớp thứ hai bao gồm các điểm truy cập đóng vai trò là các<br /> cổng vào ra kết nối với Internet để chuyển tiếp dữ liệu thu<br /> thập từ các thiết bị cảm biến đến trung tâm thu thập dữ liệu<br /> và thiết bị theo dõi đầu cuối. Lớp thứ ba gồm trung tâm<br /> quản lý dữ liệu bao gồm người quản lý đầm tôm, trung tâm<br /> tư vấn và phân tích, trung tâm hỗ trợ các dịch vụ chăm sóc<br /> thủy sản. Cấu trúc ba lớp này được sử dụng phổ biến trong<br /> các nghiên cứu gần đây [1].<br /> Mặc dù cấu trúc ba lớp này đang cung cấp một kết nối<br /> <br /> thông suốt từ thiết bị cảm biến đến người quản lý cho phép<br /> hệ thống thu thập các dữ liệu thay đổi tức thời và người<br /> dùng nhận được các cảnh báo mọi lúc và mọi nơi. Tuy<br /> nhiên, vấn đề đặt ra là độ tin cậy của các thông tin nhận<br /> được để người sử dụng đưa ra các quyết định thay đổi hiện<br /> trạng. Ví dụ, nếu có thông tin cảnh báo quá ngưỡng pH ảnh<br /> hưởng đến sinh vật, việc thải nước có độ pH cao và bơm<br /> nước vào là cần thiết. Quyết định này không những ảnh<br /> hưởng đến sự tồn vong của sinh vật trong đầm mà còn thay<br /> đổi kế hoạch sản xuất.<br /> <br /> Hình 1. Mô hình của một đầm nuôi tôm dựa vào KNVV<br /> <br /> Do đó, thông tin trích xuất từ các dữ liệu do thiết bị cảm<br /> biến gửi về phải tin cậy. Tuy nhiên, các thiết bị cảm biến này<br /> có thể được đặt dưới mặt nước, trên mặt nước và phân bố vị<br /> trí của các thiết bị này có thể bị thay đổi so với thiết kế ban<br /> đầu do sự tác động của các điều kiện tự nhiên như gió, dao<br /> động của mặt nước. Do đó, các kết nối không dây liên kết từ<br /> điểm tạo ra tin (nút nguồn) và điểm nhận tin (nút đích) bị dao<br /> động mạnh và không đảm bảo chất lượng cho việc truyền<br /> gói tin. Việc tái cấu hình kết nối ở lớp thứ nhất để thích ứng<br /> với điều kiện trên là cần thiết, nhằm giảm thiểu sự mất các<br /> <br /> Nguyễn Xuân Sâm, Nguyễn Hồng Sơn<br /> <br /> 60<br /> <br /> gói tin và đảm bảo việc truyền các gói tin có độ trễ thấp.<br /> Trong bài báo này, nhóm tác giả đề xuất một giao thức<br /> lai ghép bằng việc cho phép các nút trung gian tham gia vào<br /> quá trình một nút nguồn gửi các gói tin đến một nút đích cho<br /> HTNT. Việc này đảm bảo rằng gói tin được truyền từ một<br /> nguồn bất kỳ có tối đa cơ hội đến điểm đích trong các điều<br /> kiện môi trường truyền thay đổi khác nhau. Nghiên cứu của<br /> nhóm tác giả đóng góp trên một số nội dung sau:<br /> Sử dụng giải mã và chuyển tiếp (DaF) để lựa chọn tập<br /> nút chuyển tiếp. Khác với các nghiên cứu trước đây, nhóm<br /> tác giả chỉ ra sự lựa chọn ngưỡng tỷ số tín hiệu trên nhiễu<br /> SNR và quan hệ giữa SNR và tỷ số bit lỗi BER trong hệ<br /> thống nhóm tác giả thiết kế. Việc này không những có khả<br /> năng giảm thiểu việc tranh chấp sử dụng kênh truyền mà<br /> còn tạo ra một tập các nút có độ tin cậy cao tham gia vào<br /> quá trình chuyển tiếp thông tin.<br /> Nhóm tác giả bổ sung gói NACK cho việc thông báo<br /> nút đích không tiếp nhận thành công gói tin được gửi trực<br /> tiếp từ nút nguồn và kích hoạt quá trình chuyển tiếp gói tin<br /> từ các nút chuyển tiếp. Thêm vào đó, nhóm tác giả đề xuất<br /> việc chọn nút chuyển tiếp dựa vào việc sửa đổi các gói tin<br /> có sẵn tiến trình trong thuật toán tránh xung đột CSMA/CA<br /> trong giao thức chuẩn IEEE 802.11.<br /> Phần còn lại của nghiên cứu này được tổ chức như sau:<br /> Phần hai mô tả các nghiên cứu liên quan gần đây; Phần ba<br /> mô tả khung lý thuyết, mô hình toán học, thuật toán và phân<br /> tích giao thức đề xuất; Phần bốn mô tả cấu hình mô phỏng,<br /> đánh giá và phân tích kết quả mô phỏng; Phần năm là kết<br /> luận và đề xuất hướng đi tiếp theo cho nghiên cứu này.<br /> 2. Các nghiên cứu liên quan<br /> Nghiên cứu [2] về nguồn nước cho các khu vực nuôi<br /> trồng thủy sản bị tác động mạnh do sự tác động của các yếu<br /> tố tự nhiên và nhân tạo. Các thông số bị thay đổi trong một<br /> đầm nuôi thủy sản là biên độ dao động nhiệt độ, độ pH,<br /> v.v…, việc theo dõi chất lượng nước thông qua việc giám<br /> sát các thông số trên là cần thiết để giảm thiểu nguy cơ xuất<br /> hiện bệnh cho các loài thủy sản. Gần đây, các hệ thống theo<br /> dõi những thông số trên đã được đưa vào sử dụng rộng rãi<br /> trong các đầm nuôi tôm ở ven biển Trung bộ và khu vực<br /> đồng bằng sông Cửu Long.<br /> Bảng 1. Tiêu chuẩn chất lượng nước ao nuôi tôm [3]<br /> Chất lượng Giới hạn<br /> Mức độ gây độc<br /> nước<br /> thích hợp<br /> pH<br /> 7-9<br /> < 4 và > 11 tôm chết;<br /> 4 - 7 và 9 – 11, tôm<br /> chậm lớn<br /> < 14 và > 35 tôm<br /> chết; 14-18 tôm bỏ<br /> Nhiệt độ<br /> 22 - 32<br /> ăn; 18-25 chậm lớn<br /> <br /> Yếu tố ảnh<br /> hưởng<br /> Dư thừa thức ăn,<br /> mật độ tảo, pH<br /> của đất, mưa<br /> Mùa vụ<br /> <br /> Trong nghiên cứu [3], các thông số cơ bản cho tiêu<br /> chuẩn chất lượng nước được đề xuất trong Bảng 1. Các<br /> thiết bị cảm biến hiện có đáp ứng đầy đủ được các thông<br /> số được khảo sát. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có những<br /> nghiên cứu đầy đủ về việc đưa ra các quyết định hỗ trợ như:<br /> xác định lượng nước cần bơm vào hoặc rút ra khỏi đầm,<br /> điều chỉnh lượng thức ăn tránh tác động gây hại lên chất<br /> lượng nước trong đầm. Trên thực tế, các yếu tố ảnh hưởng<br /> đến chất lượng nước trong đầm có thể đa dạng. Để giảm độ<br /> <br /> phức tạp cho nghiên cứu này, chỉ có hai tham số được xem<br /> xét, đó là độ pH và nhiệt độ.<br /> Trong các hệ thống cảnh báo phổ thông dựa vào nền tảng<br /> KNVV đã được đề xuất sử dụng hiện nay, thiết bị cảm biến<br /> đầu cuối sử dụng lõi điều khiển là bộ Arduino Uno dựa trên<br /> vi điều khiển Atmega 238P [4], các liên kết không dây sử<br /> dụng cho truyền dữ liệu giám sát độ pH và nhiệt độ sử dụng<br /> các mô-đun không dây EPS8266 [5] chuẩn IEEE 802.11b/g/n<br /> [6]. Cấu hình mạng ở lớp thứ nhất trong mô hình dùng để liên<br /> kết điểm thu thập thông tin cảm biến (nút nguồn) và điểm<br /> chuyển tin về hệ thống giám sát (nút đích) qua mạng Internet<br /> trong lớp thứ nhất thường là mạng hình sao. Ưu điểm của cấu<br /> trúc này là đơn giản trong việc triển khai hệ thống. Tuy nhiên,<br /> cấu trúc này không những chưa khai thác đầy đủ khả năng<br /> hợp tác của các nút trong mạng mà còn không đảm bảo đầy<br /> đủ chất lượng cho việc truyền gói tin, vì chất lượng kết nối<br /> trực tiếp từ nút nguồn đến nút đích bị tác động của các điều<br /> kiện tự nhiên như gió, dao động của mặt nước.<br /> Để đảm bảo độ tin cậy cho việc chuyển các gói tin như<br /> là gói tin thông báo pH và nhiệt độ từ nút nguồn đến nút đích,<br /> chuẩn IEEE 802.11b/g/n [6] sử dụng các kỹ thuật ARQ và<br /> FEC tại lớp MAC để phát hiện các lỗi trong quá trình truyền.<br /> Trong các hệ thống có kích cỡ gói tin nhỏ, năng lượng và<br /> khả năng xử lý hạn chế, ARQ thường được sử dụng. Trong<br /> kỹ thuật ARQ, nếu nút nguồn không nhận được gói tin ACK<br /> sau khi gửi gói tin cho nút đích, nút nguồn sẽ truyền lại gói<br /> tin trên sau một khoảng thời gian chờ. Phương pháp này có<br /> thể cải thiện được độ tin cậy cho việc truyền dữ liệu. Tuy<br /> nhiên, trong một số trường hợp, việc sử dụng ARQ không<br /> phát huy được tác dụng do chất lượng kênh truyền từ nút<br /> nguồn đến nút đích kém. Thêm vào đó, một đặc tính khác<br /> của ARQ là việc phát lại gói tin từ nguồn sau một thời gian<br /> sẽ gây ra thời gian trễ truyền tin.<br /> Gần đây, các mô hình chuyển tiếp sử dụng lý thuyết<br /> truyền thông hợp tác (TTHT) [7, 8]. Tùy thuộc vào các chất<br /> lượng của dịch vụ của ứng dụng cụ thể, việc kết hợp các<br /> mô hình chuyển tiếp trong TTHT có thể tối ưu các mục tiêu<br /> đặt ra cho hệ thống kết nối. Trong các mô hình chuyển tiếp<br /> đã được công bố, kỹ thuật giải mã và chuyển tiếp DaF [8]<br /> cho phép hệ thống chọn ra những nút chuyển tiếp có tín<br /> hiệu thu được là tốt hơn, do việc đưa ra ngưỡng tín hiệu<br /> trên nhiễu SNR cho phép máy thu giải mã thành công. Tuy<br /> nhiên, thách thức lớn nhất cho mô hình này là việc chọn<br /> nút chuyển tiếp để giảm xung đột truyền tin, trong khi phải<br /> đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ rớt gói tin thấp nhất.<br /> Về cơ bản, việc sử dụng kỹ thuật chuyển tiếp trên chỉ có<br /> tác dụng khi chất lượng liên kết kênh truyền từ nút nguồn<br /> đến nút đích không đảm bảo chất lượng, dẫn đến việc rớt gói<br /> tin tại nút đích và việc sử dụng ARQ để truyền lại gói tin tại<br /> nút nguồn không hiệu quả. Trong nghiên cứu [9], kỹ thuật<br /> lựa chọn một nút chuyển tiếp tốt nhất dựa trên phương pháp<br /> DaF được đề xuất. Về cơ bản, kỹ thuật này cho phép tối ưu<br /> việc sử dụng năng lượng mạng và chọn được nút chuyển tiếp<br /> có tỷ số tín hiệu trên nhiễu (SNR) cực đại. Theo nghiên cứu<br /> này, tỷ lệ mất gói sẽ thấp nếu số lượng nút trong mạng tăng.<br /> Tuy nhiên, thuật toán tìm nút chuyển tiếp tốt nhất trong<br /> nghiên cứu này được xem là phức tạp do việc sử dụng các<br /> gói tin báo hiệu để xác định nút chuyển tiếp tốt nhất.<br /> Một phương pháp chọn lựa nút chuyển tiếp đơn giản<br /> <br /> ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 3(124).2018<br /> <br /> hơn được mô tả trong giao thức CoARQ [10], giao thức<br /> này được đề xuất để chọn nút chuyển tiếp bằng việc sử<br /> dụng các gói RRTS/RCTS và NACK. Gói NACK được gửi<br /> từ nút đích đề xuất trợ giúp bằng việc chuyển tiếp, do nó<br /> không nhận được gói tin từ nút nguồn. Gói RRTS/RCTS là<br /> gói báo hiệu dùng để chọn ra kênh truyền từ nút chuyển<br /> tiếp đến nút đích có chất lượng liên kết tốt nhất. Bằng các<br /> tiến trình tuần tự, CoARQ giảm thiểu việc rớt gói tin tại nút<br /> đích và tăng thông lượng mạng. Tuy nhiên, nghiên cứu này<br /> không chỉ rõ và không giới hạn số lượng các nút trong<br /> mạng tham gia quá trình chọn nút chuyển tiếp.<br /> Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đề xuất một mô<br /> hình lai ghép, nhằm đảm bảo gói thông tin được truyền từ<br /> một nguồn bất kỳ có tối đa cơ hội đến điểm đích với độ trễ<br /> cho phép. Đề xuất này có ý nghĩa trong việc không thay đổi<br /> hiện trạng mà vẫn có thể cải thiện được chất lượng truyền<br /> tin của hệ thống có sử dụng chuẩn IEEE 802.11.<br /> 3. Tối ưu mô hình đề xuất<br /> 3.1. Phương pháp tiếp cận<br /> <br /> Rn<br /> Rm<br /> R2<br /> S<br /> <br /> 61<br /> <br /> thể xác định SNR đề xuất theo công thức (1):<br /> BER = ½*erfc(S/N)½<br /> (1)<br /> Trong đó, BER là tỷ số lỗi bít. Dựa vào công thức (1),<br /> nếu hệ thống cho trước yêu cầu chất lượng tốt (BER nhỏ)<br /> thì SNR sẽ lớn. Trong Hình 3, nhóm tác giả mô tả giá trị lý<br /> thuyết cho mối quan hệ này. Theo đó, với một giá trị BER<br /> đã cho trước ta có thể xác định một giá trị SNR tương ứng,<br /> ta gọi là SNR đề xuất (SNRth). Do yêu cầu BER của các hệ<br /> thống khác nhau là khác nhau nên chúng ta cần phải đặt ra<br /> yêu cầu trước khi thiết kế hệ thống. Việc thay đổi BER<br /> thường được đánh đổi với tiêu chí chi phí, hoặc độ phức<br /> tạp của hệ thống. Đối với một hệ thống truyền tin có độ tin<br /> cậy cao, yêu cầu giá trị BER lớn hơn 10-5, tương ứng với<br /> SNR đề xuất là 8,8 dB cho kiểu điều chế BPSK.<br /> Phương pháp tiếp cận này dựa vào sự quan sát tiêu chuẩn<br /> chất lượng các đầm tôm trong nghiên cứu [3] với kích cỡ<br /> nhỏ, khoảng từ 500x500 (m2) đến 1.000x100 (m2), với sự<br /> hiện diện của của các nút và các loại cảm biến không nhiều<br /> (khoảng 10 nút), cùng hoạt động. Do đó, việc hợp tác giữa<br /> các nút trong việc chia sẻ và tương hỗ đảm bảo mục tiêu đặt<br /> ra là tạo ra một tập các nút (lớn hơn một) có độ tin cậy cao<br /> tham gia vào quá trình chuyển tiếp thông tin. Việc này không<br /> những tạo ra sự thích ứng với các điều kiện thay đổi của môi<br /> trường truyền như việc nút nguồn bị che chắn, xê dịch, hoặc<br /> nút nguồn bị chìm một phần trong môi trường nước.<br /> <br /> R3<br /> <br /> R1<br /> <br /> D<br /> <br /> Hình 2. Biễu diễn mô hình TTHT sử dụng DaF<br /> <br /> Mô hình mạng TTHT sử dụng kỹ thuật giải mã và<br /> chuyển tiếp (DaF) được mô tả trong Hình 2. Việc truyền tin<br /> trong mô hình này được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn<br /> một là quá trình truyền gói tin từ nút nguồn (S) đến nút đích<br /> (D) và giai đoạn hai là việc chuyển tiếp gói tin trên từ một<br /> nút chuyển tiếp (R) đến nút đích (D). Trong mô hình này, có<br /> n nút có thể tham gia vào quá trình chuyển tiếp gói tin được<br /> truyền từ nút nguồn (S) đến nút đích (D). Bằng cách sử dụng<br /> kỹ thuật giải mã và chuyển tiếp DaF, có m (m < n) nút trung<br /> gian nhận được và giải mã thành công tín hiệu của gói tin<br /> trên. Khi một gói tin được truyền từ nút nguồn (S) đến nút<br /> đích (D) không được giải mã thành công, nút đích (D) sẽ<br /> kích hoạt gói tin NACK gửi bằng giao thức quảng bá. Các<br /> nút trung gian thỏa mãn hai điều kiện: (1) đã giải mã thành<br /> công gói tin nút nguồn (S) đến nút đích (D) trong giai đoạn<br /> một và (2) nhận được gói tin NACK từ nút đích (D) sẽ tham<br /> gia vào quá trình cạnh tranh cho việc chuyển tiếp.<br /> Bằng cách đề xuất một ngưỡng giá trị SNRth cho tín hiệu<br /> nhận được, kỹ thuật giải mã và chuyển tiếp DaF cho phép<br /> máy thu tiến hành giải mã và chuyển tiếp thông tin thu được<br /> nếu tín hiệu nhận được có giá trị SNR lớn hơn SNRth. Giá<br /> trị SNRth này được xác định dựa vào mối quan hệ giữa yêu<br /> cầu chất lượng dịch vụ (QoS), được tính bằng giá trị BER<br /> tương ứng cho từng loại điều chế trong phần cứng hệ thống<br /> truyền tin và SNR cho từng loại điều chế tương ứng. Ví dụ<br /> như chuẩn IEEE 802.11, thường sử dụng phương thức điều<br /> chế BPSK và QPSK. Nếu chọn BPSK cho hệ thống, ta có<br /> <br /> Hình 3. Quan hệ giữa SNR và BER trong BPSK<br /> <br /> 3.2. Mô hình toán học<br /> Để thuận tiện cho việc thiết kế hệ thống, nhóm tác giả<br /> đưa ra mô hình toán học cho mô hình trong Hình 2, trong<br /> đó SNR của liên kết giữa nút nguồn và nút đích được ký<br /> hiệu SD, SNR của liên kết giữa nút nguồn và nút chuyển<br /> tiếp được ký hiệu SR và SNR của liên kết giữa nút chuyển<br /> tiếp và nút đích được ký hiệu RD. Theo nghiên cứu [8], SD,<br /> SRi và RiD được tính như sau:<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2